Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giáo dục học sinh nghiện điện tử tại trường THPT ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Chính sách mở cửa của nhà nước ta hiện nay cũng như sự phát triển của
khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đưa con
người đến gần hơn cuộc sống văn minh hiện đại. Nền giáo dục nước nhà vì
thế cũng được thừa hưởng thành tựu của khoa học công nghệ bằng việc đẩy
mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào giảng dạy trong các nhà trường nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học. Nhưng chính một trong những mặt trái của
nền khoa học công nghệ (văn hoá mạng, cơn bão mạng) đã ảnh hưởng xấu
đến lứa tuổi thanh thiếu niên đặc biệt là lứa tuổi 15 - 18 (học sinh THPT) nói
riêng và tồn xã hội nói chung. Một số em đã ham, “nghiện” [6] điện tử, bỏ
bê học tập, gây ảnh hưởng rất lớn đến các học sinh khác, đến chất lượng
giáo dục chung, để lại nhiều hệ luỵ cho gia đình và xã hội.
Phần nhiều, những học sinh đã “nghiện” điện tử thường có xu hướng bỏ
học. Đó chính là những con người chưa được trang bị đầy đủ những kiến
thức cơ bản, kĩ năng và còn khiếm khuyết về nhân cách đạo đức. Do đó, theo
xu thế phát triển của xã hội hiện đại ngày nay thì những con người này sẽ
khơng đáp ứng được yêu cầu về xây dựng và bảo vệ xã hội. Vậy, giáo dục để
các em học tập nghiêm túc, hoàn thiện nhân, cách đạo đức đáp ứng được xu
thế xã hội là trách nhiệm, nghĩa vụ của người Thầy nói riêng, của gia đình và
tồn xã hội nói chung.
Ưu tiên phát triển giáo dục là tính ưu việt của xã hội ta ngày nay. Mục
tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, tẩm mỹ và nghề nghiệp ... những con người như vậy
sẽ là một cơng dân có ích cho xã hội. Do vậy, đổi mới nội dung chương
trình,phương pháp dạy học cũng theo đó đổi mới. Gần đây có tích hợp liên
mơn nhằm cung cấp đầy đủ nhất kiến thức cho học sinh. [1] Các nhà trường
cũng khuyến khích viết sáng kiến kinh nghiệm để giáo viên được học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong rất nhiều sáng kiến kinh nghiệm tơi được tham khảo thì phần nhiều
tập trung vào hoạt động dạy học chỉ một số chia sẻ kinh nghiệm về hoạt


động giáo dục (công tác chủ nhiệm). Đề tài giáo dục học sinh “nghiện” điện
tử đang mang tính thời sự cịn nghèo nàn. Tơi thiết nghĩ, hoạt động dạy học

- Ở mục 1.1. Đoạn: “Chính sách mở cửa…xã hội ta ngày nay” do tác giả viêt
ra.Từ “nghiện” tác giả tham khảo và trích từ TLTK số [6]. Đoạn “ Mục tiêu
của giáo dục … kiến thức cho học sinh” tác giả tham khảo từ TLTK số [1].
Đoạn cò lại do tác giả viết
1


là hoạt động chính, hoạt động trọng tâm nhưng bên cạnh đó hoạt động giáo
dục học sinh cũng là một hoạt động không kém phần quan trọng của một nhà
giáo dục, của các nhà trường.
Do vậy, chúng ta nên mạnh dạn, cởi mở chia sẻ kinh nghiệm cho nhau
bởi hầu hết các giáo viên đều làm công tác kiêm nhiệm. Hơn thế nữa, hiện
nay đa phần trường nào, lớp nào cũng có tình trạng học sinh “nghiện” điện
tử. Rất nhiều người đã tìm ra biện pháp giáo dục hiệu quả song lại chưa chủ
động chia sẻ kinh nghiệm cho đồng nghiệp. Vì những lẽ trên mà tơi chọn đề
tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh nghiện điện tử tại trường THPT
Ngọc Lặc”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tơi nghiên cứu đề tài này thứ nhất là giáo dục học sinh của mình (học
sinh nghiện điện tử). Thứ hai là mong muốn chia sẻ kinh nghiệm đến với các
đồng nghiệp, nhận được sự bổ sung, góp ý của đồng nghiệp. Thứ ba là để tơi
và chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm trong q trình làm cơng tác giáo
dục, cùng nhau hồn thành tốt sự nghiệp “ trồng người” vơ cùng gian nan
trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh “nghiện” điện tử có ở nhiều bậc học, nhiều trường học (trong
huyện, trong tỉnh, trong cả nước). Ở bài viết này, tôi tập trung vào nghiên

cứu đối tượng: học sinh lớp 10A5, trường THPT Ngọc Lặc “nghiện” điện tử.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình làm cơng tác kiệm nhiệm nhiều năm, bản thân gặp rất
nhiều trường hợp học sinh khó giáo dục mà chúng ta vẫn thường gọi là học
sinh cá biệt. Tôi đã rất trăn trở, vất vả để tìm biện pháp giáo dục, uốn nắn
các em. Thời gian gần đây lại xuất hiện tình trạng học sinh “nghiện” điện tử.
Phải nói rằng đây là hiện tượng rất khó giáo dục. Bằng những kinh nghiệm
của bản thân, kết hợp trao đổi với Ban Giám Hiệu, đồng nghiệp trong và
ngồi trường tơi cũng giáo dục được học sinh của mình. Khi bắt tay vào
nghiên cứu đề tài, trước hết tôi dựa trên sự định hướng của Sở GD - ĐT
Thanh Hóa, của BGH, trao đổi với đồng nghiệp đặc biệt là kinh nghiệm của
mình, tơi chọn phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra khảo sát thực
tế, thu thập thơng tin.
II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trên cơ sở kiến thức về đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi vị thành niên (14 18), lứa tuổi đang có nhiều thay đổi về cơ thể và tính cách (thể chất và tinh
thần). Giai đoạn này xuất hiện trong cơ thể các em nhiều hóoc mơn mới,
khiến các em có những biểu hiện bất thường: “khủng hoảng về tâm lí”, vui
buồn thất thường, dễ cảm xúc, hoặc dễ sa vào những cám dỗ đời thường.
2


Đây chính là “thời kì q độ” chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, tuổi
muốn được khẳng định mình. Mặt khác, đây cũng là lứa tuổi hoàn thiện và
trưởng thành, rất cần sự giáo dục, uốn nắn của gia đình, nhà trường và xã hội
… [2] Do đó giáo dục các em trong thời kì này hết sức khó khăn nhưng nếu
chúng ta nắm chắc kiến thức về đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi vị thành
niên sẽ là cơ sở lí luận quan trọng thứ nhất để giáo dục học sinh một cách
hiệu quả.
* Cơ sở lí luận thứ hai, tôi lấy ngay kinh nghiệm của cha ông qua câu

tục ngữ: “có cơng mài sắt, có ngày nên kim”.
Thấm nhuần ý nghĩa câu tục ngữ, áp dụng vào thực tế tôi nhận thấy
rằng: giáo dục một học sinh “nghiện” điện tử không phải là vấn đề đơn giản,
ngày một ngày hai. Trước hết, đòi hỏi bản thân người thầy phải kiên trì, nhẫn
nại. Đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp, phải thực lòng muốn giáo dục
để học sinh nên người, phải sẵn sàng tâm thế đối diện với tất cả những khó
khăn, vất vả thì cây sắt kia mới trở thành chiếc kim sắc nhọn, hữu dụng
trong cuộc sống. Do vậy, sinh thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng mới tôn vinh:
“Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”.
*Cơ sở lí luận thứ ba của tơi chính là niềm tin.
Qua những tác phẩm văn học nước nhà, [4] những cuốn phim nói về hai
cuộc kháng chiến (chống Pháp, mĩ) của dân tộc, ta thấy rằng chỉ một lời hứa,
một chiếc khăn tay hay một cái kẹp tóc… mà con người ta tin tưởng chờ đợi
nhau năm năm, mười năm, hai mươi năm và lâu hơn thế nữa. [5] Cịn tơi, tơi
tin rằng là con người ai cũng muốn trở thành người tốt, người giỏi, người
tồn diện, người có ích cho xã hội, khơng ai muốn mình là con người vơ ích,
vơ dụng trong xã hội. Do đó, tơi cũng tin chắc chắn rằng mỗi học sinh của
chúng ta đều mang trong mình mong muốn được trở thành người con ngoan,
trò giỏi sau này có ích cho xã hội. Cho nên, tơi tin với mong muốn thực lòng
và phương pháp giáo dục đúng đắn của mình tơi sẽ giáo dục được những học
sinh từ “nghiện” chơi điện tử trở về với việc học tập một cách nghiêm túc.
Cơ sở lí luận thứ tư là theo ngun lí giáo dục hiện đại: Trong q
trình hình thành nhân cách, hoàn thiện bản thân của con người thì những yếu
tố như: mơi trường, gia đình, xã hội…chỉ có tác động, ảnh hưởng chứ khơng
phải là yếu tố quyết định mà yếu tố quyết định cho sự hình thành ấy chính là
sự tự thân trong mỗi con người. Và một trong những phương pháp giáo dục
- Ở mục 2.1. Đoạn “ Trên cơ sở … và xã hội ” tác giả tham khảo từ TLTK
số [2]. Câu: “ Qua những tác phẩm… nước nhà ” tác giả tham khảo từ
TLTK số [4]. Đoạn: “ Những cuốn phim … hơn thế nữa ” tác giả tham khảo
từ TLTK số [5].

3


của Việt Nam là giáo dục tư tưởng, giáo dục ý chí vươn lên… phù hợp với
lứa tuổi người học. [1] Áp dụng nguyên lí này trong giáo dục chắc chắn
chúng ta sẽ thành công.
Thực tế cho thấy những học sinh “nghiện” điện tử một khi đã tỉnh ngộ,
quay trở về với việc học tập thì kết quả học tập vẫn tốt. Hơn thế, các em cịn
có sự cố gắng không ngừng, biết đặt ra mục tiêu phấn đấu rõ ràng cho tương
lai, chỉ cần người thân, gia đình, nhà trường biết tác động ngoại lực tích cực
thì “con chim non sẽ sớm trưởng thành và vững vàng rời xa miệng tổ”!
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
Từ năm học 2001 - 2017, hầu như năm nào tôi cũng làm công tác
kiêm nhiệm. Thực ra làm công tác kiêm nhiệm, tôi cũng như nhiều đồng
nghiệp khác đã gặp phải mn vàn những khó khăn, vất vả nhưng cũng được
hưởng khơng ít những niềm vui. Tơi cịn nhớ rất rõ lời nói vừa vui đùa, vừa
động viên chúng tôi - những người làm công tác kiêm nhiệm: “Là thầy giáo
mà không được làm công tác kiêm nhiệm thì phí nửa cuộc đời” của Thầy
Hiệu trưởng Lương Hữu Hồng, hiện Thầy là Hiệu trưởng Trường THPT
Đông Sơn I (khi tơi cịn cơng tác tại trường THPT Lang Chánh). Và thực,
trong ngần ấy năm được làm công tác kiêm nhiệm tơi thấy cuộc đời của
“người thầy” thật có ý nghĩa. Mười sáu năm công tác và kiêm nhiệm tôi đã
gặp nhiều trường hợp học sinh khó giáo dục (cá biệt): như ngang bướng với
cha mẹ, vô lễ với thầy cô, đánh nhau, uống rượu, hút thuốc lá… khi đến
trường. Khoảng từ năm học 2007 - 2008 trở lại đây, xuất hiện tình trạng học
sinh ham, “nghiện” điện tử, đây chính là một căn bệnh nan y đối với nhà
giáo dục.
“Internet tốc độ cao”, “Internet cáp quang”, “Chát siêu tốc độ”… là
những biển hiệu quảng cáo vô cùng hấp dẫn giới trẻ, độ tuổi khoảng từ 11 18 là đối tượng học sinh THCS và học sinh THPT, đặc biệt là học sinh
THPT. Điều đáng nói là xung quanh khu vực trường học những quán Game

mọc lên như nấm. Vì sao lại có tình trạng báo động đó, có thể liệt kê một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất vì mặt trái của khoa học công nghệ hiện đại.
Thứ hai vì nhiều gia đình cho con sử dụng điện thoại di động, máy
tính… rất tự do.
Thứ ba vì cha mẹ quá bận rộn với công việc, không sát sao, quản lí
sinh hoạt của con.
Thứ tư vì nhiều gia đình cịn thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục con
- Ở mục 2.1. Đoạn: “Trong quá trình hình thành…lứa tuổi người học” tác giả
tham khảo từ tài liệu số [1]..
4


Thứ năm vì một số gia đình q nng chiều con nên xuất hiện ở các em
lối sống ưa hưởng thụ, thiếu lí tưởng, chơi bời đua nhau theo bạn bè, khơng
có nghị lực vượt qua những cám dỗ đời thường... Do vậy, đã xuất hiện tình
trạng học sinh bỏ tiết, nghỉ học, bỏ học đánh điện tử, đặc biệt là học sinh bậc
THPT. Học sinh trường THPT Ngọc Lặc không ngoại lệ. Trong tương lai
gần, số lượng học sinh nghiện điện tử tăng lên rất nhiều và rất nhanh nếu
chúng ta khơng có động thái gì.
Nếu lưu tâm đến vấn đề này ta sẽ thấy phần lớn các em “nghiện” chơi
điện tử là từ những nguyên nhân nêu trên. Một khi các em đã ham chơi điện
tử thì sẽ dẫn đến tình trạng sao nhãng việc học tập, biếng lười trong mọi hoạt
động, kết quả học tập sa sút, trong đầu chỉ cịn lại duy nhất hình ảnh của
những trò chơi, những phân định thắng thua! Kéo theo là các em sẽ tìm đủ
mọi lí do để khơng phải đến trường, để bỏ tiết ra ngoài, để xin đủ mọi khoản
tiền đóng góp, tệ hơn là các em cịn rủ bạn khác cùng chơi… Cuối cùng
“nghiện” rồi thì hậu quả khôn lường.
Năm học 2009 - 2010, tôi được Ban Giám Hiệu tin tưởng phân công
chủ nhiệm lớp 10A5. Do đặc thù trường miền núi nên học sinh chủ yếu là

con em các dân tộc thiểu số, sống ở các xã vùng sâu, vùng xa, đi lại khó
khăn, nói tiếng phổ thơng cịn chưa rõ, có đến 2/3 thuộc đối tượng chính
sách: nghèo, cận nghèo, vùng 135 (vùng kinh tế đặc biệt khó khăn). Đặc
biệt, trong lớp có đến 4 em ham chơi điện tử: Phạm Văn Niên, Phạm Văn
Tuấn, Bàn Văn Thành, Phạm Quang Tùng, riêng em Phạm Văn Niên thì đã
“nghiện” nặng.
Do áp lực từ những phiên họp Chi bộ, họp Hội đồng giáo dục, họp Tổ
chủ nhiệm với những thao tác đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm rồi điểm
trừ thi đua …Tổ chủ nhiệm chúng tôi nói chung, bản thân tơi nói riêng phải
trăn trở tìm phương pháp giáo dục học sinh để đưa thành tích lớp chủ nhiệm
đi lên. Trong các biện pháp mà trước nay giáo viên chủ nhiệm đã sử dụng:
phạt trực nhật, cảnh cáo trước cờ, xáo cỏ khuôn viên nhà trường, dọn vệ
sinh, mời phụ huynh… Tôi đều đã áp dụng nhưng hiệu quả mang lại không
cao. Nhà trường xét xuống, phụ huynh tin tưởng gửi gắm lên, trăm sự nhờ
thầy cơ... “Trên búa, dưới đe” có những lúc tâm trạng tơi căng như dây đàn,
thành ra nóng nảy, nặng lời với học sinh. Cơ, trị dần có khoảng cách, giao
tiếp trong những hồn cảnh bắt buộc, theo đó khơng khí lớp cũng căng thẳng
nặng nề.
Tôi nghĩ rằng phương pháp giáo dục của mình chưa phù hợp chăng?
Tơi đã chủ động gặp và trao đổi với BGH, đồng nghiệp đặc biệt những
người có kinh nghiệm và thành cơng trong cơng tác chủ nhiệm, thêm nữa là
các bạn bè công tác ở trường khác. Tơi khơng thể bất lực trước tình trạng
học sinh “nghiện” điện tử được. Cuối cùng, tôi sâu chuỗi biện pháp giáo dục
5


của mình, của đồng nghiệp đặc biệt của BGH rồi suy ngẫm và quyết định sử
dụng những phương pháp: xử lí nghiêm, xử lí mạnh; kiên trì giáo dục; giáo
dục học sinh trưởng thành từ lao động; tin tưởng con người, cảm hóa con
người bằng tấm lịng - đức trị. Và tôi đã thành công!

2.3. Giải pháp đã sử dụng.
Giải pháp thứ nhất: Xử lí nghiêm, xử lí mạnh với học sinh cá biệt.
Qua thực tế chúng ta thấy rằng những người được kinh qua quân ngũ
hoặc được đào tạo qua các trường quân sự, an ninh…thường là những người
có bản lĩnh thép và tư cách đạo đức rất chuẩn mực. Tôi mạnh dạn áp dụng
phương pháp này ngay ở lần xử lí đầu tiên: cảnh cáo dưới cờ, phạt xáo cỏ
sân trường, mời phụ huynh trao đổi, nêu gương tiết sinh hoạt cuối tuần, hạ
hạnh kiểm, dọa phê vào học bạ. Các em đều phải chấp hành đầy đủ nhưng
chuyển biến thì chưa đồng nhất. Qua theo dõi sát sao cho thấy trong 4 em
học sinh ham chơi điện tử thì riêng em Phạm Văn Tuấn có sự chuyển biến.
Em có thái độ học tập nghiêm túc hơn, đi học chuyên cần hơn và rồi bỏ hẳn
chơi điện tử quay trở với việc học tập. Ba em còn lại vẫn “chứng nào tật ấy”
như “đá ném ao bèo”! [3].
Dù chỉ một học sinh thay đổi tôi cũng cảm thấy được an ủi, động viên
và kiên trì hơn trong quá trình giáo dục học sinh thân u của mình. Tơi tiếp
tục tìm biện pháp để giáo dục các em. Tơi suy nghĩ vì sao cùng những biện
pháp trên mà chỉ có một học sinh thay đổi? Tơi tìm hiểu thêm các nguồn
thông tin khác liên quan đến các em. Tuấn sinh ra trong gia đình cơng chức,
bố là bộ đội biên phòng, mẹ là nhân viên y tế của Trung tâm y tế dự phịng
huyện. Bố cơng tác xa, mẹ bận cơng việc, đi sớm về muộn, ít có điều kiện,
thời gian gần gũi, sát sao giáo dục Tuấn nên em đã theo bạn bè chơi Game
và rất ham. Sau buổi làm việc, trao đổi với giáo viên chủ nhiệm, gia đình đã
tác động mạnh mẽ, tích cực đến Tuấn, sát sao việc học tập của em hơn.
Cùng với những hình phạt của giáo viên chủ nhiệm, Tuấn đã sớm có được
nhận thức đúng đắn và nhanh chóng quay trở về với quyền lợi và nghĩa vụ
chính của một học sinh: học tập. Ba học sinh còn lại: Thành, Tùng xuất thân
trong gia đình tiểu thương (cha mẹ cũng tất bật với cơng việc hàng qn,
khơng quản lí sát sao sinh hoạt của con, khơng quản lí được tài chính, sẵn
tiền bán hàng, cháu lấy chơi và còn cho bạn cùng chơi). Niên xuất thân trong
gia đình nơng dân (cha mẹ bận rộn cơng việc đồng áng, trình độ nhận thức

có phần hạn chế, phương pháp giáo dục chưa đúng cách). Do vậy, các em
chưa được quan tâm sát sao việc học tập, chưa được phân tích, định hướng
kịp thời và đúng cách. Các em chưa có chuyển biến ngay và việc giáo dục
- Ở mục 2.3. Hai thành ngữ: “Chứng nào tật ấy”, “Đá ném ao bèo” tác giả
trích nguyên văn từ TLTK số [3].
6


các em có phần khó khăn, vất vả hơn.
Như vậy, xử lí nghiêm, xử lí mạnh là một trong những biện pháp giáo
dục học sinh “nghiện” điện tử. Tôi đã sử dụng có hiệu quả và chúng ta những người làm cơng tác chủ nhiệm - cũng có thể sử dụng.
Giải pháp thứ hai: Áp dụng câu nói của Bác Hồ : “ giáo dục trong
nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã
hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn”.[1] Tơi chủ động phối kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục
học sinh.
Sau khi áp dụng những biện pháp thứ nhất chưa hữu hiệu với tất cả học
sinh “nghiện” điện tử tôi tiếp tục mời phụ huynh của những học sinh còn
ham chơi điện tử đến văn phịng nhà trường trao đổi. Tơi thẳng thắn đề nghị
các bậc phụ huynh: con cái là vốn tài sản quý giá nhất đối với người làm
cha, làm mẹ. Các bậc phụ huynh có thể làm tất cả vì con mình khơng? Có,
vậy thì xin các bác giành cho các con của mình sự quan tâm hơn nữa, sát
sao hơn nữa, động viên hơn nữa, phân tích, định hướng cho các cháu để các
cháu học tập nghiêm túc. Các phụ huynh bỏ ra 30 phút mỗi sáng để theo sau
chân các cháu đến trường như những vị mật thám chuyên nghiệp. Nếu các
cháu bỏ học vào quán điện tử các bác có thể xử lí ngay. Tơi tin rằng bị cha
mẹ bắt quả tang như vậy cùng với sự phân tích, định hướng chắc chắn các
cháu sẽ khơng giám tái phạm, bỏ chơi, chú tâm vào học tập.
Cịn tơi, tôi chủ động gặp Trưởng ban nền nếp trao đổi về tình hình lớp,
đề nghị Ban nền nếp phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, xử lí nghiêm nếu

các em trốn ra ngồi. Mặt khác tơi lại chủ động tìm gặp các bà, các chị hàng
nước gần các quán điện tử đề nghị giúp đỡ. Tơi trích quỹ lớp mua một vài
thẻ điện thoại nhờ họ thông tin nếu thấy có học sinh vào quán chơi điện tử.
Nhờ vậy, tôi bắt gặp được các em đang chơi Game tại quán. Tôi cho các em
về trường trao đổi, viết bản kiểm điểm, bản cam kết và thông báo cho phụ
huynh được biết…
Với sự phối kết hợp chặt chẽ trên, một thời gian các em đã đi đúng
đường ray mà tôi mong muốn. Các em đã quay trở về là một học sinh chăm
chỉ, chuyên tâm học tập, thực hiện tốt nội quy trường lớp. Các bậc phụ
huynh cũng phấn khởi, không ngớt lời cảm ơn nhà trường, cô giáo. Tuy
nhiên, trong số đó Phạm Văn Niên là học sinh duy nhất chưa thể cai nghiện.
Sau một vài tuần học bình thường Niên lại “ngựa theo đường cũ”, [3] vẫn
- Ở mục 2.3. Câu nói của Bác Hồ “ giáo dục trong nhà trường… khơng hồn
tồn” tác giả trích ngun văn từ TLTK số [1]. Thành ngữ: “Ngựa theo
đường cũ” tác giả trích nguyên văn từ TLTK số [3].
7


trốn tiết, nghỉ học để chơi. Tôi phải tiếp tục tìm ra loại kháng sinh điều trị
căn bệnh nan y này.
Tuy nhiên biện pháp giáo dục trên chưa phải là hữu hiệu với tất cả học
sinh “nghiện” điện tử nhưng nó cũng là một trong những biện pháp giáo dục
đúng, mang lại hiệu quả, tôi đã sử dụng và cũng đã giáo dục được một số
học sinh “nghiện” điện tử. Vì vậy các đồng chí cũng có thể áp dụng nếu
trong lớp mình cũng có học sinh như học sinh của lớp tôi.
Giải pháp thứ ba: Áp dụng từ thực tiễncuộc sống vào trong giáo dục:
giáo dục con người trưởng thành từ lao động.
Từ thực tiễn cuộc sống tôi thấy, một trong những biện pháp giáo dục
con người đúng đắn là đi lên từ lao động. Tôi lại mời phụ huynh Niên ra
văn phòng nhà trường bàn biện pháp để giáo dục em. Gặp phụ huynh, tơi

chưa kịp nói gì mẹ Niên đã nghẹn ngào: “Tôi xật số khổ cô giáo à, người ta
mười đứa xì nên, tơi một đứa mà khơng nên, khổ cả cho cô giáo, tôi xật là
chả biết nên làm răng cô giáo à…”. Tôi mời chị vào văn phòng trao đổi,
thống nhất biện pháp giáo dục Niên. Các bạn kia đã bỏ chơi điện tử, chú
tâm học tập chỉ cịn Niên là vẫn tìm mọi cách để được chơi nghĩa là cháu đã
quá ham - “nghiện”. Vậy gia đình và nhà trường phải làm quyết liệt hơn:
Phải cho Niên lao động. Gia đình cho cháu tạm nghỉ học khoảng một tuần
để cháu tham gia lao động. Trong quá trình lao động làm cho con người
tavui hơn, có được nhiều sự sáng tạo, đồng thời giúp con người quên đi
niềm ham mê đời thường theo hướng tiêu cực. Mặt khác, lao động thấm mệt
cháu sẽ nhận ra được giá trị của việc học .
Cha mẹ nào chẳng xót con nhưng thương con là phải giáo dục, định
hướng đúng đắn cho con. Chị theo dõi biểu hiện của cháu, gần gũi phân tích
việc đến trường học tập là cần thiết, đây là tuổi con được học tập, sau này
quá tuổi muốn được đến trường cũng không được nữa. Lao động nào theo
hình thức nào cũng quý nhưng lao động chân tay rất vất vả. Con lao động
giỏi nhưng khơng có trình độ văn hố ( mù chữ) xã hội, bè bạn sẽ có cái
nhìn khác về con… Sau gần mười ngày lao động vất vả (làm phụ hồ) Niên
nhận ra giá trị của việc học, muốn trở lại trường hứa và với mẹ sẽ học tập
nghiêm túc.
Tôi vui mừng đón Niên trở lại lớp, phấn khởi thơng báo với lớp về sự
tỉnh ngộ của Niên, lớp cũng rất vui. Những tưởng, Niên đã tỉnh ngộ, chọn
đúng con đường cần phải đi đâu ngờ tuổi trẻ thiếu nghị lực, không vượt qua
được những cám dỗ đời thường. Sau ba tuần đến trường nghiêm túc, Niên
lại tái phát bệnh cũ. Tôi gần như tuyệt vọng, buông xuôi!
Mặc dù biện pháp này chưa phải là hữu hiệu đối với Niên nhưng nó có
tác động khơng nhỏ đến nhận thức của Niên. Em đã nhận thức được giá trị
của việc học và việc lao động vất vả như thế nào nghĩa là Niên thuộc tuýp
8



học sinh biết nhận thức. Điều đó hé mở cho chúng ta một hướng mới để tìm
biện pháp giáo dục học sinh. Vì vậy, tơi chia sẻ cho các đồng chí để các
đồng chí tham khảo, áp dụng linh hoạt hoặc có nhiều hướng mới trong q
trình giáo dục học sinh của mình.
Giải pháp thứ tư: Áp dụng một số nội dung và phương pháp giáo
dục Việt Nam: … coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, phù
hợp với sự phát triển về tâm sinh lí lứa tuổi của người học… giáo dục ý
chí vươn lên. [1]
Tơi thiết nghĩ để giải pháp này mang lại hiệu quả cao trước hết phải
hiểu sâu sắc về Niên.
Tôi trực tiếp tìm vào làng Minh Tiến xã Thạch Lập, vào nhà Niên. Nhà
anh Phạm Văn Mắn và chị Phạm Thị Nết là cha mẹ cháu Phạm Văn Niên
(gia đình cháu thuộc hộ nghèo). Hỏi thăm hồn cảnh gia đình tơi được biết
gia đình anh chị đơng con (5 cháu), Niên là con trai duy nhất, con út nên
được chiều hơn. Năm Niên hai tuổi, do một lần gánh ngô quá nặng trên
nương về anh Mắn bị đau lưng. Từ đó đến nay, anh không làm được những
việc nặng, chỉ giúp vợ những việc vặt trong nhà. Chị Nết phải bươn chải và
làm mọi việc để chăm chồng, nuôi các con. Năm cấp I - II, Niên học khá tốt
vì mẹ Niên luôn động viên Niên học giỏi, sau làm bác sĩ tìm thuốc chữa
lưng cho bố. Lời động viên của người mẹ nghèo luôn là động lực, là mục
tiêu để Niên phấn đấu học tập.
Nhìn ở góc học tập của Niên (cái bàn ghép bằng các mảnh luồng và
ghế là một khúc gỗ đẽo bằng) có treo nhiều giấy khen học sinh giỏi, học
sinh tiên tiến. Sách vở cũ của Niên cịn để trên góc bàn, tơi xem qua chữ
viết ngay ngắn, rõ ràng, trình bày sạch sẽ, những điểm 10, 9, 8 cùng những
lời phê của thầy cơ cịn đủ cả. Hỏi thêm về Niên, anh chị cho biết cháu rất lễ
phép, chăm làm, đi học về là làm việc giúp mẹ, việc nhà, việc vườn, việc
trường, việc lớp, về thầy cơ…Niên rất tình cảm, biết thương bố mẹ. Có lần
Niên cởi tất chân của mình nhường cho bố. Nói đến đó tơi thấy mắt người

mẹ nghèo rưng rưng, chị nghẹn ngào không rõ tiếng: “nhưng bây giờ …cô
giáo ơi … nó khơng cịn được như trước nữa…Tiền nộp học, đặc biệt là tiền
chơi Gem thì cháu lấy ở đâu ạ, chị vẫn nghẹn ngào: “anh chị nhịn ăn, nhịn
mặc dành cho nó thiếu xì nó xin ơng bà, chú bác…nó cịn bảo là bạn cho
nó…Hỏi về phương pháp, tơi biết được gia đình giáo dục Niên chưa đúng
cách. Hỏi thêm một vài nhà hàng xóm tơi đã hiểu cơ bản về con người Niên:
Ngoan ngoãn, siêng năng, thương cha mẹ, chịu khó học tập nhưng đây là
giai đoạn có nhiều thay đổi về tâm sinh lí, dễ sa ngã, thiếu ý chí… Từ đáy
- Ở mục 2.3. Đoạn: “Một số nội dung … ý chí vươn lên” tác giả tham khảo
từ TLTK số [1].
9


lịng tơi thực sự cảm thơng hồn cảnh gia đình anh chị và mong muốn giáo
dục được Niên.
Tôi lên kế hoạch và thực hiện. Trước hết tôi thay đổi biện pháp giáo dục,
“cương” sẽ không phù hợp với Niên mà phải chuyển sang “nhu”. Quan tâm,
động viên, tâm sự, phân tích đúng sai, nên khơng nên, gần gũi em như một
người mẹ, người chị, người bạn mỗi ngày. Mặt khác, tôi nhờ một bạn trong
lớp gần nhà Niên sáng sớm sang gọi Niên cùng đi học. Tôi đề nghị giáo
viên bộ môn thường xuyên hỏi han, động viên, giúp đỡ Niên. Những bạn
học tốt và cán sự lớp kèm cặp cho Niên, tạo mơi trường cho Niên được hoạt
động. Vì có năng khiếu thể thao, tơi phối kết hợp với Đoàn thanh niên của
trường, Đoàn thanh niên của làng Minh Tiến, bầu Niên là đội trưởng đội
bóng chuyền để Niên có mơi trường lành mạnh vui chơi, hoạt động và được
khẳng định mình. Tơi treo giải thưởng cho phong trào TDTT chào mừng
26/3 để khích lệ Niên.
Tranh thủ tối đa thời gian gần gũi Niên, nói chuyện, phân tích về gia
đình, về bố mẹ, các chị, định hướng tương lai cho Niên… nhằm tác động
vào tình cảm, vào ý chí của Niên. Đồng thời, tôi thường xuyên kiểm tra bài

vở của Niên … Thời gian đầu, Niên ngồi nghe một cách bắt buộc, không tập
trung. “Mưa dầm thấm lâu”, “nước chảy đá mịn”, [3] tơi cố gắng kiên trì
suốt một thời gian dài 3 – 4 tuần Niên mới có biểu hiện tích cực, hợp tác.
Em nghe và có những ý kiến phản hồi nhưng cịn bi quan, khơng tự tin. Tơi
tiếp tục duy trì phân tích, định hướng cho em, động viên, cổ vũ em.
Cuối cùng, bằng sự tận tâm của tôi, của mọi người, 5 tuần trôi qua, 6
tuần trôi qua, và tuần thứ 7… cho đến kết thúc học kì II năm học 2009 2010, Niên đã học tập nghiêm túc, hồ mình vào sinh hoạt với tập thể một
cách tự nhiên và có sự cố gắng rõ nét. Với sự khích lệ của các giáo viên
giảng dạy trong lớp, Niên đạt danh hiệu học sinh tiên tiến học kì II năm học
2009 - 2010. Đối với lớp, Niên đã đưa phong trào đi lên. Năm học 2009 –
2010, đội bóng chuyền lớp 10A5 được giải nhì. Lớp đạt danh hiệu lớp tiên
tiến (vì điểm trừ ít hơn và lớp có thành tích). Ngồi thời gian ở trường, về
nhà Niên cũng trở lại là một người con ngoan như trước đây. Hoạt động
đoàn thể ở địa phương, Niên cũng nhiệt tình tham gia, đặc biệt là phong trào
TDTT của làng, của xã. Và đến năm học 2011 - 2012 Niên đã tốt nghiệp bậc
THPT, kết thúc khoá học. Như vậy, tôi đã đúng, đã thành công khi lựa chọn
phương pháp giáo dục này để giáo dục học sinh “nghiện” điện tử.
Phải nói rằng, học sinh nghiện điện tử là một trong những trường hợp
khó giáo dục. Bản thân tơi đã phải rất vất vả để tìm phương pháp giáo dục,
- Ở mục 2.3. Hai thành ngữ: “Mưa dầm thấm lâu”, “Nước chảy đá mịn” tác
giả trích ngun văn từ TLTK số [3].
10


uốn nắn các em. Kiên trì với những biện pháp giáo dục trên cuối cùng tôi đã
thành công, đã giáo dục được học sinh của mình. Song trong quá trình giáo
dục tôi nhận thấy phương pháp giáo dục hữu hiệu nhất vẫn là giáo dục sao
cho học sinh tự ý thức, tự chuyển biến, tự thay đổi. Muốn giáo dục được như
vậy thì lại phải giáo dục bằng chính tình yêu thương, sự quan tâm, gần gũi sẻ
chia của thầy cô. Mặt khác, người làm công tác trồng người phải thật sự kiên

trì, phải xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp, từ mong muốn cháy bỏng giáo
dục, uốn nắn học sinh. Có như vậy thì chúng ta nhất định sẽ thành công!
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với những biện pháp giáo dục học sinh nghiện điện tử trình bày ở trên,
tôi đã áp dụng giáo dục vào nhiều trường hợp học sinh trong các khóa chủ
nhiệm. Đồng thời chia sẻ cho các đồng nghiệp trong lớp chủ nhiệm cũng có
học sinh nghiện điện tử đều rất thành cơng. Các em đã vượt qua ngoại cảnh,
quay trở lại là một học sinh ngoan, sống có lí tưởng, có hồi bão, hồn
thành tốt chương trình giáo dục phổ thơng, trở thành cơng dân có ích cho xã
hội.
Về phía nhà trường cũng bổ sung thêm phương pháp giáo dục đối với
học sinh cá biệt cá hiệu quả và triển khai trong tổ chủ nhiệm.
Cụ thể là khóa học 2009 - 2012 có bốn học sinh như đã nêu trên, đặc
biệt là em Phạm Văn Niên. Khóa học 2012 - 2015 có trường hợp em Quách
Phi Dũng, Phạm Văn Điện, có nữ học sinh Phạm Thị Phương. Khố học
2015 - 2018, có em Trần Văn Anh, Phạm Quang Huy. Lớp của đồng nghiệp
Lê Văn Dương, khóa học 2011 - 2014 có trường hợp em Phạm Văn Quang,
Nguyễn Mạnh Hiếu; khóa học 2015 - 2017, lớp đồng chí Ngơ Thị Tuyết có
em Phạm Anh Chiến… với tất cả những học sinh “nghiện” điện tử nêu trên
chúng tôi đều đã áp dụng các biện pháp giáo dục trên và đều thành công.
Các em hầu hết đã trưởng thành, làm nhiều công việc khác nhau. Em Phạm
Anh Chiến đang chuẩn bị kết thúc bậc học THPT. Em Phạm Văn Điện là y tá
bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Lặc. Thỉnh thoảng cơ trị gặp nhau trong
bệnh viện, em rất quan tâm và có thái độ chăm sóc rất tận tình, chu đáo. Tơi
theo dõi và thấy với tất cả các bệnh nhân trong phòng bệnh em đều rất tận
tâm. Em Phạm Văn Quang hiện là cơng an xã Thạch Lập, các học sinh khố
sau ở cùng xã cho biết, anh Quang công an xã Thạch Lập xử lí cơng việc rất
hợp tình, hợp lí…Cịn Niên, em không thực hiện được mơ ước là bác sĩ để
chữa bệnh cho bố nhưng em hiện là một ông chủ nhà may lớn ở Phú Thọ,
cũng có điều kiện để phụ giúp bố mẹ trong cuộc sống, qua zalo cơ trị hay

tâm sự với nhau, em ln mời cô đi chơi Đền Hùng, qua em chơi, em đưa cơ
đi… hoặc mỗi khi về thăm nhà, em có qua thăm tơi. Phải nói rằng tình cảm
đó của em là món q vơ giá đối với tơi nói riêng và với nhà giáo chúng ta
nói chung.
11


Giờ đây nói về Niên tơi khơng thể qn cuốn nhật kí mà năm đó chị Nết
mang cho tơi xem. Tơi lại vào hỏi mượn chị và trích dẫn một số trang để
các đồng chí cùng đọc:

12


13


14


Rồi những tấm thiệp chúc mừng ngày 20/11, 8/3 của Niên và những học
sinh khác tơi cịn cất giữ.

15


16


17



Đó là một vài dịng chuyện trị trên zalo của tôi và Niên.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Tôi thiết nghĩ, một xã hội phát triển hay không đều phụ thuộc vào nhân
tố con người ngược lại con người có ích cho xã hội hay khơng lại phụ thuộc
vào quá trình giáo dục kết hợp với ý thức của họ. Trong xã hội ta ngày nay,
người có ích cho xã hội là người có tri thức, có đạo đức. Vậy muốn có điều
đó địi hỏi con người phải thật sự cố gắng tích lũy kiến thức, bồi dưỡng tri

18


thức, rèn rũa nhân cách đạo đức. Vậy tri thức, đạo đức chính là gốc rễ cho sự
phát triển của xã hội.
Mơi trường tốt nhất cho sự tích lũy kiến thức và rèn rũa đạo đức
không đâu bằng được học tập trong các nhà trường. Lứa tuổi phù hợp nhất
để thực hiện điều đó chính là lứa tuổi học sinh, đặc biệt là học sinh THPT,
ngưỡng cuối cùng để bước sang một bậc học mới hoặc vươn ra cuộc đời.
Bởi những lẽ đó các thầy giáo, cơ giáo hãy bằng tất cả tri thức, kỹ năng,
bằng lương tâm đạo đức nghề nghiệp, bằng tình yêu thương, nghĩa vụ và
trách nhiệm hãy dạy tri thức và rèn rũa, uốn nắn đạo đức cho các em.
3.2. Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục học sinh
“nghiện” điện tử đạt hiệu quả cao hơn, tôi mạnh dạn đề đạt một số kiến nghị
sau:
Một là: Đối với Ban Giám Hiệu nhà trường: Khách quan trong đánh
giá lớp chủ nhiệm và giáo viên chủ nhiệm. Cần bám sát vào từng nhiệm vụ
cụ thể để xem xét, đánh giá, động viên, khích lệ thầy trị trong q trình dạy

và học.
Nên giành thời gian quan tâm, giúp đỡ những học sinh cá biệt, như
“nghiện” điện tử. Có thể giúp đỡ các em và gia đình các em cả về vật chất
lẫn tinh thần. Mặt khác cũng cần động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
những giáo viên chủ nhiệm trong lớp có học sinh cá biệt, cung cấp cho họ
những phương pháp giúp họ giáo dục học sinh hiệu quả. Nên linh hoạt trong
nhận xét, đánh giá thi đua đối với giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp có học
sinh cá biệt, tránh áp đặt, cứng nhắc tạo cảm giác tủi thân, thiệt thòi cho giáo
viên và học sinh.
Khi giáo viên chủ nhiệm giáo dục thành công học sinh cá biệt, tập thể
lớp tiến bộ đi lên thì Ban giám hiệu nên có những hình thức khen thưởng kịp
thời, phù hợp để động viên, khích lệ thầy, trị.
Hai là: Đối với giáo viên chủ nhiệm có học sinh “nghiện” điện tử:
Phải thật sự kiên trì, nhiệt tình, tận tâm, thương yêu học sinh thực lòng,
mong muốn thực sự giáo dục các em, có niềm tin vào phương pháp giáo dục
của mình và sự tự chuyển biến của học sinh. Luôn nêu cao ý thức bồi dưỡng
chuyên môn, kỹ năng sư phạm, ln chuẩn bị tâm thế vượt khó, vượt khổ.
Nói tóm lại, giáo viên chủ nhiệm phải trở thành tấm gương sáng cho học
sinh noi theo, là điểm tựa tinh thần vững chắc, là nguồn động viên lớn lao
của các em, là người vừa sâu sắc, vừa tế nhị, vừa linh hoạt trong xử lí và lựa
chọn phương pháp giáo dục học sinh. Đồng thời cần phối kết hợp chặt chẽ
với gia đình, xã hội trong quá trình giáo dục học sinh. Mặt khác cần tìm hiểu
kĩ để biết bản chất con người học sinh, từ đó lựa chọn biện pháp giáo dục
hiệu quả.
19


Ba là: Đối với giáo viên bộ môn: Nắm chắc kiến thức về tâm lí học lứa
tuổi để có cách xử lí phù hợp các tình huống trong giờ học. Có đạo đức nghề
nghiệp, thương u học sinh, tơn trọng học sinh, đánh giá công bằng năng

lực các em, tránh tình trạng coi trọng vật chất. Ln bồi dưỡng chun môn,
nghiệp vụ sư phạm để luôn vững vàng, chủ động truyền thụ kiến một cách
thức hấp dẫn nhất đến học sinh. Có tinh thần phối kết hợp với giáo viên chủ
nhiệm trong công tác giáo dục, uốn nắn học sinh.
Bốn là: Đối với bạn bè: Tuyệt đối khơng được kì thị, xa lánh, cô lập, bè
phái mà phải gần gũi, phân tích đúng sai cho bạn, động viên, giúp đỡ để bạn
nhận thức đúng, vượt qua sai lầm trở về với tập thể cùng học tập và cùng
tiến bộ.
Năm là: Đối với bản thân học sinh “nghiện” điện tử: Các em phải
nhận thức được thầy cô, cha mẹ, bạn bè chỉ tác động tích cực đến các em.
Bản thân các em phải có nhận thức đúng đắn, có mong muốn được thay đổi,
được tiến bộ. Nếu khơng có được điều đó thì khơng có nhà giáo dục tài ba
nào có thể giáo dục thành công học sinh “nghiện” điện tử. Do đó giáo viên
chủ nhiệm, gia đình phải tác động sao cho các em có sự tự nhận thức, tự
chuyển biến trong tư tưởng thì khi đó các em sẽ hợp tác tích cực và cơng tác
giáo dục sẽ thành cơng.
Sáu là: Đối với gia đình có con “nghiện” điện tử: Luôn sát sao, quan
tâm, động viên, nhắc nhở các con, giành nhiều thời gian quản lí, kiểm tra
việc học và sinh hoạt của các con. Chủ động phối kết hợp với nhà trường để
nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện đạo đức của con em. Có thể thay đổi
biện pháp giáo dục con em : cương, nhu linh hoạt sao cho phù hợp và mang
lại hiệu quả cao.
Bảy là: Đối với xã hội: Phải tích cực, tự giác trong việc bảo vệ cái tốt,
cái tích cực, đấu tranh phịng trừ cái xấu, cái tiêu cực. Tơn trọng những
người làm cơng tác giáo dục, có nhiều chính sách ưu tiên hơn nữa đối với
nhà giáo. Tạo nhiều dư luận tích cực để hạn chế tối đa tình trạng học sinh
“nghiện” điện tử.
Khi làm được tất cả những điều đó thì tơi tin chắc rằng dù có gian nan
đến đâu chúng ta vẫn có thể giáo dục được những học sinh thân u của
mình!

XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thanh Hóa, ngày 21 tháng 5 năm 2017
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến
Lê Thị Yến
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1]. Mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục. WWW. Phuyen.edu.Vn. tapsan
1.6.
[2]. Tâm lí học phát triển. Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội – 2009. Tác giả
Đinh Thị Kim Thoa.
[3]. Văn học dân gian Việt Nam.
[4]. Truyện ngắn “ Mảnh trăng cuối rừng” – Nguyễn Minh Châu.
[5]. Những cuốn phim hay nói về hai cuộc chiến tranh (chống Pháp, Mĩ) của
Việt Nam. Tham khảo trên Internet.
[6]. Từ điển Tiếng Việt. GS Hoàng Phê.

21


MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
…………………………………………………………
I. MỞ ĐẦU ………….....
..……… 1

………………………………………….......
1.1. Lí do chọn đề tài
……….. 1
…………………………………………....
1.2. Mục đích nghiên cứu …………………………......
……….. 2
………….
1.3. Đối tượng nghiên cứu .………………………........
……….. 2
…………
1.4. Phương pháp nghiên cứu …………………….......
………. 2
…………...
II. NỘI DUNG ……………..………………….........….....
………. 2
………….…
2.1. Cơ sở lí luận ….....
………. 2
……………………………………………
2.2. Thực trạng vấn đề ..
……… 4
………………………………………...…
2.3. Những giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề
……… 6
……………
2.4. Hiệu quả của đề tài ..…………………………………... ……… 11
………
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ …………………………............ …….. 18
……..
3.1. Kết luận ………………………………………….

……...18
………....…
3.2. Kiến nghị ………………………………………………….……... 19


22



×