Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG của học VIÊN học VIỆN CẢNH sát NHÂN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng cập nhật giá trị
và hoàn thiện giá trị của mình. Để tồn tại và phát triển, với bất kỳ ai, việc có
công việc làm để đảm bảo sự tồn tại của cuộc sống là vô cùng quan trọng. Đồng
thời với đó là yêu cầu học tập, bồi dưỡng, rèn luyện không ngừng để nâng cao
chất lượng đời sống đó, để đời sống thực sự là “sống” chứ không là “tồn tại”.
Trong một môi trường thay đổi liên tục về CNTT, toàn cầu hóa ảnh
hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, kỹ năng sống là một
phần thiết yếu của việc có thể để đáp ứng những thách thức của cuộc sống
ngày nay. Để đối phó với tốc độ ngày càng tăng và sự thay đổi của cuộc sống
hiện đại, sinh viên cần có kĩ năng như khả năng để đối phó với sự căng thẳng
và thất vọng. Ngày nay, học viên, sinh viên sẽ phải tham gia nhiều hoạt động
mới trong quá trình tham gia giáo dục của mình, đối mặt với nhiều áp lực của
việc học tập và giao tiếp xã hội...
Do vậy, để giúp học viên, sinh viên thích ứng với môi trường giáo
dục và xã hội hiện nay cần trang bị và đào tạo cho các em những kĩ năng cần
thiết để các em học tập và sinh hoạt trong môi trường hiện đại ngày nay. Ở
Việt Nam chúng ta hiện nay, Giáo dục - đào tạo còn đang quá chú trọng đến
trang bị kiến thức mà chưa chú trọng đến trang bị kĩ năng nói chung và kĩ
năng sống nói riêng. Nguyên nhân căn cốt đó là: Việc nhận diện cái cần rèn
luyện để trở thành chuyên nghiệp chưa được xác định đúng, kĩ năng cần có thì
không đảm bảo. Tại Mỹ, từ những năm 1916, người Mỹ đã nhận ra rằng tri
thức nhân loại là rất lớn nhưng để thực hành thành thạo và áp dụng, ứng dụng
vào cuộc sống thì thường không như mong muốn. Cho nên mỗi người dân lao
động tại Mỹ phải đảm bảo thực hành và phải được các tổ chức công nhận là
đã qua 13 kĩ năng bắt buộc. Đã đến lúc giáo dục Việt Nam cần nhìn nhận và
đưa vấn đề giáo dục kĩ năng nói chung và kĩ năng sống nói riêng vào các môn
3



học nhà trường, đây là một vấn đề mang tính chiến lược và cấp thiết trong
thời kì hội nhập quốc tế của nước ta.
Xác định nhiệm vụ chính trị trong tình hính mới, các Học viện, nhà trường
Công an nhân dân đã cùng với sinh viên xác định được trách nhiệm của mình là
phải học tập rèn luyện tốt để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng và của nhân
dân. Nhận thức được điều đó sinh viên đã nỗ lực phấn đấu học tập nâng cao trình
độ về mọi mặt, thường xuyên rèn luyện đạo đức, nhân cách của mình. Trong học
tập và rèn luyện sinh viên đã khắc phục được những khó khăn, thử thách để tự
vươn lên. Học viên, sinh viên là người giữ vai trò quyết định đến quá trình rèn
luyện kĩ năng sống, bản lĩnh chính trị của mình. Họ hiểu rằng nhà trường là yếu
tố tạo cho mình có sự nhận thức đúng đắn về kĩ năng sống, bản lĩnh chính trị và
nó mang tính định hướng, còn có được kĩ năng sống, bản lĩnh chính trị hay
không thì phải có quá trình giáo dục và quá trình tự nhận thức đó thành hành
động của bản thân mình thì mới có kĩ năng sống, bản lĩnh chính trị.
Bên cạnh những học viên, sinh viên tốt nghiệp ra trường có kĩ năng
sống, bản lĩnh chính trị vững vàng, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao dù
ở bất cứ cương vị nào, địa bàn công tác nào thì vẫn có những học viên, sinh
viên không đạt được những tiêu chí chung đó. “Trong quá trình học tập, rèn
luyện, một số học viên, sinh viên không chú trọng đến rèn luyện nhân cách,
đạo đức, kĩ năng sống của mình, coi thường kỷ cương kỷ luật, tự do buông thả
mình. Lối sống thực dụng, vị kỷ, vì tiền đã làm cho một số sinh viên xa rời lý
tưởng của mình, chạy theo những ham muốn tầm thường. Tình trạng uống
rượu bia say, đánh nhau, đánh bạc, vi phạm nội quy của nhà trường trong sinh
viên còn nhiều”[2]. Với tình hình trên, cho chúng ta thấy việc cần thiết quản
lý giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, và kĩ năng
sống cần được coi như một kĩ năng thiết yếu trong các trường nói chung và
các Học viện, nhà trường Công an nhân dân nói riêng.

4



Trên góc độ này, Học viện Cảnh sát nhân dân, đã nhận thức khá rõ vai
trò trong việc quản lý giáo dục kĩ năng sống của sinh viên Học viện. Đặc
trưng của lực lượng vũ trang, đặc điểm đào tạo theo quy chế ngành, điều lệnh
nội vụ Công an nhân dân, yêu cầu công tác của ngành là thế mạnh đặc trưng
để giáo dục kĩ năng sống cho sính viên của các trường thuộc lực lượng vũ
trang nói chung.
Tuy nhiên, trên thực tế kĩ năng sống của học viên vẫn chưa được đào tạo
để phát huy hết giá trị của nó trong hoạt động học tập của học viên và thực
tiễn công tác ngoài xã hội. Do vậy, quản lý giáo dục kĩ năng sống góp phần
phát triển toàn diện nhân cách cho học viên Học viện Cảnh sát nhân dân là
vấn đề cấp thiết đặt ra trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo.
Có thể nói, vấn đề giáo dục kĩ năng sống và quán lý giáo dục kĩ năng
sống nói chung đã được xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu, nhưng chưa có
công trình nào đề cập tới vấn đề quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên
ngành Công an nói chung và học viên Học viện Cảnh sát nhân dân nói riêng.
Chính vì vậy, vấn đề “Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên Học viện
Cảnh sát nhân dân” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý giáo dục góp phần tăng cường phát triển toàn diện nhân cách cho học
viên Học viện trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin
truyền thông và hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những nghiên cứu ở nước ngoài
Thực tiễn giáo dục cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI cho thấy chỉ thông
qua con đường giáo dục, giá trị mới có thể tạo nên cơ sở bền vững cho việc
giải quyết khủng hoảng trong quá trình phát triển nhân cách của sinh viên.
Hội thảo Bali khái quát báo cáo tham luận của các quốc gia tham gia
hội thảo về giáo dục kĩ năng sống cho thanh niên đã xác định mục tiêu của
giáo dục kĩ năng sống cho giáo dục của các nước trong vùng Châu Á – Thái
5



Bình Dương nhằm nâng cao tiềm năng của con người để có hành vi thích ứng
và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi các tình huống của cuộc sống
hàng ngày, đồng thời tạo ra sự thay đổi và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tại nhiều nước phương Tây, thanh thiếu niên đã được học những kĩ
năng sống về những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và
đương đầu với những khó khăn, và cách vượt qua những khó khăn đó cũng
như cách tránh những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực giữa người và người.
Tại Hàn Quốc, học sinh tiểu học được học cách đối phó thích ứng với các
tai nạn như cháy, động đất, thiên tai... tại Trung tâm điều hành tình trạng
khẩn cấp Seoul. .
Nghiên cứu về quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, sinh viên
cũng đã có một số công trình đề cập đến và cho rằng đây là một biện pháp,
con đường để nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình giáo dục kĩ năng
sống. Tuy nhiên các nghiên cứu đó còn chưa nhiều và chưa thật sự có hệ
thống, chưa thấy rõ được tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề quản lý giáo dục
kĩ năng sống.
Trong khi học viên, sinh viên học tập chăm chỉ để có được điểm cao,
phấn đấu để có việc làm khi ra trường. Theo nghiên cứu của CBI (Liên đoàn
Công nghiệp Anh) vào năm 2011 người sử dụng lao động yêu cầu người lao
động ngoài trình độ chuyên môn còn phải chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ
năng trong làm việc, bao gồm: Khả năng tự quản lý, giải quyết các vấn đề và
hiểu được môi trường làm việc; Khả năng làm việc nhóm; Quản lý thời gian
và con người; Sự nhanh nhẹn và khả năng thích ứng với những vai trò khác
nhau và môi trường làm việc linh hoạt.
Mặc dù, giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên đã được nhiều nước quan
tâm và cùng xuất phát từ quan niệm chung về kĩ năng sống của Tổ chức y tế
thế giới hoặc của Unesco, nhưng quan niệm và nội dung giáo dục kĩ năng
sống ở các nước không giống nhau. Ở một số nước, nội hàm của khái niệm kĩ

6


năng sống được mở rộng, trong khi một số nước xác định nội hàm của khái
niệm kĩ năng sống chỉ gồm những khả năng tâm lí, xã hội.
Quan niệm, nội dung giáo dục kĩ năng sống được triển khai ở các nước
vừa thể hiện cái chung vừa mang tính đặc thù (những nét riêng) của từng quốc
gia. Mặt khác, ngay trong một quốc gia, nội dung giáo dục kĩ năng sống trong
lĩnh vực giáo dục chính quy và không chính quy cũng có sự khác nhau. Do
phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục kĩ năng sống nên
những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song chưa
toàn diện và sâu sắc. Cho đến nay chưa có quốc gia nào đưa được kinh
nghiệm hoặc hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng.
*Các nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, kĩ năng sống đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà
trường chủ yếu học sinh chỉ được dạy kĩ năng học tập và chính trị, còn việc
giáo dục kĩ năng sống chưa được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lý
Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: "hiện
nay, thuật ngữ kĩ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị
"lạm dụng" khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ
cũng chưa thật hiểu gì về nó". Theo Vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh
viên (Bộ Giáo Dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu
dài cần xây dựng chương trình môn học giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
lớp 1 đến lớp 12 .
Thuật ngữ kĩ năng sống được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ
chương trình của Unicef (1996) “giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khỏe và
phòng chống HIV/ AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường [10].
Thông qua quá trình thực hiện chương trình này. Nội dung của khái niệm kĩ
năng sống và giáo dục kĩ năng sống ngày càng được mở rộng.
Tác giả Hà Nhật Thăng, trong cuốn sách: “Giáo dục hệ thống giá trị

đạo đức nhân văn” (1998), đã nghiên cứu, đề xuất trang bị cho học sinh, sinh
7


viên hệ thống giá trị cốt lõi, cơ sở cở bản của nhân cách, rèn luyện để thế hệ
trẻ có những hành vi tương ứng với hệ thống giá trị đạo đức nhân văn cốt lõi,
phù hợp với yêu cầu của xã hội, của thời đại.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn
Tính, Vũ Phương Liên trong cuốn sách “Phương pháp giáo dục giá trị sống
và kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông” (2012) đã luận giải vấn đề
lồng ghép giữa giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống, trong đó giáo dục giá trị
sống luôn là nền tảng, kĩ năng sống là công cụ và phương tiện để tiếp nhận và
thể hiện giá trị sống. Nghiên cứu của các tác giả đã giúp cho giáo viên trung
học định hướng tổ chức thực hiện giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống trong
nhà trường, chỉ ra rằng giáo viên có thể tổ chức các giờ dạy hay hoạt động
giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống một cách riêng biệt hoặc lồng ghép
trong dạy học các môn học mà giáo viên đảm nhận.
Tác giả Nguyễn Công Khanh trong cuốn “Phương pháp giáo dục giáo
trị sống, kĩ năng sống” (2012) đã nghiên cứu về đổi mới, đa dạng hóa phương
pháp giáo dục giá trị sống và phát triển kĩ năng sống đáp ứng nhu cầu, hứng
thú, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh, sưu tầm các câu chuyện ẩn
chứa trong đó các triết lí, các bài học giáo dục giá trị sống…
Các tác giả Bùi Văn Trực, Phạm Thế Hưng – Trung tâm huấn luyện Kĩ
năng sống Phù Sa Đỏ, đã tập hợp các chuyên đề, bài giảng, phương pháp,
truyện ngụ ngôn… về giá trị sống, kĩ năng sống.
Chương trình phát triển giáo dục trung học cho lưu hành “Tài liệu tập
huấn giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lí – giáo dục cho học sinh
trung học”. Nhằm trang bị cho giáo viên quy trình, công cụ tư vấn và các loại
hình tư vấn học sinh một số vấn đề tâm lí mà học sinh có thể gặp phải, cách
giúp đỡ các em phòng ngừa, đối mặt và giải quyết trong các quan hệ xã hội.

Năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành tài liệu tập huấn
“Hiệu trưởng trường trung học với vấn đề giáo dục giá trị, kĩ năng sống và
8


giao tiếp ứng xử trong quản lí” do các tác giả Lục Thị Nga và Nguyễn Thanh
Bình biên soạn để triển khai trong ngành giáo dục.
Từ năm 2010 đến nay, nhiều tác giả đã chọn các đề tài có liên quan đến
quản lý giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh làm luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành quản lý giáo dục.
Tác giả Nguyễn Hữu Đức, với đề tài luận văn quản lý giáo dục : “Quản
lý giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường Trung học phổ thông Trần
Hưng Đạo – Nam Định trong giai đoạn hiện nay” (2010).
Đề tài: “Giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ
thông” - Mã số B2005-75-126, (Nguyễn Thanh Bình chủ nhiệm) cho thấy
rằng: học sinh trung học phổ thông có nhu cầu rất cao về kỹ năng sống;
(THPT Nguyễn Tất Thành, Đinh Tiên Hoàng (Hà Nội) và THPT Mỹ Hào
(Hưng Yên). Trong đó có 4 kỹ năng được học sinh xác định là rất cần được
giáo dục như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng xác định mục tiêu, kỹ năng ra
quyết định, giải quyết vấn đề và đã thiết kế một số chủ đề cốt lõi như: Kỹ
năng tự nhận thức; Kỹ năng xác định mục tiêu cho cuộc sống; Kỹ năng ra
quyết định và giải quyết vấn đề; Kỹ năng kiên định.
Tóm lại, trong những năm qua, giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường
đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Các công trình trên rất đa dạng,
phong phú, đã phân tích vấn đề giáo dục giá trị sống dưới nhiều góc độ khác
nhau và có chiều sâu. Đã làm rõ được nhiều vấn đề về cơ sở lý luận và thực
tiễn của giáo dục kĩ năng sống.
Qua việc nghiên cứu, tham khảo các công trình nghiên nêu trên, có thể
rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, vấn đề giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống

đã được đề cập và nghiên cứu rất lâu ở nước ngoài và ở nước ta. Các công
trình nghiên cứu, giáo trình, tài liệu đều nhấn mạnh tầm quan trọng, tính cấp
thiết của thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, giáo dục kĩ năng
9


sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống luôn là một trong những mối quan tâm
hàng đầu của các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý giáo dục, các nhà khoa học.
Hai là, vấn đề giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống
được nhiều tác giả nghiên cứu ở góc độ lý luận, cá biệt, có những công trình
mang tính kinh viện, chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất, mổ xẻ những cách
hiểu khác nhau về kĩ năng sống và những nội dung chung nhất của kĩ năng sống.
Chưa có nhiều công trình quan tâm giải quyết những đòi hỏi cấp bách của thực
tiễn là làm thế nào để giáo dục kĩ năng sống một cách có hiệu quả, hình thành kĩ
năng sống tốt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Ba là, đã có một số công trình nghiên cứu, hướng dẫn của Bộ giáo dục
và Đào tạo về giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống cho các
cấp các bậc học cụ thể, trên một địa bàn cụ thể. Cho tới thời điểm hiện tại,
chưa có công trình nghiên cứu về giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục
kĩ năng sống cho sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân.
Do vậy, đề tài” Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên Học viện
Cảnh sát nhân dân” là một nội dung mới, đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết từ
thực tế giáo dục tại Học viện Cảnh sát nhân dân.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn quản lý giáo dục kĩ năng sống
cho học viên; đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học
viên ở Học viện Cảnh sát nhân dân một cách khoa học, thiết thực, khả thi; qua
đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Cảnh sát nhân dân.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ một số vấn đề lý luận quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học
viên, sinh viên ở các trường đại học;
- Phân tích thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học viên và quản lý
giáo dục kĩ năng sống cho học viên ở Học viện Cảnh sát nhân dân;
10


- Đề xuất hệ thống biện pháp quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học
viên ở Học viện Cảnh sát nhân dân hiện nay.
- Khảo nghiệm tính cần thiết và tính 3khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học viên hệ đào tạo chính quy ở
Học viện CSND.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên sỹ quan Cảnh sát, hệ chính
quy ở Học viện CSND.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu về biện pháp quản lý giáo dục
kĩ năng sống cho học viên ở Học viện CSND.
- Về không gian, địa điểm: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý giáo
dục kĩ năng sống cho học viên sỹ quan Cảnh sát, hệ chính quy ở Học viện CSND.
- Về thời gian, các số liệu điều tra, khảo sát được giới hạn từ năm 2013
đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Chất lượng
giáo dục kĩ năng sống bị chi phối và phục thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có
quản lý giáo dục. Nếu trong quá trình quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học

viên Học viện CSND, các chủ thể quản lý thực hiện đồng bộ và hiệu quả các
vấn đề như: kế hoạch hóa quá trình giáo dục kĩ năng sống; tổ chức bồi dưỡng
nâng cao nhận thức, kiến thức, kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng
sống cho các lực lượng giáo dục và đội ngũ sinh viên; tổ chức các lực lượng
giáo dục thực hiện có chất lượng hoạt động giáo dục kĩ năng sống; hoàn thiện
cơ chế quản lý, xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy quản lý giáo dục
kĩ năng sống; phối hợp giữa nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội trong
11


giáo dục kĩ năng sống cho học viên; thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả
giáo dục kĩ năng sống thì sẽ quản lý có hiệu quả giáo dục kĩ năng sống của
Nhà trường góp phần phát triển toàn diện nhân cách của học viên, sinh viên,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, giáo dục - đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin; quán triệt sâu sắc tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, quản lý
giáo dục; dựa trên các quan điểm, nguyên tắc, phương pháp của khoa học
quản lý giáo dục. Lý luận về giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên
trong các Học viện, nhà trường.
* Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cụ thể là:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Hệ thống hóa, khái quát hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, nhà nước, các cơ quan chức năng về giáo dục kĩ năng sống và quản lý
giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên.
Nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp các số liệu, các

báo cáo về giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống của Học viện.
Nghiên cứu các giáo trình, sách tham khảo, tài liệu về khoa học quản lý và
quản lý giáo dục; các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học có liên quan đến
đề tài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo khoa học…
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học đối với 15 cán bộ quản lý,
200 giảng viên, 300 sinh viên để làm cơ sở đánh giá thực trạng, tìm nguyên
nhân và đề xuất các biện pháp trong quản lý giáo dục kĩ năng sống.
12


Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo, hoạt động dạy
học của giảng viên, hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên để rút ra những
kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Tọa đàm, trao đổi với cán bộ quản lý,
giảng viên và sinh viên từ đó rút ra những kết luận cho nhiệm vụ nghiên cứu.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu từ những vấn đề đã và
đang diễn ra nhằm đúc rút thành những kinh nghiệm về quản lý giáo dục kĩ
năng sống cho sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản
lý về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán
học để xử lý, phân tích, tổng hợp kết quả điều tra. Các phương pháp này được
sử dụng ở chương 2 và 3 của luận văn.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần phát triển và làm phong phú thêm cơ sở lý luận về
giáo dục kĩ năng sống và quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh
viên. Đồng thời đóng góp những luận cứ khoa học cho lãnh đạo, giảng viên,
học viên, sinh viên, các lực lượng tham gia giáo dục kĩ năng sống và quản lý

giáo dục kĩ năng sống cho học viên Học viện CSND.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong giao dục kĩ
năng sống cho các trường đại học trong lực lượng Công an nhân dân nói riêng
và các trường đại học nói chung, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở
các Học viện, nhà trường.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung với 3 chương (8 tiết), phần
kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC VIÊN, SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học
* Khái niệm kĩ năng sống
“Kĩ năng sống” là phạm trù mới được đưa vào nước ta và dã được nghiên
cứu, luận giải dưới nhiều bình diện khác nhau.
Trước hết khái niệm kĩ năng được hiểu là “khả năng thực hiện đúng hành
động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành
động ấy” [42].
Để hình thành được kĩ năng năng trước hết cần có kiến thức làm cơ sở cho
việc hiểu biết, luyện tập từng thao tác riêng rẽ cho đến khi thực hiện được một
hành động theo đúng mục đích yêu cầu.
Kĩ năng sống (life skill) là các kĩ năng con người cần có để tồn tại và phát
triển khi xem xét con người trên ba mối quan hệ:
- Con người với chính bản thân mình;
- Con người với các mối quan hệ xã hội;

- Con người trong các mối quan hệ với tự nhiên.
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, Kĩ năng sống là một tập hợp các
kĩ năng mà con người có được thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực
tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc
sống hàng ngày của con người.
Theo tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa “kĩ năng sống là "khả
năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó
hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo
dục tiểu học và giáo dục trung học, kĩ năng sống có thể là một tập hợp
những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc
14


sống hiện đại hóa; ví dụ cuộc sống bao gồm quản lý tài chính (cá nhân),
chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kĩ năng tổ chức. Đôi khi kĩ
năng sống, nhưng không phải luôn luôn, khác biệt với các kĩ năng nghiệp
vụ (trong nghề nghiệp).
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên Kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến
thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức
(phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng
vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
Theo WHO, kĩ năng sống được chia thành 2 loại là kĩ năng tâm lý xã
hội và kĩ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư
duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng
phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình
luận và phê phán, cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết.
Theo UNESCO, kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
- Học để biết (learn to know) gồm các kĩ năng tư duy như: tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định giải quyết vấn đề, nhận thức

được hậu quả…;
- Học để làm (learn to do) gồm các kĩ năng thực hiện công việc và làm
nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm….;
- Học để cùng chung sống (learn to live toghether) gồm các kĩ năng xã
hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm,
thể hiện sự cảm thông;
- Học làm người (learn to be) gồm các kĩ năng cá nhân như ứng phó
với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…
+ Kĩ năng cơ bản: Lắng nghe; Đặt câu hỏi; Trả lời; Ghi nhớ; Phân tích;
Tổng hợp; Học quên; Học thất bại;
15


+ Kĩ năng nâng cao: Làm cha mẹ; Sáng tạo; Làm việc độc lập; Quản lý
thời gian; Giao tiếp; Giải quyết xung đột; Làm việc; Ứng phó cảm xúc; Ứng
phó nguy biến; Ra quyết định.
* Khái niệm giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học
- Quan niệm về học viên, sinh viên đại học
Học viên, sinh viên đại học là những người đã trúng tuyển kỳ thi tuyển
sinh đại học hoặc được xét tuyển, cử tuyển theo quy chế của Bộ Giáo dục Đào tạo; có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ học vấn, đạo đức, sức khoẻ
vào học tập, rèn luyện ở các cơ sở giáo dục đại học để đào tạo trình độ bậc đại
học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học và của các
ngành nghề tương ứng. Học viên, sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng đại học.
Theo Điều 60 của Luật Giáo dục Đại học: Học viên, sinh viên đại học
có các nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau đây:
+ Học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện theo quy định.
+ Tôn trọng giảng viên, cán bộ quản lý, viên chức và nhân viên của cơ
sở giáo dục đại học; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và rèn luyện.
+ Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tiêu cực, gian lận trong học tập

và thi cử, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội.
+ Được tôn trọng và đối xử bình đẳng, không phân biệt nam nữ, dân
tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, được cung cấp đầy đủ thông tin về việc
học tập, rèn luyện.
+ Được tạo điều kiện trong học tập, tham gia hoạt động khoa học và
công nghệ, các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao.
+ Đóng góp ý kiến, tham gia quản lý và giám sát hoạt động giáo dục và
các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục.

16


+ Được hưởng chính sách đối với người học thuộc đối tượng hưởng ưu
tiên và chính sách xã hội.
+ Các nhiệm vụ và quyền khác theo quy định của pháp luật.
* Khái niệm Giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học
KNS không phải là một vấn đề mới nảy sinh mà là nhu cầu từ lâu
nhưng chưa thật sự được quan tâm đúng mức trong trường học. Giáo dục
KNS cho học viên, sinh viên là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm, đánh giá đúng của
ngành giáo dục - đào tạo và toàn xã hội.
Kĩ năng sống là khái niệm xuất hiện trong thời hiện đại và có tính chất
toàn cầu. Kỹ năng sống là năng lực, là cách thức, là công cụ mọi người cần
phải có để đối phó và vượt qua những nguy cơ thời hiện đại, đồng thời góp
phần tích cực nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, bảo vệ ngôi nhà
chung thế giới. “Giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học là một
quá trình tác động thống nhất giữa nhà giáo dục và sinh viên nhằm hình
thành ở sinh viên có những hiểu biết và những kĩ năng sống cơ bản của người
sinh viên đáp ứng đòi hỏi của xã hội và của ngành nghề được đào tạo trong
xã hội hiện nay”.
Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học là nhằm

hình thành, phát triển ở họ những hiểu biết và có những kĩ năng sống cơ bản
trong xã hội. Đồng thời hình thành cho học viên, sinh viên khả năng tự hình
thành, tự phát triển, tự hoàn thiện những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết để
thích nghi nhanh với sự phát triển của xã hội, của ngành nghề, của cuộc sống,
qua đó, góp phần quan trọng tới sự hình thành, phát triển nhân cách của người
công dân trong xã hội hiện đại.
Chủ thể giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên là các nhà giáo
dục và bản thân học viên, sinh viên. Học viên, sinh viên đại học vừa là đối
tượng tác động của nhà giáo dục đồng thời họ vừa là chủ thể tự học tập, tự
giáo dục, rèn luyện để hình thành kĩ năng sống cho chính bản thân.
17


Đối tượng tác động của giáo dục kĩ năng sống chính là học viên, sinh
viên. Đây là đội ngũ xét về tuổi đời còn trẻ từ 18 - 24 tuổi; có trình độ nhận
thức tốt, nhanh nhạy trong tiếp thu tri thức mới, có sức khoẻ, thể lực tốt, cơ
bản đã hoàn thiện các chức năng tâm, sinh lý. Tuổi trẻ là lứa tuổi sáng tạo
cao, có ước mơ, hoài bão và ý chí phấn đấu. Những vấn đề đó tạo điều kiện
thuận lợi trong quá trình giáo dục kĩ năng sống.
Tuy nhiên với học viên, sinh viên đại học, độ trải nghiệm trong thực tiễn
cuộc sống, nghề nghiệp còn ít, dễ có tâm lý chán nản trước những khó khăn,
trắc trở trong cuộc sống. Điều này đòi hỏi các nhà giáo dục, quản lý giáo dục
cần nghiên cứu, nắm chắc để xác định nội dung, chương trình, lựa chọn hình
thức, phương pháp, biện pháp giáo dục, quản lý giáo dục phù hợp mới bảo đảm
cho quá trình giáo dục kĩ năng sống đạt được kết quả như mong muốn.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên bao gồm nhiều
vấn đề cả về nhận thức, thái độ, hành vi; đồng thời đó còn là các kĩ năng sống
cơ bản của con người trong xã hội hiện nay và những kĩ năng cơ bản của
ngành nghề mà họ đang được đào tạo. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh,
sinh viên được thông qua con đường chủ yếu trong nhà trường, kết hợp với

các hoạt động xã hội và trong thực tiễn cuộc sống, thực tiễn hoạt động của
con người.
1.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh
viên đại học
Từ quan niệm về QLGDKNS cùng với các khái niệm công cụ trình bày
trên có thể khái quát:
Quản lý là “Hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý)
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức” [42, tr.326]

18


Quản lý giáo dục (cấp vĩ mô) là “Những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả
các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường)
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo
thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục” [24. tr.36,37].
Quản lý giáo dục (cấp vi mô): là “Hệ thống những tác động tự giác (có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [24, tr.37,38].
Thực chất của quản lý giáo dục là những tác động có định hướng, có
mục đích, được xác lập kế hoạch cụ thể nhằm thực hiện các biện pháp quản lý
hướng tới hiệu quả cao nhất trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện
phẩm chất nhân cách của người học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Từ cách tiếp cận về kĩ năng sống, giáo dục kĩ năng sống cho học viên,
sinh viên đại học, quản lý giáo dục như đã đề cập ở trên, chúng tôi quan niệm:

Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học là tổng hợp
những tác động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến
quá trình giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên, nhằm đảm bảo cho quá trình giáo
dục kĩ năng sống đó được tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, thiết thực đạt
chất lượng, hiệu quả, hình thành cho sinh viên những kĩ năng sống cơ bản , qua
đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các nhà trường đại học.
Từ khái niệm trên cho thấy:
Mục tiêu quản lý: Tạo dựng môi trường giáo dục tích cực, thuận lợi
nhằm phát huy tối đa các nguồn lực, sự năng động, sáng tạo, tính “tích cực”
của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục, cũng như của chủ thể quẩn lý và
đối tượng quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình giáo dục
kĩ năng sống cho sinh viên, qua đó hình thành cho sinh viên những kĩ năng
sống cơ bản, bền vững, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách cuả sinh viên.
19


Chủ thể quản lý: Chủ thể quản lý là tập thể, cá nhân được giao nhiệm
vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp trong lãnh đạo, quản lý quá trình giáo
dục, rèn luyện kĩ năng sống cho sinh viên trong suốt quá trình đào tạo. Chủ
thể quản lý quá trình giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên đại học là: các cấp
uỷ đảng các cấp, Hội đồng trường, các cơ quan chức năng, khoa giáo viên, đội
ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục và bản thân các tập thể học viên, sinh
viên và từng học viên, sinh viên.
Đối tượng quản lý: Là những cá nhân, tập thể học viên, sinh viên và
hoạt động học tập, rèn luyện của họ chịu sự tác động, điều khiển, quản lý của
các chủ thể quản lý trong suốt quá trình đào tạo. Như vậy, học viên, sinh viên
và tập thể học viên, sinh viên vừa là đối tượng chịu sự quản lý của chủ thể,
vừa là chủ thể trong quá trình tổ chức tự quản lý những hoạt động học tập, rèn
luyện hình thành kĩ năng sống cho chính bản thân.
Phương pháp quản lý: bao gồm toàn bộ hệ thống những cách thức, biện

pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ
thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Hệ
thống công cụ quản lý gồm: các chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức đảng; hiến
pháp, pháp luật của nhà nước; quy chế giáo dục - đào tạo... Sử dụng đồng bộ các
chức năng quản lý với các phương pháp quản lý cơ bản là: Phương pháp hành
chính; phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương; phương pháp kích thích
bằng vật chất, tinh thần.
Thời gian quản lý: bao gồm toàn bộ thời gian chính khoá, ngoại khoá, tự
học, tự rèn, thực hành trong suốt quá trình đào tạo.
1.2. Nội dung quản lý giáo dục

kĩ năng sống cho

học viên, sinh viên đại học
Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên đại học có nhiều
nội dung, dưới đây là những nội dung cơ bản:
20


1.2.1. Kế hoạch quản lý giáo dục kĩ năng sống cho học viên, sinh viên
Kế hoạch là sự sắp xếp công việc cụ thể cho một thời gian nhất định:
tuần, tháng, học kỳ, năm học. Kế hoạch QLGDKNS cho học viên, sinh viên là
một nội dung rất cần thiết cho các nhà quản lý giáo dục. Xây dựng được kế
hoạch chính là thiết kế trước được bước đi, biện pháp thực hiện các hoạt động
QLGDKNS cho học viên, sinh viên. Xây dựng kế hoạch phải dựa trên chỉ đạo
của Phòng GD&ĐT, chương trình môn học, nhiệm vụ chính trị, các chủ đề,
chủ điểm sinh hoạt. Xây dựng kế hoạch QLGDKNS phải trên cơ sở kế hoạch
chung và có sự phối hợp với kế hoạch của các bộ phận khác trong nhà trường
như: kế hoạch dạy học, kế hoạch cơ sở vật chất,…và phải căn cứ kết quả điều
tra cơ bản để xác định yêu cầu, nhiệm vụ, đề ra chỉ tiêu phấn đấu cho phù hợp

với điều kiện thực tại của nhà trường . Kế hoạch phải có tính xuyên suốt thời
gian cả năm học, có nguồn tài chính để tổ chức hoạt động được chỉ ra trong
kế hoạch, huy động nhiều lực lượng giáo dục tham gia. Đặc biệt kế hoạch này
được sự tham gia góp ý của cán bộ, giảng viên và học viên. Học viên, sinh
viên là chủ thể chính trong hoạt động, nên cần có sự lôi cuốn và phù hợp với
tâm sinh lí lứa tuổi để thu hút sự tham gia tích cực của học viên, khi đó hoạt
động GDKNS mới đạt được mục tiêu giáo dục.
Kế hoạch QLGDKNS cho học viên, sinh viên bao gồm:
- Quản lý việc xây dựng GDKNS cho học viên, sinh viên, gồm: kế
hoạch hoạt động giáo dục thường xuyên; kế hoạch hoạt động giáo dục theo
chủ đề; kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
- Quản lý kế hoạch đầu tư xây dựng và sử dụng cơ sở vật chất, trang
thiết bị giáo dục kĩ năng sống.
- Quán lý kế hoạch tổ chức thực hiện GDKNS bao gồm các hoạt động
xác định lực lượng giáo dục, nội dung giáo dục, các hoạt động lồng ghép giáo
dục trong dạy học

21


- Quản lý kế hoạch phối hợp các lực lượng giáo dục; Quản lý tiến độ
thực hiện GDKNS; Quản lý kế hoạch kiểm tra, đánh giá kết quả GDKNS.
1.2.2. Quản lý chương trình, nội dung giáo dục kĩ năng sống
Chương trình, nội dung GDKNS cần linh hoạt, phù hợp với trình độ,
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, sở thích của học sinh, giúp các em chủ động,
tích cực, tự giác tham gia hoạt động GDKNS.
Chương trình, nội dung GDKNS là một vấn đề lớn của lí luận GDKNS,
là thành tố quan trọng của quá trình GDKNS, nó quy định toàn bộ hoạt động
GDKNS trong thực tiễn. Nội dung GDKNS trong Học viện, Nhà trường rất
toàn diện, được xuất phát từ mục đích giáo dục xã hội và yêu cầu khách quan

của đất nước, thời đại. Nội dung GDKNS cần quan tâm đến các giá trị truyền
thống của con người Việt Nam và giá trị phổ quát của nhân loại, những KNS
cần thiết cho học viên trong thời kì mới giúp các em phát triển hoàn thiện
nhân cách.
Tiếp cận giáo dục kĩ năng sống đề cập đến quá trình tương tác giữa dạy
học và học tập trung vào kiến thức, thái độ và kĩ năng cần đạt được để có
những hành vi giúp con người có trách nhiệm cao đối với cuộc sống bằng
cách lựa chọn cuộc sống lành mạnh, kiên định từ chối sự ép buộc tiêu cực và
hạn chế tối đa những hành vi có hại. Như vậy đổi mới nội dung, phương pháp
dạy học là cách tiếp cận với kỹ năng sống trong giai đoạn hiện nay. Đi học là
niềm vui của con người, đi học để hưởng lợi từ giáo dục, học là để sống tốt
với thời đại. Thông qua lồng ghép, tích hợp kĩ năng sống vào chương trình ở
các cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp là
cách tiếp cận giáo dục kĩ năng sống khá phổ biến hiện nay.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và những biến đổi
nhanh chóng của đời sống xã hội hiện đại, trong công cuộc đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, các nhà giáo dục phải chú ý đến chương trình, nội dung
22


giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục giới tính, giáo dục tâm lí, giáo
dục phòng chống ma túy đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho học viên.
Những nội dung giáo dục này còn mới mẻ, nên trong công tác quản lý còn
nhiều bất cập cần tìm cách tháo gỡ và giải quyết.
Nội dung quản lý chương trình, nội dung giáo dục kĩ năng sống bao
gồm: Quản lý việc khảo sát thực tiễn KNS của học viên làm cơ sở cho xây
dựng nội dung GDKNS; Quản lý việc tổ chức xây dựng chương trình, nội
dung GDKNS; Quản lý việc thử nghiệm các nội dung được xây dựng để rút
kinh nghiệm và hoàn chỉnh nội dung; Quản lý việc tổ chức, thực hiện chương
trình, nội dung GDKNS; Quản lý việc kiểm tra,đánh giá kết quả thực hiện nội

dung, chương trình…
1.2.3. Quản lý các lực lượng giáo dục kĩ năng sống
Quản lý các lực lượng và sự phối hợp của các lực lượng GDKNS tạo ra
sự đồng bộ nâng cao hiệu quả giáo dục học viên, sinh viên. Các nhà trường
cần xây dựng phương hướng chỉ đạo theo một kế hoạch thống nhất, nhằm
động viên và phát huy tối đa khả năng các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình GDKNS. Cần chỉ
đạo phối hợp tốt các lực lượng sau:
Quản lý giảng viên các khoa, bộ môn trong việc tích hợp GDKNS vào
môn học, vai trò của giảng viên là hết sức quan trọng trong công tác giáo dục
này. Nhưng việc tích hợp GDKNS vào môn học là vấn đề mới đối với nhiều
giảng viên, vì vậy nhà quản lý ngoài việc lập kế hoạch chi tiết cụ thể cho hoạt
động còn phải tổ chức tập huấn, hội thảo, tọa đàm để nâng cao nhận thức, ý
thức trách nhiệm cho đội ngũ giáo viên, đồng thời phân cấp quản lý cho đội
ngũ lãnh đạo các khoa, bộ môn để thống kê việc tích hợp GDKNS vào từng
chương, từng bài cụ thể. Tổ chức làm điểm, rút kinh nghiệm và triển khai đại
trà. Theo dõi sát sao việc tích hợp vào bài dạy của đội ngũ giảng viên, đánh
giá giờ dạy và kiểm tra đánh giá kết quả rèn luyện của học viên.
23


Quản lý giáo viên chủ nhiệm lớp trong hoạt động GDKNS cho học
viên. Để đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp thực thi tốt nhiệm vụ của mình, nhà
quản lý cần chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm căn cứ vào kế hoạch tổng thể của
nhà trường xây dựng kế hoạch GDKNS phù hợp với từng đối khóa, lớp triển
khai kế hoạch và tổ chức hoạt động cho học viên, quản lý phát huy hiệu quả
của giờ sinh hoạt lớp, đôn đốc, kiểm tra đánh giá thi đua kết quả rèn luyện của
học viên bằng các tiêu chí cụ thể.
Quản lý và phối hợp chặt chẽ với Ban chấp hành Đoàn thanh niên
tham gia GDKNS. Để nâng cao hiệu quả hoạt động GDKNS trong hoạt động

của Đoàn thanh niên, nhà quản lý cần nhận đầy đủ các yếu tố ảnh hướng tới
việc GDKNS ở Đoàn viên thanh niên Học viện, từ đó có những biện pháp
quản lý để tác động vào những yếu tố tích cực, phát huy hiệu quả giáo dục,
khắc phục và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực. Đồng thời quản lý tốt các
giờ sinh hoạt chi đoàn, các buổi chào cờ đầu tuần, các hoạt động chủ điểm,
chủ đề nhân các ngày lễ lớn trong năm, các hoạt động phối hợp với hội phụ
huynh học sinh, với giáo viên chủ nhiệm, giảng viên bộ môn, với các tổ chức
tập thể và cá nhân trong và ngoài Học viện.
Để tạo nên sức mạnh tổng thể trong công tác giáo dục đạo đức cho học
viên nói chung và GDKNS cho học viên nói riêng, học viện cần huy động các
lực lượng giáo dục trong và ngoài Học viện tham gia vào quá trình giáo dục
như hội phụ huynh học sinh, các cấp ủy Đảng, chính quyền nơi đơn vị đóng
quân, các cơ quan đoàn thể trên địa bàn. Có như vậy nhân cách và lý tưởng
sống của học viên được giáo dục và rèn luyện mọi lúc, mọi nơi, đồng thời
giúp các học viên củng cố bổ sung và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, hoàn thiện các tri thức đã được học trên giảng
đường, mở rộng nhãn quan với thế giới xung quanh, biết vận dụng những tri
thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Chính vì
vậy, để công tác GDKNS cho học viên Học viện đạt hiệu quả cao Học viện
24


cần tạo dựng được sự chung tay ủng hộ và tham gia của các lực lượng xã hội
trong và ngoài Học viện.
- Quản lý đội ngũ cán bộ quản lý trong việc quản lý hoạt động GDKNS
- Quản lý đội ngũ giảng viên trong hoạt động GDKNS
- Quản lý đội ngũ cán bộ Đoàn và hoạt động Đoàn thanh niên trong
hoạt động GDKNS
- Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp trong hoạt động GDKNS
- Quản lý các lực lượng cộng tác tổ chức thực hiện hoạt động GDKNS

cho học viên
- Quản lý phối hợp của các lực lượng trong và ngoài Học viện, các
đoàn thể, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội củ phụ huynh và cộng đồng xã hội
trong GDKNS cho học viên.
1.2.4. Quản lý các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương
tiện kĩ thuật đảm bảo cho giáo dục kĩ năng sống
Cũng như trong giảng dạy các môn văn hóa, hoạt động GDKNS cần có
cơ sở vật chất, phương tiện, tài liệu để đạt hiệu quả giáo dục mong muốn.
Trên thực tế, đại đa số giảng viên Học viện chưa được đào tạo một cách căn
bản về GDKNS. Phương tiện, tài liệu dành cho hoạt động này còn nhiều thiếu
thốn, vì vậy, ngoài việc giao trách nhiệm cho giảng viên, Học viện cũng
thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao kĩ năng và nghiệp
vụ tổ chức các hoạt động cho giảng viên, động viên khích lệ tinh thần và có
chế độ thỏa đáng, kịp thời, từ đó khơi dậy lòng nhiệt tình và ý thức trách
nhiệm trong giảng viên, có như vậy tính hiệu quả trong hoạt động mới cao.
Học viện ngoài việc quản lý tận dụng những cơ sở vật chất hiện có để
phát huy tính hiệu quả giáo dục của hoạt động, cần phải tiết kiệm, cân đối
nguồn ngân sách được giao hàng năm để mua sắm cơ sở vật chất, tài liệu cho
hoạt động, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức khác như hội phụ
huynh học viên, các doanh nghiệp trên địa bàn hỗ trợ cho hoạt động.
25


Quản lý các điều kiện cơ sở vất, trang thiết bị và phương tiện kĩ thuật
đảm bảo cho giáo dục kĩ năng sống gồm các nội dung chính sau: Quản lý việc
đầu tư, mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật dạy học
phục vụ cho GDKNS; Quản lý việc sử dụng trang thiết bị hiện có phục vụ cho
GDKNS; Quản lý, mức độ đáp ứng, tính hiệu quả của từng loại công cụ,
phương tiện phục vụ cho GDKNS.
1.2.5. Quản lý về phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục kĩ

năng sống cho học viên, sinh viên
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học
viên, sinh viên trong nhà trường. Công tác này cần được tiếp tục tiến hành
thường xuyên,liên tục, phù hợp với đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi, hoàn
cảnh, hoạt động của từng loại đối tượng, hệ đào tạo và mang tính mềm dẻo,
dưới nhiều hình thức, qui mô, loại hình hoạt động khác nhau qua hoạt động
các tổ chức đoàn thể với các phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục kĩ
năng sống như sau:
- Các phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên:
+ Có thể tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua khai thác tiềm năng
giáo dục trong nội dung môn học (Học phần hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp), qua phương pháp dạy học tích cực khuyến khích sự tương tác, cùng
tham gia, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo của học viên, sinh viên.
+ Giáo dục thông qua các chủ đề chuyên biệt về KNS dưới hình thức
hoạt động ngoài giờ lên lớp của các tổ chức Đoàn thanh niên, hội sinh viên.
+ Giáo dục KNS thông qua các tình huống giáo dục và các tình huống
trong thực tiễn cuộc sống
+ Giáo dục KNS qua tiếp cận 4 trụ cột: Học để biết (Kỹ năng nhận
thức) Học đẻ làm (Các kỹ năng thực tiễn) Học để cùng chung sống (Các kỹ
năng xã hội) Học để tự khẳng định bản thân (Các kỹ năng cá nhân)
+ Thông qua tham vấn trực tiếp với cá nhân hoặc nhóm học sinh, sinh viên
26


- Nội dung:
Tập trung vào những vấn đề xã hội đang diễn ra trong thực tiễn hiện
nay như: Giáo dục phòng tránh HIV/AIDS, giáo dục phòng tránh ma túy, giáo
dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục bình
đẳng giới... Tổ chức cho học sinh sinh viên được trực tiếp trải nghiệm bằng
các hoạt động, các tình huống trong thực tiễn .

- Các hình thức hoạt động:
+ Tiến hành học tập KNS trong chương trình kế hoạch đào tạo của nhà trường
+ Tổ chức các câu lạc bộ kỹ năng sống trong nhà trường thông qua:
Diễn đàn thanh niên về kỹ năng sống; Các lớp tập huấn nhằm giới thiệu nâng
cao nhận thức hiểu biết và ý thức rèn luyện KNS cho sinh viên; Các buổi nói
chuyện chuyên đề - tư vấn trực tiếp của các chuyên gia tâm lí giáo dục; Các
buổi sinh hoạt đoàn, hội sinh viên; Tổ chức các nhóm công tác xã hội....
+ Tổ chức các hội thi đóng vai tình huống cụ thể gắn với kỹ năng cần
hình thành
+ Thi tiểu phẩm theo chủ đề
1.2.6. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Đánh giá là
nhận định giá trị. Muốn có đánh giá chính xác phải dựa trên kết quả kiểm tra.
Mục đích cuối cùng của kiểm tra đánh giá là nhằm tích cực hóa nhận thức,
nâng cao chất lượng công tác, tăng cường ý thức trách nhiệm của giáo viên.
Lãnh đạo mà không có kiểm tra đánh giá là buông lỏng quản lý. Kiểm tra
đánh giá là một việc làm bình thường của nhà quản lý. Muốn kiểm tra, đánh
giá, trước hết phải giao việc cho đối tượng được kiểm tra, đánh giá kèm theo
những yêu cầu khi giao việc.
Việc kiểm tra, đánh giá hoạt động GDKNS góp phần đánh giá chất
lượng giáo dục chung trong các nhà trường, qua đánh giá cán bộ quản lý nhà
trường đánh giá mức độ thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên, mức độ
27


×