Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD ở trường THPT quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.33 KB, 21 trang )

SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
2.Kiến nghị:
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TRANG
1
2
2
2
3
3
3
3
3
4


15
17
17
19
20

1


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

PHẦN I:

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy học
để kéo người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học,
giờ học trở nên thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ
người giáo viên nào.
Câu tục ngữ: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”.
Chính là sự thể hiện tuyệt vời của phương pháp dạy học tích cực mà ngày nay
chúng ta đang trang bị, chia sẻ cho nhau. Mục đích là thực hiện được giờ giảng
theo hướng hiện đại và hơn hết là giờ giảng hiệu quả, mang lại hạnh phúc cho cả
người dạy lẫn người học.
Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ
tốt giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người
giáo viên phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao
tiếp tốt. Chưa kể là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế … Cách dạy này
thực sự là một áp lực nhưng là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao

chất lượng dạy và học.
Môn Giáo dục công dân là môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng
quát về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật
trong đời sống. Nhiệm vụ của chúng ta là dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là học
những gì chúng ta dạy vì lợi ích thực tiễn của việc học mang lại cho mỗi con người
mà ai cũng biết.
Khi chúng ta thay đổi, các em sẽ thay đổi và cả thế giới sẽ thay đổi theo.
Việc chúng ta sử dụng phương pháp dạy học tích cực là đã “chuyển mình” trong
việc “dạy sao” cho học trò thích học. Chúng ta đã cho bản thân và đồng nghiệp một
phương pháp dạy mở, tức là tùy vào bài học, tình hình học sinh của từng lớp mà
chúng ta có “cách dạy” sao cho thích hợp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia vào tiết
học, ngay từ bài học, phút học đầu tiên. Do vậy tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
“ Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD12 ở
trường THPT Quan Sơn”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm“Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng
dạy môn GDCD12 ở trường THPT Quan Sơn” đặt ra mục đích tìm hiểu và đánh
giá tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp
giảng dạy môn Giáo dục công dân nói riêng. Phân tích mục đích, vai trò và hiệu
quả đổi mới phương pháp giảng dạy đối với môn Giáo dục công dân. Qua đó đưa ra
một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của giáo viên
và khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh.

2


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số quan niệm về phương pháp dạy học tích cực và học sinh lớp 12 trường

THPT Quan Sơn- huyện Quan Sơn- Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thông qua kinh nghiệm thực tiễn trong quá giảng dạy và quá trình quan sát hoạt
động học tập của học sinh trên lớp.
- Qua kinh nghiệm của các đồng nghiệp, đặc biệt là các đồng nghiệp trực tiếp giảng
dạy môn Giáo dục công dân.
- Qua các kênh thông tin: Sách, báo, mạng iternets và các tài liệu chuyên ngành có
liên quan.
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn , được
dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong PPDH tích
cực được dùng với tức là hoạt động , chủ động, trái nghĩa với không hoạt động , thụ
động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính
tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy
giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học , nhưng
trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng
hạn , có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt nhưng thầy giáo chưa
đáp ứng được , hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận dụng PPDH tích cực
nhưng không Thành tựu vì học sinh chưa thích nghi , vẫn quen với lối học tập thụ
động. Vì thế , thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng
cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức , từ thấp lên cao.
Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò , sự phối
hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới Thành tựu. Như vậy , việc
dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

PPDH truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu
đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, phương pháp DH này lấy
hoạt động của người thầy là trung tâm. Theo Frire - nhà xã hội học, nhà giáo dục
học nổi tiếng người Braxin đã gọi PPDH này là "Hệ thống ban phát kiến thức", là
3


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

quá trình chuyển tải thông tin từ đầu thầy sang đầu trò. Thực hiện lối dạy này, giáo
viên là người thuyết trình, diễn giảng, là "kho tri thức" sống, học sinh là người
nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với PPDH truyền thống, giáo viên là chủ thể,
là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo. Giáo án dạy theo phương pháp này
được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên xuống. Do đặc điểm hàn lâm
của kiến thức nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ
thống, tính logic cao. Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH
truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ,
kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành của người học; do đó kỹ
năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.
Trích Báo Giáo dục thời đại ngày 10/04/ 2013)
Tác giả bài viết: TS Võ Hoàng Ngọc.
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1.Các phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo dục công dân lớp 12
a. Giải thích các khái niệm
* Phương pháp và phương pháp dạy học:
+ Phương pháp là thuật ngữ từ tiếng Hy Lạp “methodos”, có nghĩa là con đường,
cách thức vận động của sự vật hiện tượng nhằm đạt được mục đích. Nghĩa chung
nhất của phương pháp thường được hiểu là cách thức, phương tiện, giải pháp được
chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học, phương
pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách

quan để điều chỉnh hoạt động, nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định. Như vậy có thể hiểu phương pháp là sự đúc kết kinh nghiệm, là
khoa học và còn là nghệ thuật sáng tạo mang đậm dấu ấn của chủ thể trong việc lựa
chọn và sử dụng các phương pháp trong từng trường hợp cụ thể.
+ Phương pháp dạy học: Dạy học là hoạt động được đặc trưng bởi quá trình giảng
dạy của giáo viên và quá trình học tập của học sinh thông qua một phương pháp
đặc thù gọi là phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là việc sử dụng hệ thống
phương pháp giảng dạy và việc sử dụng phương pháp học tập nhằm thực hiện mục
đích, yêu cầu học tập đề ra phù hợp với cấp học, người học chương trình học cụ thể
đã được xác định.
Phương pháp dạy học không vì mục đích tự thân của nó, cũng không được
rút ra từ ý muốn chủ quan của người dạy, mà phương pháp dạy học được quy định
bởi nội dung, đặc điểm kiến thức của từng bộ môn, từng bài học, người học … Việc
sử dụng phương pháp dạy học nào phải được người giáo viên lựa chọn để tổ hợp
thành cách thức hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy học, lĩnh hội kiến
thức dưới sự chỉ đạo của người thầy ngằm thực hiện nhiệm vụ học.
Phương pháp dạy học quyết định đến sự thành công của quá trình dạy học:
Mục tiêu bài học có đạt được hay không, các yêu cầu về kiến thức, về kỹ năng, tư
4


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

tưởng và năng lực nhận thức. Phương pháp dạy học kết hợp với nghiệp vụ chuyên
môn cao, kỹ năng giao tiếp … làm cho học sinh yêu thích giờ học, môn học và vận
dụng những điều đã học vào cuộc sống. Phương pháp dạy học tạo nên giá trị, dấu
ấn về người thầy trong lòng học sinh … rất khó phai mờ.
* Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương
pháp sư phạm hiện đại … là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức,

kỹ thuật đề cao chủ thể nhận thức, chủ yếu phát huy tính tự giác, nhiệt tình chủ
động của người học, làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, người học được
tham gia làm việc, được sáng tạo … giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng
hiểu biết của mình, đề xuất ý kiến, tự nguyện trình bày hay tham gia tranh luận
trước tập thể và người dạy.
Thực chất phương pháp dạy học tích cực là hướng tới khả năng chủ động,
sáng tạo của người học chứ không phải hướng tới việc phát huy tính tích cực của
người dạy, người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh
phương pháp tự học độc lập suy nghĩ thông qua việc thảo luận, thí nghiệm, thực
hành, thâm nhập thực tế theo mục tiêu, nội dung của bài học, người thầy là người
tổng hợp hoạt động, ý kiến của người học để xây dựng nội dung bài học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ giảng của một giáo
viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai
trò uy tín của người thầy được đề cao hơn. Nhờ áp lực của phương pháp dạy học
tích cực, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của
từng nội dung bài học phải được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống,
câu hỏi của người học trong thời đại thông tin mở rộng và mới mẻ.
Mối quan hệ giữa thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp khi cùng làm việc với
nhau, cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của
người học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy học được
học chứ không bị học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức
kinh nghiệm của mình song song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy,
bạn bè. Cách học này làm tăng khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều
lần so với cách học truyền thống. Từ đó người học được tự tin khám phá năng lực
của bản thân mình, có trách nhiệm, biết chia sẻ và tìm thấy vị trí, giá trị của bản
thân với cộng đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh đã nói: “Để làm
cho tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị
của chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.

Chỉ khi người học tự mình khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung
cho nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành
động, thói quen hàng ngày của họ.
5


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực, quan hệ thầy trò trong việc dạy
và học cũng đổi khác. Người học trở nên chủ động trong việc học; chủ động tìm
kiếm kiến thức, có thể thu nhận kiến thức không phải chỉ từ người thầy mà còn từ
nhiều nguồn khác nữa. Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển tri thức
mênh mông, điều gì cần chọn lọc, sử dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống, vào
công việc, như thế nào … Tất cả những điều ấy đều cần đến sự hướng dẫn của
người thầy. Sự thay đổi quan hệ thầy trò trong việc dạy và học này yêu cầu người
học cần hiểu rõ mình là ai, mình muốn là người như thế nào sau này và điều gì cần
học và muốn học cái gì … Người dạy càng phải phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn, tự
học, tự sáng tạo để có thể đảm nhận và xứng đáng trong vai trò mới mà sự phát
triển của ngành giáo dục đòi hỏi.
3.2 Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là:
Thứ nhất: Dạy học lấy người học làm trung tâm
Vì lẽ cơ bản, học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục, của dạy học, nhà
trường tồn tại là vì học sinh. Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và
phát triển nhân cách của mình, không ai có thể làm thay được. Vị trí trung tâm của
học sinh trong quá trình học tập cần phải đặt đúng vị trí của nó như đã vốn có. Việc
phát huy tính chủ động, tích cực, khơi dậy tài năng của mỗi một cá nhân học sinh
có ý nghĩa không phải chỉ hôm nay mà còn là hành trang cho các em bước vào cuộc
sống sau này … Làm được điều này chỉ có thể là mọi hoạt động giáo dục - trong đó
trọng tâm là việc dạy học, phải được tiến hành có kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của người giáo viên.

Để thực hiện tốt và có hiệu quả phương pháp dạy học lấy người học (học
sinh) làm trung tâm giáo viên cần áp dụng phương pháp day học nêu vấn đề. Tôi đã
tiến hành sử dụng trong giảng dạy bài 2: Thực hiện pháp luật.
- Đơn vị kiến thức áp dụng phương pháp dạy học:
Phần 1: Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
Đối với phần này tôi chỉ áp dụng cho phần tìm hiểu khái niệm thực hiện pháp luật.
- Mục tiêu:
Học sinh nêu được thế nào là thực hiện pháp luật, tỏ thái độ không đồng tình trước
những hành vi vi phạm pháp luật.
- Cách tiến hành:
+ Giáo viên cho học sinh biết về tình huống ( chiếu trên màn hình, viết trước trên
giấy khổ lớn, hoặc cho học sinh đóng vai).
Tình huống: Bình và Tú đang vội đi làm, tới ngã tư, thấy đèn đỏ nhưng vắng
người qua lại , thấy không nguy hiểm Tú và Bình vượt đèn đỏ.
Hỏi: Em có đồng tình với hai bạn đó không? Tại sao?
+ GV căn cứ vào điều kiện cụ thể của lớp học có thể chia nhóm hoặc không chia
nhóm vì tình huống này học sinh có thể làm việc cá nhân.
+ GV cho học sinh thảo luận tình huống
6


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

+ GV ghi tóm tắt ý kiến học sinh lên bảng phụ
+ GV nêu tiếp câu hỏi để thảo luận: Em biết thực hiện pháp luật là gì?
+ GV chính xác hóa các ý kiến của học sinh
- Kết luận:
GV định hướng học sinh.
+ Không đồng ý với việc làm của Tú và Bình
+ Vì: Làm như vậy là không tuân thủ Luật Giao thông đường bộ

+ Không vượt đèn đỏ (khi không có sự điều khiển giao thông khác) là quy định ai
cũng phải tôn trọng và thực hiện để đề phòng trường hợp bất ngờ va chạm với ai
đó, nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân, cho người khác và để rèn thói quen
nghiêm túc thực hiện pháp luật.
+ Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sông, trở thành hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức.
Thứ hai: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Kế hoạch học tập, bài giảng phải được thiết kế trước trong giáo án chứ không
phải thực hiện một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Người dạy phải thông báo cho học
sinh vào cuối buổi học những công việc cần chuẩn bị cho giờ học kế tiếp, phân
công nhiệm vụ rõ ràng, để người học phải có tâm thế chuẩn bị, tham gia và hợp tác.
Trong khi tiến hành giờ học, người dạy phải linh hoạt thay đổi các hoạt động cho
phù hợp với thực tế giờ học và nội dung bài học, Nhằm kích thích người học hoạt
động tích cực, tạo sự hưng phấn cho giờ học. Có như thế, mục tiêu dạy học, bài học
mới được đảm bảo thành công.
Phần này giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo nhóm. Tùy
vào số lương học sinh từng lớp. GV chia nhóm phù hợp nhất, mỗi nhóm nên có 5 –
6 học sinh.
- Mục tiêu:
Từ tình huống ở phần 1: Thế nào là thực hiện pháp luật học GV xây dựng tiếp
tình huống ở phần 2: Thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
- Cách tiến hành:
+ GV nêu tình huống:
Tình huống: Dũng 16 tuổi nhưng hay trốn học đi chơi điện tử. Tại đây Dũng bị
Thắng (30 tuổi) dụ dỗ hút thuốc phiện và trở thành người nghiện. Dũng và Thắng
đã được địa phương giáo dục nhiều lần và đã bị buộc đi cai nghiện nhưng vẫn tiếp
tục sử dụng ma túy. Một lần Dũng và Thắng bị công an bắt quả tang đang sử dụng
ma túy. Lập tức cả hai bị lập biên bản và dẫn giải về trụ sở công an phường cùng
tang vật.

Biết chuyện đó, bà Thanh thắc mắc: Thằng Thắng bị lập biên bản và bị giải
về công an phường là đúng rồi. Còn thằng Dũng còn trẻ con lại bị người khác lôi

7


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

kéo mà thành nghiện thì chỉ vi phạm đạo đức thôi, tại sao chú công an lại lập biên
bản và bắt giữ nó.
Hỏi:
1. Em có đồng ý với ý kiến của bà Thanh không? Vì sao
2. Theo em, thế nào là vi phạm pháp luật?
+ GV chia lớp làm nhiều nhóm, giao cho các nhóm thảo luận tình huống trên.
+ Học sinh thảo luận.
+ Đại diện một số nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
+ Các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến.
+ Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung: Căn cứ vào dấu hiệu nào để anh/chị xác
định Dũng và Thắng vi phạm pháp luật.
+ Lớp thống nhất đáp án
+ Giáo viên giới thiệu với học sinh Điều 3 Luật Phòng chống ma túy.
- Kết luận:
GV định hướng học sinh nêu được:
1. Không đồng ý với ý kiến của bà Thanh; vì hành vi của Dũng không chỉ vi
phạm đạo đức mà còn vi phạm pháp luật. Căn cứ vào Điều 3 Luật Phòng
chống ma túy thì sử dụng trái phép ma túy là vi phạm pháp luật. Dũng và
Thắng phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy.
2. Vi phạm pháp luật có ba dấu hiệu cơ bản.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách
nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội, được pháp luật bảo vệ

Thứ ba: Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học trong dạy học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta “Về việc học phải lấy tự học làm
cốt”. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, khả năng
phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Phương pháp tự học
hướng đến việc khơi dậy khả năng suy nghĩ, làm việc, nắm bắt kỷ cương và con
đường đi đến kiến thức mới. Muốn làm được điều này học sinh buộc lòng phải làm
việc nhiều hơn với sách vở (giáo khoa và sách tham khảo), làm bài tập, tự học ở
ngoài trường và lớp … kết hợp với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên bộ môn.
Bồi dưỡng khả năng tự học chính là sự chuẩn bị cần thiết cho khả năng giải quyết
các vấn đề thực tiễn trong việc làm, thực tế sau này của người học, giúp họ có thể
tự tin hòa nhập, tự vượt qua những áp lực, khó khăn, hướng đến tương lai của bản
thân và sự phát triển của tập thể mà họ là thành viên.
Minh chứng: Những tấm gương tự
học vĩ đại
Trích tin giáo dục: 01/11/2014 từ
nguồn: diendantoanhoc.
1. Srinivasa Ramanujan (1887-1920) –
Nhà toán học huyền thoại
8


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Nhà toán học người Ấn Độ Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại, nổi
tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về toán học lý thuyết nhưng đã có
nhiều đóng góp cho toán học như giải tích, lý thiết số, dãy số vô hạn…
2. Michael Faraday (1791–1867) – Thiên tài tự học là chính Michael Faraday được
đánh giá là một trong những nhà khoa học có tầm ảnh hưởng lớn nhất mọi thời đại.
Thế nhưng, hầu hết những kiến thức của ông đều là từ tự học.
Họ đều không có điều kiện để được học hành đầy đủ nhưng bằng chính đam mê

và tinh thần ham học hỏi, họ đã thành những vĩ nhân.
Thứ tư: Hoàn thiện học của cá nhân phối hợp với học tập hợp tác tập thể.
Những tri thức mà học sinh khám phá dễ mang tính chủ quan, phiến diện, do
vậy các em cần trao đổi, hợp tác tri thức cá nhân được kiểm nghiệm tăng tính khách
quan và khoa học. Đồng thời tạo thói quen giao tiếp, khả năng thuyết phục, lắng
nghe, nói trước đám đông … ý thức hợp tác, chia sẻ và tính kỷ luật …
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên quan hệ bình đẳng giữa người học và môi
trường học tập an toàn là điều kiện để xây dựng tình bạn, tính cạnh tranh lành
mạnh, thói quen chia sẻ, tính trách nhiệm. Xây dựng quan hệ thầy - trò - bạn bè tốt
đẹp không chỉ lúc còn đi học mà cả trong cuộc sống và công việc sau này.
Thứ năm: Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
Trong quá trình dạy học, đánh giá học sinh là rất quan trọng để giáo viên
nắm bắt được thực trạng học tập của học sinh và điều chỉnh việc dạy sao cho phù
hợp hơn, đạt kết quả cao hơn. Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải
hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá khả năng, sự hiểu biết của mình để điều chỉnh
việc học; giáo viên phải tạo điều kiện thuận lợi để người học được tham gia, và biết
cách đánh giá bản thân. Thông qua việc đánh giá khích lệ nhau, nhận ra được ưu
điểm và hạn chế của từng cá nhân để khắc phục, đánh giá việc học tập phải dựa
trên tiêu chuẩn văn hóa đánh giá tức là tìm ra được ưu điểm và đề nghị được giải
pháp sửa chữa khuyết điểm … Có làm được điều này thì phương pháp dạy học tích
cực với đặc trưng thứ năm là đánh giá việc học - người học mới thực sự có ý nghĩa!
Tuy nhiên khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực chúng ta cũng gặp
một số trở ngại như: Lớp học đông không áp dụng được phương pháp mới, người
học lười phát biểu, thụ động, sợ không đủ thời gian, cháy giáo án. Người học thì e
dè, ngại làm việc, chỉ thích nghe ghi, ngại đứng dậy phát biểu trước lớp, sợ thầy áp
dụng phương pháp mới, kiến thức không được cô đọng lại rõ ràng mà thi lại tiến
hành theo kiểu học cũ … Để khắc phục những trở ngại này phải có thời gian để
người dạy thực hành và rút kinh nghiệm … Trước mắt có thể thực hiện những điều
sau để có giờ giảng thành công như:
Tìm hiểu kỹ về người học, đặc biệt là nhu cầu, mong đợi của họ đối với môn

học của mình phụ trách để lựa chọn phương pháp phù hợp.

9


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Chuẩn bị kỹ bài giảng: Chọn thông điệp ý nghĩa nhất để chuyển tải nội dung.
Tốt nhất bài giảng nên tuân theo quy tắc số 3: Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi
phần 3 ý … cùng với các ví dụ, tư liệu minh họa cụ thể, sinh động.
Giao tiếp với người học: Tôn trọng và là người bạn cùng với thái độ thân
thiện, lịch sự, nhẹ nhàng, sự khuyến khích sẽ cho người thầy rất nhiều cơ hội để mở
rộng tâm hồn và trí tuệ của người học …
Rút kinh nghiệm sau từng giờ giảng. Về nội dung bài giảng, phong cách, ứng
xử của giáo viên … Bằng cách xin nhận xét của học trò qua phiếu không ghi tên …
Điều cuối cùng, chúng ta cần nhớ là học phương pháp nhưng không phụ
thuộc vào phương pháp. Tất cả sự thành công của giờ học và nhiều giờ học tiếp nối
sẽ được quyết định bởi bản lĩnh, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tấm lòng của
người giáo viên có duyên với nghề dạy học.
3.3Các phương pháp dạy học tích cực thường được sử dụng nhất trong dạy học
môn giáo dục công dân lớp 12:
Hiện nay có rất nhiều biện pháp để thực hiện phương pháp dạy học tích cực,
có thể sử dụng vào tất cả các bài dạy trong chương trình giáo dục công dân ở cấp
trung học như:
Biện pháp kích thích động não.
Biện pháp thảo luận nhóm.
Biện pháp đóng vai.
Nhưng theo kinh nghiệm thực tế trong quá trình giảng dạy tôi thường xuyên sử
dụng những phương pháp dạy học tích cực sau.
* Phương pháp động não: là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian

ngắn nảy sinh được những ý tưởng hay giả định về một vấn đề nào đó.
Trong môn giáo dục công dân, phương pháp này được dùng để giới thiệu chủ
đề của bài học trên cơ sở so sánh và lựa chọn kết quả trả lời của học sinh hoặc dùng
để thu thập vác phương án giải quyết vấn đề có liên quan đến nội dung bài học đã
được nêu ra trước đó.
Phương pháp động não, hướng đến mục đích phát triển người học những
phẩm chất hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác kết quả của
hoạt động động não là những ý tưởng, giải pháp mới mẻ của người học, phương
pháp này tạo thói quen độc lập suy nghĩ cho người học và người dạy, qua đó có thể
thu thập được thêm những điều bổ ích, ý tưởng mới.
Phương pháp động não có thể được tiến hành theo trình tự sau:
Giáo viên nêu chủ đề hoặc câu hỏi trước lớp hoặc nhóm
Đề nghị người học đặt câu hỏi.
Thu thập câu hỏi, câu trả lời.
Khuyến khích học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
Liệt kê tất cả các ý kiến lên bảng hoặc giấy khổ lớn, không bỏ sót ý kiến nào,
trừ trường hợp trùng lặp.
10


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Phân loại các ý kiến, làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng.
Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
+ Ưu điểm của phương pháp động não là:
Giáo viên dễ dàng soạn câu hỏi, dễ thực hiện không tốn kém, đồng thời huy
động được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình tìm kiếm thông tin của câu trả
lời. Tạo được không khí sôi nổi, vui vẻ nhờ thái độ tham gia phản hồi một cách tích
cực của người học, sự di chuyển của giáo viên trong lúc hỗ trợ các nhóm, cá nhân
làm việc …

+ Nhược điểm của phương pháp động não là:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, học sinh thụ động, ít quan tâm,
các ý kiến trả lời có thể nhiều trùng lắp, tản mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương
pháp động não chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp ý tưởng chứ chưa bồi dưỡng được
năng lực tư duy phân tích, chứng minh hay tổng hợp của học sinh.
+ Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp động não là:
Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và quản lý được thời gian theo phân phối nội dung:
Câu hỏi phải ngắn, gọn rõ ràng, không quá rộng hay quá hẹp không nhằm
mục đích cung cấp kiến thức cơ bản mà hướng đến mở mang và đào sâu kiến thức.
Giáo viên phải chủ động điều khiển buổi học, là người tổng kết câu hỏi và
câu trả lời, ghi tóm tắt kiến thức chuẩn lên bảng hoặc giấy khổ lớn để học sinh theo
dõi tiến trình bài học. Tiếp tục chuyển ý vào nội dung tiếp theo của bài học.
* Phương pháp thảo luận nhóm:
Đây là phương pháp hữu hiệu nhất để khuyến khích sự sáng tạo và tích cực
tham gia của mọi thành viên. Học sinh sẽ chủ động chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm,
ý kiến để giải quyết vấn đề được đặt ra, qua đó đạt mục đích dạy học. Học sinh sẽ
hưởng ứng, nhiệt tình, hợp tác, thu được kết quả kích thích tư duy sáng tạo và tạo
điều kiện để các em thể hiện mình.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể tiến hành theo trình tự sau:
Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu, quy định thời gian thực hiện
Chia nhóm từ 4 đến 10 người theo cách ngẫu nhiên hay thuận tiện theo
điều kiện lớp học. Gọi tên nhóm (để tạo bầu không khí nhóm tự đặt hay
giáo viên chỉ định)
Cử trưởng nhóm, thư ký và thực hiện công việc của nhóm. Ghi chép
(giấy khổ lớn hay cử người trình bày trước tập thể)
Giáo viên tổng kết, bổ sung.
+ Ưu điểm của phương pháp làm việc nhóm:
Chủ đề được xác định rõ, định hướng nhiệm vụ của nhóm. Đưa ra được giải
pháp, lời kêu gọi hành động từ kết quả hoạt động của nhóm.
Mọi thành viên của nhóm đều phải hoạt động và nhận xét kết quả đánh giá

chung của giáo viên trên cơ sở, kết quả đã đạt được và có sự so sánh với nhóm

11


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

khác. Kiến thức trở nên bền vững, bớt tính chủ quan, học sinh biết lắng nghe và phê
phán để bảo vệ ý kiến của mình, của nhóm.
+ Nhược điểm
Đòi hỏi tốn nhiều thời gian, người học phải rất tập trung và có tinh thần trách
nhiệm với tập thể cao. Thời gian 45 phút của một tiết học là một khó khăn lớn cho
sự thành công của phương pháp làm việc nhóm.
Nếu tổ chức kém (nhất là cộng thêm lớp học yếu, mất trật tự, học sinh quá
hiếu động thì thảo luận nhóm chưa được tập luyện dễ gây hỗn loạn (ngay trong một
nhóm hay giữa các nhóm nhau) dẫn đến học sinh không quan tâm, làm việc riêng
hay phát sinh sự mâu thuẫn, đối địch và giận dữ.
Sự hăng hái hay thụ động quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự
quản lý, điều khiển của giáo viên.
Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp làm việc nhóm là:
- Giáo viên phải kết nối được ý kiến của các nhóm.
- Là người phân tích, nhận xét (chứ không phê phán) ý kiến của các nhóm.
Cần thiết sẽ là người dung hòa các ý kiến của các nhóm trái ngược, xây dựng khối
đoàn kết, chỉ ra định hướng yêu cầu của từng nhóm để không sa đà)
- Là người kiểm soát thời gian, không để nội dung bị lặp lại (nhóm thuyết
trình, nhóm khác lắng nghe, bổ sung, trưng bày áp phích, mô hình) …
- Là người tổng kết thảo luận nhóm, nhận xét và rút kinh nghiệm về kết quả
thảo luận, đáp ứng yêu cầu của bài học, thời gian … và nếu hoạt động nhóm chưa
mang lại kết quả như mong muốn thì phải giúp học sinh các lỗi đã mắc phải để lần
thảo luận sau làm tốt hơn.

- Giáo viên cần trang bị kỹ năng giao tiếp (sự thân thiện, thái độ tôn trọng
lịch sự, sẵn sàng hỗ trợ chia sẻ với tất cả các nhóm).
- Kỹ năng tổ chức, phân công và điều hành.
* Phương pháp đóng vai:
Là phương pháp dạy học tích cực và “đặc biệt” vì đây là phương pháp gây sự
chú ý và thu hút người học tham gia vào bài giảng, tạo bầu không khí sôi nổi, sinh
động, người dạy và người học trở nên thân thiện, gần gũi, giờ giảng trở nên hiệu
quả hơn.
Đây là phương pháp sử dụng lúc mở đầu bài giảng hay neo chốt kiến thức,
giúp người dạy và người học luyện tập ứng xử với mục đích là thực hành trao đổi
những vai trò có thực trong cuộc sống. Giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc, tập trung
vào một sự kiện cụ thể mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát. Việc “diễn”
không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận
rút ra nội dung bài học sau phần diễn ấy.
Phương pháp đóng vai có thể được tiến hành theo trình tự sau:
Giáo viên có nêu chủ đề tình huống trước cho các nhóm chuẩn bị hay nêu khi
bắt đầu giờ học, trong đó nêu rõ quy định về thời gian chuẩn bị, thời gian diễn …
12


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Các nhóm thảo luận về công tác chuẩn bị và tiến hành kịch bản của vai diễn.
Lớp thảo luận, nhận xét, thường là bắt đầu từ khả năng diễn xuất, ứng xử của
nhân vật trong tình huống vở diễn nhưng sẽ mở rộng sang vấn đề gắn với bài học
giáo viên tổng hợp các ý kiến và kết luận.
+ Ưu điểm của phương pháp đóng vai:
Học sinh được rèn luyện thực hành kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ của
mình khi thực hành ứng xử trong thực tiễn.
Bộc lộ khả năng sáng tạo, linh hoạt khi đóng vai (giả trang, thay đổi giọng

nói, tính cách theo nhân vật)
Tạo ra sự tập trung, tính trách nhiệm trong vai diễn của người diễn theo
hướng tích cực tự giác. Khuyến khích các em có khả năng đóng kịch và yêu thích
bộ môn nghệ thuật này trong thực tế, định hướng nghề nghiệp tương lai.
Thay đổi thái độ hành vi ứng xử của các em trong thực tế theo hướng tích
cực, tự giác. Đó là những dấu ấn “khai hóa” tâm hồn các em, khơi dậy tình bè bạn
mà người dạy có thể làm được qua vai diễn của học sinh.
+ Nhược điểm của phương pháp đóng vai:
Phương pháp đóng vai chỉ mang lại hiệu quả thực sự với phòng học, diễn
rộng, học sinh mạnh dạn, kịch bản tốt, có sự chuẩn bị của học sinh và ý kiến trợ
giúp của giáo viên - nếu đề tài được chuẩn bị trước buổi học. Vì đa phần các em
đều “nghĩ sao làm vậy”, rất đơn sơ!
Giáo viên sẽ mất nhiều thời gian nếu không có kinh nghiệm tổ chức hoặc học
sinh quá thụ động nhút nhát.
Thưa quý đồng nghiệp, thực tế không có một phương pháp dạy học tích cực
nào tối ưu để có thể vận dụng trong suốt một buổi học hay giờ học, do đó tùy vào
điều kiện yêu cầu của bài học, đối tượng học, phương tiện dạy học mà chúng ta có
thể sử dụng kết hợp các phương pháp và điều quan trọng là có sử dụng phương
pháp nào thì giáo viên vẫn phải là người chủ đạo, chủ động, dẫn dắt người học
chạm đến tri thức và trở thành những người chủ tri thức tương lai thực sự.
* Giới thiệu chi tiết một phương pháp dạy học tích cực áp dụng vào giờ học lớp
12 môn Giáo dục công dân.
Lớp áp dụng: 12A2 Trường THPT Quan Sơn
Bài dạy bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4 tiết)
Tiết 1: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
Phương pháp thảo luận nhóm
Ngoài phần chung cần lưu ý trong phương pháp thảo luận nhóm như phần
đầu đã trình bày. Để có thể thực hiện phương pháp thảo luận nhóm thành công,
chúng ta có thể thực hiện như sau:
- Xác định mục đích của phương pháp thảo luận nhóm

Khuyến khích sự tham gia của học sinh vào bào học theo nhóm.

13


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Học sinh phải chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến cá nhân để xây dựng
bài học, trình bày quan điểm cá nhân, tranh luận để bảo vệ chính kiến của cá nhân
của nhóm theo mục tiêu bài học.
Rèn luyện kỹ năng trao đổi, hợp tác, sáng tạo và hoạt động tập thể của các
thành viên trong nhóm.
- Xác định nội dung thảo luận nhóm
+ Xác định chủ đề, nội dung:
Chủ đề, nội dung càng gợi sự tranh luận càng mang tính thời sự càng tốt.
Bám sát mục tiêu bài giảng, phù hợp với học sinh cấp học, càng ngắn gọn càng tốt.
- Cách thức tổ chức thực hiện thảo luận nhóm
1.
Chuẩn bị nội dung làm việc nhóm
2.
Giao nhiệm vụ nhóm và chia nhóm
3.
Người học làm việc nhóm
4.
Trình bày kết quả làm việc nhóm
5.
Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá
* Gợi ý chi tiết thực hiện các bước:
1. Chuẩn bị nội dung làm việc nhóm: số lượng chủ đề, mục tiêu bài học, các gợi ý
2 .Giao nhiệm vụ nhóm và chia nhóm

Ghi rõ nhiệm vụ lên bảng, giấy, gọi tên giao nhóm thực hiện
Nhiệm vụ của nhóm:
Chủ đề: Bắt người khẩn cấp trong trường hợp nào? Ai là người có thẩm quyền ra
lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp? Ý nghĩa quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân?
Thời gian: 10 phút
Phương tiện: Giấy A0, bút dạ (viết to, rõ ràng) (Mẫu: Bảng giao nhiệm vụ nhóm))
Quy định thời gian làm việc nhóm (thời gian bắt đầu và kết thúc) thời gian trình
bày trước lớp.
Quy định sơ đồ vị trí ngồi làm việc của từng nhóm.
Chia nhóm: Tùy sĩ số lớp, mặt bằng diện tích phòng học mà phân chia cho phù hợp.
Tốt nhất là từ 4 đến 10 người. Nếu ít quá thì khó bàn bạc, rời rạc, đông quá thì
ồn ào, mất tập trung khó điều khiển. Có thể chia ngẫu nhiên, gọi tên hay theo tổ có
sẵn. Đặt tên cho nhóm theo nội dung bài học, số đếm …
3. Người học làm việc nhóm
- Cử nhóm trưởng, thư ký trình bày ý tưởng nhóm hay biên bản thảo luận.
- Khuyến khích mọi thành viên tham gia, các thành viên cần có kỹ năng làm
việc nhóm. (Lắng nghe, bàn bạc trao đổi ý kiến cá nhân, nhận xét (không phê phán
hay đánh giá người nói mà cần quan tâm nội dung đưa ra, ý kiến giải pháp nào là
tốt nhất nên lựa chọn để tránh xúc phạm và tổn thương lẫn nhau). Biết sử dụng lý lẽ
để thuyết phục, bảo vệ ý kiến cá nhân, biết phục tùng: “Dân chủ tập trung”. Chấp
nhận ý kiến của nhóm).
14


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

- Người hướng dẫn cần quan tâm tới tất cả các nhóm.
- Xác định rõ vấn đề cần thảo luận chưa? Có thể gợi ý để các nhóm xác định
chính xác vấn đề.

- Có ai là người chưa tham gia? Ai nói quá nhiều? Ai không quan tâm?
- Kiểm soát thời gian làm việc của các nhóm cả lớp.
4. Trình bày kết quả làm việc nhóm
Có nhiều cách giúp trình bày kết quả làm việc của nhóm:
+ Một nhóm báo cáo, các nhóm bổ sung
+ Từng nhóm thuyết tình riêng
+ Nhóm chỉ theo dõi toàn bộ phần trình bày của các nhóm, so sánh và đưa nhận
xét, hoặc đặt câu hỏi chuyên biệt.
+ Trưng bày áp phích
+ Ghi ý kiến lên bảng.
5. Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá
+ Giáo viên phải kết nối được ý kiến các nhóm
+ Giúp đỡ để các nhóm thực hiện đúng yêu cầu, nhiệm vụ của nhóm
+ Bổ sung, làm rõ được vấn đề cần giải quyết, nâng thành khái quát, lý luận chung.
+ Bài học, hành động thực tế từ những kết quả thu được phần làm việc các nhóm.
Nếu các nhóm đảm bảo được yêu cầu, nội dung, thời gian kế hoạch thảo luận
nhóm hay ngược lại giáo viên cũng phải là người rút kinh nghiệm (ưu điểm, hạn
chế cần khắc phục) khen ngợi những nhóm, thành viên làm việc tích cực đạt kết
quả cao.
Bất kỳ phương pháp dạy học tích cực nào cũng có điểm mạnh và mặt hạn
chế không thể tránh khỏi, do đó, thường trong một giờ học sẽ có nhiều phương
pháp được lựa chọn. Tuy nhiên, dù lựa chọn phương pháp nào thì người giáo viên
vẫn là người chủ đạo bám theo hoạt động của các nhóm, lựa chọn các phương án
tiết kiệm thời gian, nội dung không trùng lặp, lôi cuốn được sự tham gia của mọi
thành viên trong tập thể học sinh.
Dù phương pháp thảo luận nhóm đôi khi không mang lại kết quả như mong
muốn thì người giáo viên cũng phải giúp học trò, học bài học từ sự không thành
công của mình. Đó mới là điều quan trọng nhất, đó mới thực sự là vai trò và giá trị
của Người Thầy.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

Phương pháp dạy học tích cực trong đề tài tôi đã áp dụng cho toàn bộ trong quá
trình dạy học ở các lớp 12 trong nhà trường. Nhưng tôi chỉ lựa chọn 2 tiết dạy ở hai
lớp khác nhau, với phương pháp dạy học khác nhau, để so sánh và kết quả thu
được như sau.
*Kết quả học thu được ở tiết học lớp 12A2. (Áp dụng phương pháp dạy học tích
cực).
15


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Lớp
12A2

TS
HS
34

Loại Giỏi
SL
%
8
24

Loại Khá
SL
%
16
47


Loại TB
SL
%
10
29

Loại Yếu
SL
%
0
0

Loại Kém
SL %
0
0

*Kết quả thu được ở tiết học lớp 12A3. ( Áp dụng các phương pháp dạy học
truyền thống khác).
Lớp
12A3

TS
HS
33

Loại Giỏi
SL
%
4

12

Loại Khá
SL
%
9
27

Loại TB
SL
%
18
55

Loại Yếu
SL
%
2
6

Loại Kém
SL %
0
0

* Đánh giá chung: Năm học 2016 - 2017 tôi được Ban giám hiệu phân công trực
tiếp giảng dạy hai ở cả lớp 12A2 và 12A3 về cơ bản chất lượng học sinh của 2 lớp
là tương đương nhau. Nhưng với việc áp phương pháp dạy học khác nhau thì kết
quả học tập học sinh của hai lớp đạt được có sự chênh lệch nhau.
Đối với lớp 12A2: Qua khảo sát thực tế trong qua trình giảng dạy, hỏi đáp trên

lớp đa số học sinh nhận đinh, áp dụng phương pháp “dạy học tích cực” tạo điều
kiện cho các em có cơ hội nghiên cứu, học tập, khám phá kiến thức nhiều hơn, tạo
cơ hội cho học sinh bày tỏ, phát biểu ý kiến của mình, rèn luyện kỹ năng hợp tác,
tự tin phát biểu trước đông người và đặc biệt nhiều học sinh hứng thú với môn học,
ít nhàm chán so với áp dụng các phương pháp dạy học khác. Do vậy chất lượng học
tập của lớp được tăng lên rõ rệt. Số học sinh đạt học lực Giỏi- Khá tăng và học lực
Trung bình giảm xuống, đặc biệt là học sinh có học lực yếu không còn cụ thể là:
- Loại Giỏi: 8 học sinh chiếm: 24 %
- Loại Yếu: 0 học sinh chiếm: 0 %
- Loại Khá: 16 học sinh chiếm: 47%
- Loại Kém:0 học sinh chiếm :0%
- Loại T.bình:10 học sinh chiếm: 29 %
Đối với lớp 12A3: Lớp áp dụng các phương pháp dạy học truyền thống khác.
Qua khảo sát thực tế trong qua trình giảng dạy, hỏi đáp trên lớp đa số học sinh có ý
kiến cho rằng: Môn học khô khan, nhàm chán, nặng về lí thuyết, khó nhớ, khó học
đặc biệt các nội dung kiến thức về pháp luật, đa số học sinh không hứng thú với
môn học do vậy kết quả đạt được chưa cao: Số lượng học sịnh đạt loại học lực
Giỏi- Khá còn thấp, số lượng học sinh có học lực trung bình cao, số học sinh có
học lực Yếu còn tương đối cao.
- Loại giỏi: 4 học sinh chiếm: 12%
- Loại Yếu: 2 học sinh chiếm:6 %
- Loại Khá: 9 học sinh chiếm: 27%
- Loại Kém: 0 học sinh chiếm: 0%
- Loại T. bình: 18 học sinh chiếm:
55%
* Nhận xét chung:

16



SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Như vậy tỉ lệ % học lực học sinh ở hai lớp. Một lớp áp dụng phương pháp dạy
học tính cực học sinh trong học tập thì số lượng học sinh xếp loại học lực Giỏi, Khá
chiếm 71% còn số học có học lực Trung bình chỉ chiếm 29% tổng số học sinh của
lớp, đặc biệt là không có học sinh xếp loại học lực Yếu, Kém. Một lớp không áp
dụng phương pháp dạy học tích cực mà áp dụng các phương pháp dạy học thống
khác thì chất lượng học tập của học sinh nhìn chung có sự tiến bộ, nhưng tỉ lệ học
sinh xếp loại học lực Giỏi- Khá chưa nhiều chỉ chiếm 39%, còn lại số học sinh
xếp loại học lực Trung bình còn khá cao chiếm 55% và đặc biệt còn tồn tại 6%
học sinh xếp loại học lực yếu.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Phương pháp dạy học tích cực là PPDH giáo viên là người giữ vài trò hướng
dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới
theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn
điều khiển tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi
trọng việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống,
kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh, từ đó hệ
thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững.
Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải
quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học
theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải, tăng cường dẫn dắt, điều
khiển, tổ chức, xử lý tình huống song nếu không tập trung cao, học sinh sẽ không
hệ thống và logic. Yêu cầu của PPDH tích cực cần có các phương tiện dạy học, học
sinh chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến,
quan điểm. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các
tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động
của thầy và hoạt động của trò. Tuy nhiên PPDH truyền thống hay hiện đại cũng đều
có những đặc điểm, ưu thế và nhược điểm riêng. Không có phương thuốc nào có

thể chữa được bách bệnh, không có PPDH nào là chìa khoá vạn năng. Việc nghiên
cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và đối tượng người học để có sự phối
kết hợp đa dạng các PPDH là việc cần làm ngay của mỗi giáo viên để nâng cao chất
lượng GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy thiết kế bài dạy theo phương pháp đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng dạy học tính tích cực trong dạy học môn Giáo
dục công dân nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học ở cấp THPT nói chung, đã
tạo cho học sinh nhu cầu nhận thức, ham muốn tìm hiểu, tự lực tham gia các hoạt
động học tập, có điều kiện tranh luận, bảo vệ ý kiến của mình.

17


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Như vậy đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân theo hướng dạy
học tích cực đã tạo cho học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng
lực tự học, khả năng thực hành, lòng ham mê học tập, ý chí vươn lên, loại bỏ thói
quen học tập thụ động theo kiểu: Thầy giảng- trò nghe, thầy hỏi- học sinh trả lời,
thầy độc- trò chép và học thuộc.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tính cực , giáo viên phải huy động,
khai thác tối đa vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của học sinh, tạo cơ hội và động
viên khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học.
Giáo viên cũng cần khuyến khích học sinh nêu thắc mắc trong khi nghe giảng, đạt
câu hỏi cho thầy, cho bạn, trao đổi, tranh luận, tạo nên mối quan hệ hợp tác, giao
tiếp giữa thầy và trò, giữa trò và trò trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập.
Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến cá nhân được bộc lộ, khẳng
định hay bác bỏ, qua đó hiểu biết của học sinh được nâng lên một trình độ mới. Bài
học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi học sinh và cả lớp chứ
không phải dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của thầy.

Thiết kế bài dạy theo hướng đổi mới làm tăng tính hiệu quả học tập và hợp tác
giữa các cá nhân, nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự
nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động
hợp tác theo nhóm nhỏ, tính cách, năng lực mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn,
phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Sự hợp tác trong học tập sẽ
giúp học sinh quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội và hình
thành năng lực hợp tác rất cần thiết cho người công dân trong một thế giới phát
triển, với sự hợp tác rất cần thiết đa dạng đã gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc
sống của học sinh, từ đó giáo viên cần phải tăng cường sử dụng các tình huống, các
câu chuyện, các hiện tượng thực tế, các vấn đề bức xúc trong xã hội để phân tích,
đối chiếu, minh hoạ cho bài giảng. Đồng thời cần hướng dẫn, khuyến khích học
sinh liên hệ, tự liên hệ, điều tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện của lớp
học, nhà trường, địa phương và của đất nước.
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã khắc phục được tình trạng học sinh
chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động trước sự hướng dẫn của giáo viên, tạo cho
học sinh hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn để giải
quyết những vấn đề đặt ra dựa trên kiến thức cũ, kinh nghiệm sống, qua sự dẫn dắt
của giáo viên tạo cho học sinh “nhu cầu bức xúc” để tự giải đáp thắc mắc.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cức đã thực sự kích
thích hoạt động tư duy của học sinh, hình thành ý thức ham muốn học tập, say mê
nghiên cứu, có sự cố gắng trong việc nắm kiến thức, từ đó khắc sâu hơn nội dung
bài học.

18


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

Tuy nhiên, đối với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực,
trong học tập môn Giáo dục công dân còn gặp những khó khăn nhất định, có nhiều

lí do khác nhau. Nhìn chung đa số học sinh ở cấp học THPT và một số phụ huynh
HS chưa thật sự quan tâm nhiều đến môn học này, mặc dù bộ môn này đã được Bộ
giáo dục đưa vào trong các môn thi tốt nghiệp THPT Quốc gia và xét tuyển đại học,
nhưng vẫn còn ảnh hưởng quan niệm trước đây, các em vẫn có tư tưởng chỉ học đối
phó, định hướng của phụ huynh đối với môn học GDCD cũng còn những hạn chế .
Đối với học sinh ở trường THPT Quan Sơn đối với các môn học nói chung trong
toàn bộ chương trình thì ý thức học tập của học sinh cũng chưa cao. Do vậy việc
thực hiện dạy học, đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD ở nhà trường là việc
làm không hề dễ dàng.
2. Kiến nghị: Xuất phát từ lí do trên tôi mạnh dạn kiến nghị.
Đối với Sở GD& ĐT Thanh Hóa: Tiếp tục quan tâm nhiều hơn đối giáo viên
giảng dạy môn GDCD, đặc biệt các giáo viên công tác ở miền núi, kiến nghị với
các cơ quan, tổ chức cấp trên có chính sách, giải pháp giáo dục, tuyên truyền để
các bậc phụ và học hiểu được vai trò, ý nghĩa quan trọng của việc học môn GDCD.
Về phía nhà trường: Ban giám hiệu trường THPT Quan Sơn cần có giải pháp
phối kết hợp với các tổ chức Đoàn thanh niên, các cơ quan trong huyện như Huyện
đội, Công an huyện tổ chức các buổi học ngoại khóa để tuyên truyền, giáo dục đạo
đức, pháp luật, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống yêu nước cho học sinh từ đó
các em thấy được vai trò, ý nghĩa của môn học GDCD.
Trên đây là toàn bộ những nội dung bài viết về kinh nghiệm dạy học ở trường
THPT Quan Sơn và những đề xuất, kiến nghị với các cơ quan cấp trên của bản
thân tôi. Tuy nhiên trong quá trình viết bài, kiến nghị, đề xuất chắc chắn sẽ không
tránh được những hạn chế và thiếu sót. Kính mong được sự chỉ đạo, góp ý của lãnh
đạo cấp trên, đồng chí, đồng nghiệp và bạn đọc để bài viết của tôi được hoàn thiện
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Quan Sơn, ngày 26 tháng 05 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lữ Văn Thủy

19


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK môn Giáo dục công dân lớp 12 - Nhà Xuất bản giáo dục Việt Nam.
- Phần chọn trong viết đề tài gồm.
Bài 2: Thực hiện pháp luật ở mục 1. Khái niệm thực hiện pháp luật, 2. Vi phạm
pháp luuật và trách nhiệm pháp lí.
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản.
- Phần chọ viết đề tài gồm mục 1: Các quyền tự do cơ bản của công dân.
2. Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Giáo dục công dân trung học phổ thông. Nguyễn
Hữu Khải chủ biên.
- Phần chọn viết trong đề tài.
+ Phần 2: Thực hiệp pháp luật trang 87,88.
3.Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh môn Giáo dục công dân cấp THPT- Bộ Giáo dục
và đào tạo.
- Phần chọn áp dụng trong đề tài: Bài tập tình huống trang85,86,87.
4.Nguồn internet.
- Báo giáo dục thời đại ngày: 10/04/2014- tác giả: TS Võ Hoàng Ngọc.
- Trích tin giáo dục: 01/11/2014 từ nguồn: diendantoanhoc


20


SKKN – Lữ Văn Thủy – THPT Quan Sơn – Năm học 2016 – 2017

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lữ Văn Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Nhóm trưởng chuyên môn trường THPT Quan Sơn

TT

1.

2.

Tên đề tài SKKN
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy
phần Công dân với đạo đức trong chương trình
Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT Quan
Sơn.
Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong học tập môn Giáo dục công dân ở trường
THPT Quan Sơn.

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả

đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Sở GD&ĐT

C

2014

Sở GD&ĐT

C

2015

21



×