Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thi THPT quốc gia môn giáo dục công dân ở trường THPT hậu lộc 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.71 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI
THPT QUỐC GIA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG
THPT HẬU LỘC 4

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thùy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Giáo dục công dân

1


THANH HÓA NĂM 2017

MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tàì................................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu.........................................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................
1.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận......................................................................................
2.2. Thực trạng..........................................................................................
2.2.1. Về thuận lợi...................................................................................
2.2.2. Về khó khăn...................................................................................


2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề .......................................................
2.3.1. Giáo viên làm tốt công tác tư tưởng, nhận thức, tâm lý cho học
sinh..........................................................................................................
2.3.2. Giáo viên định hướng đúng cách thức dạy học..............................
2.3.3. Giáo viên đưa ra những yêu cầu cần thiết cho học sinh.................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm................................................
3. Kết luận
3.1. Kết luận.............................................................................................
3.2. Kiến nghị...........................................................................................

01
01
02
02
03
03
04
05
06
06
07
10
11
13
13

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Từ trước đến nay học sinh dường như không mấy mặn mà với môn Giáo dục
công dân (SGDCD). Có nhiều lí do khác nhau để lí giải, nhưng chủ yếu là do học
sinh quan niệm môn GDCD là môn phụ. Hơn nữa, môn học này không có mặt
trong các kì thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học, cao đẳng nên học sinh
thường học để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu sâu kiến thức sau mỗi
bài học. Một số trường thường đẩy nhanh việc dạy học nhằm kết thúc sớm môn học
để dành thời gian cho việc ôn thi các môn thi tốt nghiệp và đại học, cao đẳng.
Vừa qua, Bộ Giáo dục và đào tạo đã có Thông tư 04/2017/TT-BGĐT ban hành
quy chế thi Trung học phổ thông (THPT) Quốc gia và xét công nhận tốt nghiệp
THPT. Theo đó, trong kỳ thi THPT Quốc gia năm nay có nhiều điểm mới. Trong
đó, có một điểm mới mà tôi quan tâm nhất đó là lần đầu tiên trong lịch sử thi cử,
môn Giáo dục công dân được đưa vào bài thi tổ hợp môn Khoa học xã hội để xét
tốt nghiệp. Lựa chọn môn Giáo dục công dân vào tổ hợp bài thi khoa học xã hội
trong kì thi THPT Quốc gia lần này cũng thấy được một bước đi quan trọng của Bộ
Giáo dục và đào tạo trong việc cụ thể hóa các kế hoạch, hành động để thực hiện
Nghị quyết số 29 – NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
Với nhiều thầy, cô giáo giảng dạy môn GDCD đây thực sự là niềm vui bởi nó sẽ
góp phần to lớn trong việc thay đổi và nâng tầm vị thế môn học trong hệ thống giáo
dục quốc dân, đồng thời vị thế thầy cô giảng dạy bộ môn cũng được xã hội nhìn
nhận một cách tích cực hơn chứ không còn coi là môn phụ trong cách đánh giá,
nhìn nhận của nhiều người.
Vậy thì, một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để dạy và học tốt môn GDCD, giúp
các em học sinh khối 12 trường Trung học phổ thông Hậu Lộc 4 chuẩn bị đầy đủ
kiến thức và kĩ năng để tham gia thi và thi tốt môn GDCD? Nhất là trong điều kiện
lần đầu tiên môn học vinh dự được lựa chọn để tham gia thi tốt nghiệp; trong khi đó
chương trình kiến thức pháp luật khối 12 lại tương đối khó với nhận thức của các

em; thời lượng ít ỏi (1 tiết/1 tuần); giáo viên dạy nhiều lớp. Đây thực sự là một
thách thức lớn đối với đội ngũ giảng dạy bộ môn.
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn trên, tôi nhận thấy việc đưa ra những giải pháp
để góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học và ôn thi đạt kết quả cao trong kì thi
THPT Quốc gia là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết của người giáo
viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này. Đó là lí do vì sao tôi chọn đề tài này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng dạy học và ôn thi môn Giáo dục công dân ở trường
THPT Hậu Lộc 4. Đặc biệt là đánh giá được chính xác tâm thế, tinh thần dạy của
3


giáo viên và học của học sinh khối 12 để chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia. Từ
đó, tôi sẽ đưa ra những giải pháp thiết thực nhất để nâng cao chất lượng dạy học
môn GDCD, giúp cho các em học sinh đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về thực trạng dạy và học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Hậu
Lộc 4 nói chung và thực trạng dạy và học ở khối 12 trước kì thi THPT Quốc gia.
- Nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm giúp nâng cao chất lượng dạy học để
đáp ứng tốt kì thi THPT Quốc gia.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
Trên cơ sở những kiến thức về tâm lí, giáo dục học và những quan điểm, đường
lối của Đảng về đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo; các văn bản, thông tư của Bộ
giáo dục và đào tạo trong việc cụ thể hóa các kế hoạch hành động để thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Điều tra khảo sát thực tế tình trạng học và ôn thi THPT Quốc gia của học sinh
khối 12 trường THPT Hậu Lộc 4.
- Kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm để đánh giá khách quan, chính xác chất

lượng tiếp thu kiến thức của học sinh.
1.4.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
Thống kê số liệu kết quả kiểm tra, đánh giá của học sinh khối 12 của năm học
này so với năm học trước, học kì I so với học kì II, qua các kì thi khảo sát chất
lượng.

4


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
- Nghiên cứu Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa IX về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Công văn 4818 của Bộ giáo dục và đào tạo về Phương án tổ chức thi THPT Quốc
gia năm 2017, Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp tục tổ chức kỳ thi THPT Quốc gia lấy
kết quả để xét công nhận tốt nghiệp THPT và làm căn cứ để tuyển sinh Đại học,
Cao đẳng. Theo đó có 5 bài thi gồm: 3 bài thi độc lập là Toán, Ngữ Văn, Ngoại
Ngữ và 2 bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên (Lí, Hóa, Sinh) và Khoa học xã hội (Sử,
Địa, GDCD) đối với giáo dục THPT. Thí sinh Giáo dục THPT thi 4 bài để lấy kết
quả xét công nhận tốt nghiệp THPT, gồm 3 bài thi bắt buộc (Toán, Ngữ Văn, Ngoại
Ngữ) và 1 bài thi tự chọn (bài thi Khoa học tự nhiên hoặc bài thi Khoa học xã hội).
Các bài thi Toán, Ngoại Ngữ, Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội thi theo hình
thức trắc nghiệm khách quan. Bài thi Ngữ văn thi theo hình thức tự luận.
- Tiếp theo đó ngày 25 tháng 01 năm 2017 Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành
Thông tư 04 về Quy chế thi THPT Quốc gia và xét công nhận tốt nghiệp THPT.
Cũng theo đó có 5 bài thi gồm: 3 bài thi độc lập là Toán, Ngữ Văn, Ngoại Ngữ và 2
bài thi tổ hợp Khoa học tự nhiên (Lí, Hóa, Sinh) và Khoa học xã hội (Sử, Địa,
GDCD) đối với giáo dục THPT. Thí sinh Giáo dục THPT thi 4 bài để lấy kết quả
xét công nhận tốt nghiệp THPT, gồm 3 bài thi bắt buộc (Toán, Ngữ Văn, Ngoại
Ngữ) và 1 bài thi tự chọn (bài thi Khoa học tự nhiên hoặc bài thi Khoa học xã hội).

Để tăng cơ hội xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng, thí sinh được chọn dự thi cả 2 bài
tổ hợp, điểm bài thi tổ hợp nào cao hơn sẽ được chọn để tính điểm xét công nhận
tốt nghiệp. Các bài thi Toán, Ngoại Ngữ, Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội thi
theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Bài thi Ngữ văn thi theo hình thức tự luận.
Nội dung thi nằm trong chương trình lớp 12 THPT.
- Nghiên cứu đề thi minh họa THPT Quốc gia Bộ Giáo dục và đào tạo mới công bố.
Đề thi minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo thực sự là kim chỉ nam trong quá trình
giảng dạy và ôn thi cho học sinh khối 12 của giáo viên.
2.2. Thực trạng
Môn GDCD trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai trò to lớn trong
việc giáo dục đạo đức, giáo dục học sinh về ý thức và hành vi, góp phần trang bị
cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người công dân, góp phần
hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công
dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là việc làm vừa mang tính
cấp bách, vừa mang tính lâu dài và cũng không hề đơn giản trước những làn sóng
văn hóa của thời kì hội nhập và phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt là chúng ta
đang quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản toàn diện giáo
5


dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học,
chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con
người toàn diện thì hơn bao giờ hết, môn GDCD giữ một vị trí vô cùng quan trọng.
Hiểu được tầm quan trọng của bộ môn GDCD trong chương trình giáo dục
phổ thông, Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định lựa chọn môn GDCD vào tổ hợp bài
thi khoa học xã hội làm căn cứ xét tốt nghiệp cho học sinh. Qua thực tế giảng dạy
tôi nhìn nhận rõ được thực trạng dạy học và ôn thi môn GDCD ở trường THPT Hậu
Lộc 4 trước thềm kì thi THPT Quốc gia như sau:
2.2.1. Về thuận lợi
Thứ nhất, đa số giáo viên hào hứng với kì thi.

Trao đổi với nhiều giáo viên cùng giảng dạy bộ môn thì đa số đều tán thành,
đồng ý với việc Bộ Giáo dục và đạo tạo đưa môn GDCD vào kì thi tốt nghiệp
THPT Quốc gia. Các giáo viên đều cảm thấy hào hứng pha chút hồi hộp và thực sự
đã chuẩn bị tâm thế cho kì thi.
Thứ hai, Ban giám hiệu trường THPT Hậu Lộc 4 tạo điều kiện cho hoạt
động dạy học và có những chỉ đạo kịp thời.
Điều này thể hiện rõ ở việc, ngay sau khi Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành
công văn 4818 ngày 28 tháng 9 năm 2016 về Phương án tổ chức kì thi THPT Quốc
gia năm 2017, Ban giám hiệu đã tiến hành tổ chức khảo sát và thăm dò nhu cầu,
nguyện vọng của học sinh bằng cách phát phiếu cho các em tự nguyện lựa chọn và
đăng kí thi các môn Khoa học xã hội hay Khoa học tự nhiên. Từ đó, đề ra phương
án kịp thời tăng cường chất lượng dạy học và ôn thi cho học sinh một cách hợp lí
nhất.
Thứ ba, thi dưới hình thức trắc nghiệm và Bộ Giáo dục và đào tạo đã công
bố đề thi minh họa để giáo viên và học sinh tiếp cận tham khảo, rút kinh nghiệm.
Nhiều học sinh rất hào hứng, thích thú với hình thức thi trắc nghiệm, các em
cho rằng thi dưới hình thức này thì không phải thuộc làu làu từng câu từng chữ nữa
mà thuộc được những kiến thức trong chương trình môn GDCD lớp 12 đâu có dễ.
Ngay sau khi có đề minh họa mà Bộ Giáo dục và đào tạo phát hành, giáo viên và
học sinh thở phào nhẹ nhõm. Đó chính là kim chỉ nam, là hướng đi cho cả cô và
trò.
Thứ tư, nhiều học sinh có thái độ học tập môn GDCD khác hẳn những năm
học trước, các em trở nên yêu thích môn học và có quyết tâm lựa chọn và theo học
môn GDCD.
Mặc dù kiến thức chương trình 12 khá khó đối với nhận thức của học sinh,
nhưng nhìn chung những kiến thức đó lại gần gũi và sát với học sinh.
Với đề thi minh họa, nhiều học sinh cho rằng cũng không thật sự khó nếu
mình chịu khó nhớ và hiểu, việc đạt điểm trung bình là trong tầm tay.
Hơn nữa, một số trường Đại học đưa môn GDCD vào tổ hợp xét tuyển đại
học như Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,

Khoa Giáo dục chính trị trường Đại học sư phạm Huế…Điều đó đã tăng thêm sự tự
tin, sự yêu thích đối với môn học của giáo viên và học sinh.
6


Vì thế, nếu năm học 2015 – 2016 khối 12 trường THPT Hậu Lộc 4 có số
lượng đăng kí học và thi ban xã hội là 58 học sinh trên tổng số 421 học sinh, đến
năm học 2016 – 2017 số lượng học và thi ban Khoa học xã hội đã tăng lên với số
lượng lớn. Toàn trường có 30 lớp với tổng số 1271 học sinh, trong đó xác định học
và đã học ban Khoa học xã hội 12 lớp với số lượng học sinh lên tới 543 học sinh.
Riêng khối 12 có 9 lớp với tổng số lượng học sinh là 380 em, trong đó có 167 em
theo học và đăng kí thi ban Khoa học xã hội.
Thứ năm, Công nghệ thông tin hỗ trợ giáo viên và học sinh dễ dàng tiếp cận,
nắm bắt và trao đổi thông tin.
Bên cạnh những thuận lợi tôi mới trình bày, trong thực tế giảng dạy bộ môn
tại trường THPT Hậu Lộc 4 cũng còn tồn tại nhiều bất cập nhất định.
2.2.2. Về khó khăn
Thứ nhất, một thực tế phải nhìn nhận khách quan đó là về mặt nhận thức, tư
tưởng trong xã hội vẫn có một bộ phận không nhỏ thậm chí có cả những người có
trách nhiệm lãnh đạo và một bộ phận giáo viên chưa hiểu đúng vai trò, vị trí của
môn học. Đặc biệt là đến thời điểm này nhận thức tư tưởng của một bộ phận học
sinh còn hạn chế. Nhiều em còn tư tưởng ỷ lại, lười biếng, không hứng thú trong
học tập, thậm chí một số học sinh tỏ ra khá hững hờ, thiếu nghiêm túc. Tiết học
môn GDCD tương đối trầm. Một số em vẫn còn dừng lại ở việc đối phó với thầy cô
mà chưa nhận thức được rằng, việc học là nhằm để trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, phát triển phẩm chất năng lực để mai sau lập nghiệp. Điều này trở thành
“nếp”, tạo nên sức ì về mặt tâm lý mà muốn khắc phục không phải dễ dàng.
Thứ hai, một thực trạng khách quan mà tôi không thể không đề cập tới đó là
khu vực gần trường có nhiều cơ sở, tụ điểm như chợ, khu vui chơi, giải trí, nhiều
quán ăn nhậu…sôi động, nhiều tiếng ồn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tư

tưởng, tinh thần, ý thức học của học sinh.
Thứ ba, lần đầu tiên môn GDCD vinh dự là một trong những môn thi xét tốt
nghiệp nên tâm lí của giáo viên và học sinh có phần hoang mang, lo lắng. Một số
giáo viên chưa thực sự hăng hái, không mong đợi kỳ thi, thở dài khi biết rằng môn
GDCD có mặt trong kì thi THPT Quốc gia thậm chí còn đứng ngoài cuộc. Không ít
học sinh mặc dù rất thích môn GDCD vì kiến thức pháp luật gần gũi, dễ hiểu nhưng
không dám chọn môn này thi vì sợ lần đầu thi nên sẽ khó hơn vì chưa có tiền lệ.
Thứ tư, về phía người dạy, qua thực tế cho thấy dù đã có nhiều nỗ lực và cố
gắng trong đổi mới phương pháp dạy học nhưng vẫn còn bó khung trong khuôn
khổ của lớp học, giờ dạy nặng tính lí thuyết, thiếu tư liệu, thiếu nguồn minh chứng
thực tế sinh động…cho nên sức thuyết phục chưa cao. Hơn nữa thời lượng dành
cho môn GDCD quá ít, chỉ có 1 tiết/1 tuần mà lượng kiến thức lại quá nhiều nên
việc dạy học còn khái quát, không có thời gian giảng cặn kẽ cho học sinh.
Thứ năm, hiện nay tư liệu, tài liệu tham khảo ôn thi môn GDCD còn rất hạn
chế, thiếu dụng cụ trực quan làm cho các tiết học khô khan, nhàm chán. Hệ quả tất
yếu là chất lượng tiết học có nhiều hạn chế. Chính vì thế, đây là một trong những
rào cản trong việc nâng cao chất lượng dạy và học GDCD.
7


Trên đây tôi vừa trình bày những thuận lợi cũng như khó khăn ảnh hưởng
đến chất lượng dạy và học môn GDCD tại trường THPT Hậu Lộc 4. Đã đến lúc
phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả về phía người dạy lẫn
người học; cả các cấp lãnh đạo quản lý, toàn xã hội về nhận thức cũng như sự cần
thiết đầu tư thích đáng với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt của môn học. Từ đó có
những giải pháp nâng cao chất lượng dạy học và ôn thi môn GDCD đạt hiệu quả,
chất lượng cao, nhất là trong sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện
nay.
2.3. Giải pháp để giải quyết vấn đề
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD giúp học sinh đạt kết quả

cao trong kì thi THPT Quốc gia đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm, tôi đề cập và muốn nhấn mạnh một số giải
pháp sau:
2.3.1. Giáo viên làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, nhận thức, tâm lí của học
sinh.
Có thể khẳng định rằng, công tác giáo dục tư tưởng, nhận thức đối với học
sinh hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết, cần phải được coi trọng. Bởi thực tế
làm công tác giảng dạy, tôi nhận thấy rõ một điều từ trước xã hội cũng như nhà
trường, đặc biệt là học sinh thật sự không xem trọng môn GDCD, đánh giá sai về
vai trò, vị trí môn học nên có thái độ thờ ơ, phó mặc hoặc đối phó. Chính vì vậy,
sau khi có quyết định về phương án thi của Bộ Giáo dục đào tạo, nhóm bộ môn
giảng dạy GDCD chúng tôi đã xác định phải tuyên truyền, định hướng, uốn nắn tư
tưởng, nhận thức cho học sinh là nhiệm vụ đầu tiên. Cần nghiêm túc nhìn nhận lại
vai trò, vị trí của môn học này trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông.
Hơn nữa muốn nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD cần sớm khắc phục tình
trạng phó mặc nhiệm vụ này cho nhà trường, cho giáo viên trực tiếp giảng dạy, mà
cần phải có sự kết hợp từ phía gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường
giữ vai trò định hướng, gia đình và xã hội là môi trường vun đắp, nuôi dưỡng có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trị quan trọng của môn
học.
Việc lần đầu tiên môn GDCD được đưa vào kì thi THPT Quốc gia nên khó
khăn lớn nhất đối với học sinh đó chính là yếu tố tâm lí. Học sinh hoang mang vì
lần đầu tiên môn này được đưa vào thi để xét tốt nghiệp, hoang mang vì học luật
khó…Bởi vậy, việc trấn an tâm lí cho học sinh là vô cùng cần thiết, bằng cách giáo
viên khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh, khơi dậy nhu cầu nhận thức, nhu cầu
chiếm lĩnh đối tượng học tập, khơi nguồn tính tự giác, tính tích cực học tập của học
sinh, hơn nữa giáo viên phải làm cho học sinh nhận thức được việc học đối với bản
thân là một nhu cầu tự thân, học để ngay mai lập nghiệp, lập thân chứ không đơn
thuần là học để thi cử…để các em cảm thấy có niềm đam mê thực sự với môn học.
Sau khi Bộ Giáo dục và đạo tạo phác thảo đề thi minh họa, giáo viên động

viên học sinh không nên lo lắng quá. Để làm bài thi theo hình thức trắc nghiệm
khách quan, học sinh không nhất thiết phải học thuộc từng khái niệm, định nghĩa
8


nội dung như trong sách giáo khoa, mà điều quan trọng là phải biết phân tích, tổng
hợp, lí giải, nhận xét, đánh giá các hiện tượng pháp luật trong thực tiễn đời sống xã
hội. Với cấu trúc đề thi này, học sinh chỉ cần học đầy đủ, học kỹ kiến thức ở trên
lớp và làm bài tập luyện tập củng cố, vận dụng thì có thể làm được và làm tốt bài
thi.
2.3.2. Giáo viên định hướng đúng cách thức dạy học
Thứ nhất, giáo viên phải luôn đảm bảo được tính phổ thông, cơ bản, hiện
đại, tính hệ thống, dạy học theo chương trình chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo
dục và đào tạo. Tri thức phổ thông là tri thức thiết yếu với cuộc sống, cần phải phổ
cập với mọi người; tri thức cơ bản là hệ thống tri thức và kỹ năng quan trọng; tri
thức hiện đại là những kiến thức mang tính chuẩn mực. Việc đảm bảo truyền thụ
những tri thức phổ thông, cơ bản và hiện đại sẽ giúp giáo viên tránh được khuynh
hướng giảng dạy vượt quá khả năng tiếp nhận và xử lí thông tin của học sinh.
Ngoài ra, giáo viên cần phải đảm bảo tính hệ thống. Thực hiện tốt sẽ tránh được sự
tùy tiện cắt xén hay bổ sung vào nội dung bài giảng những tri thức không thuộc nội
dung cần thông tin, hoặc đảo lộn trình tự logic các vấn đề giảng dạy. Giáo viên luôn
phải bám sát chặt vào chương trình dạy học theo chuẩn kỹ năng, chuẩn kiến thức
mà Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành.
Thứ hai, giáo viên phải tăng cường đầu tư soạn giảng. Đầu tư hơn trong việc
sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh họa, cùng các dụng cụ trực quan tạo sự sinh động
cho mỗi giờ lên lớp. Nội dung chương trình lớp 12 rộng nên việc sưu tầm tài liệu
cần phải lựa chọn, cập nhật những nội dung pháp luật mới nhất như Hiến pháp
2013, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình…chọn lọc những
thông tin mới nhất có tính thời sự và liên quan đến nội dung bài học phù hợp với
đối tượng học sinh. Giáo viên tăng cường sử dụng các tình huống pháp luật, vi deo,

hay các phiên tòa xử án trên mạng, khuyến khích học sinh xem một số chương trình
pháp luật trên truyền hình như Chuyện không của riêng ai, Tòa tuyên án…từ đó
giúp học sinh khắc sâu hơn kiến thức bài học.
Thứ ba, giáo viên chủ động thay đổi phương pháp dạy học. Giáo viên phải
hiểu rõ về mục tiêu từng bài, từng chủ đề, về thời gian và khả năng nhận thức của
học sinh thì chúng ta mới lựa chọn được phương pháp dạy tối ưu nhất cho từng bài.
Bên cạnh đó, giáo viên cần thiết tạo tâm lí học thoải mái, không gây áp lực quá
căng thẳng cho học sinh, kết hợp học với hành. Giáo viên cũng nên quan tâm tới
học sinh, theo dõi biểu hiện tâm lí của các em từ đó có biện pháp linh hoạt giáo
dục, định hướng cho học sinh.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần tạo ra các hoàn cảnh nhằm kích thích
hứng thú, tăng tính chủ động sáng tạo cho học sinh.
Giáo viên cần có những cách thức cụ thể trong việc mềm hóa môn học vốn
được xem là khô khan, trừu tượng bằng ví dụ sinh động trong đời sống thực tế, chỉ
ra được cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, tính chất sáng tạo và triển
vọng trong học tập môn học của mình.

9


Ở chương trình lớp 12 thuộc phần “ Công dân với pháp luật” không thể tách
rời việc liên hệ thực tiễn cuộc sống. Do vậy, sử dụng câu chuyện pháp luật, tình
huống pháp luật có thật diễn ra hàng ngày trong xã hội là rất cần thiết. Việc sử dụng
câu chuyện pháp luật sẽ giúp các em có được cái nhìn thiết thực hơn về cuộc sống
của bản thân, tạo không khí giờ học sôi nổi, học sinh rèn luyện cho mình được tinh
thần hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau để giải quyết nội dung. Ngoài ra việc sử dụng câu
chuyện pháp luật sẽ nâng cao tính chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm hứng thú, say
mê với môn học. Đồng thời giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến thức
trọng tâm bài học một cách hiệu quả. Những câu chuyện, tình huống pháp luật diễn
ra trong cuộc sống tạo cho các em niềm tin vào sự công bằng của pháp luật. Qua đó

các em sẽ phát triển khả năng thích ứng được với cuộc sống bên ngoài, có lối sống
đẹp, đúng pháp luật. Việc sử dụng câu chuyện, tình huống pháp luật thì giáo viên
giảm bớt được thuyết trình, giảng giảng còn học sinh thay đổi cách học thụ động và
liên hệ được thực tế với những hành động của bản thân và xã hội là đúng hay sai, từ
đó giúp các em tránh được những vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn: Khi dạy bài 2 “Thực hiện pháp luật” trong phần 2. Vi phạm pháp
luật và trách nhiệm pháp lý. Tôi sử sụng tình huống: Cảnh sát giao thông phạt 2 bố
con bạn Minh vì cả 2 người đều lái xe máy đi ngược chiều. Bố bạn Minh không
chịu nộp tiền phạt vì lí do ông không nhận ra biển báo đường một chiều, bạn Minh
mới 16 tuổi, còn nhỏ chỉ biết đi theo ông nên không đáng bị phạt.
Với tình huống này, tôi cho học sinh thảo luận nhóm với nội dung câu hỏi:
1. Theo em, lí do mà bố bạn Minh đưa ra có xác đáng không? Cảnh sát phạt
hai bố con bạn Minh như vậy có đúng không? Bạn Minh có phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình không?
2. Theo em, trong tình huống trên , hai bố con bạn Minh có lỗi không? Vì sao?
3. Hai bố con bạn Minh chịu trách nhiệm trước ai? Họ chưa gây ra tai nạn
chưa phải bồi thường cho ai, vậy cảnh sát giao thông nhân danh ai và căn
cứ vào đâu để phạt họ? Việc xử phạt ấy có ý nghĩa gì?
Các nhóm thảo luận trình bày quan điểm sau đó giáo viên phân tích, bổ sung
hoàn thiện giúp các em có cách đánh giá đúng vấn đề:
1. Lí do bố bạn Minh đưa ra là không xác đáng vì cả hai bố con bạn Minh đều
đi xe máy ngược chiều là hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến trật tự an toàn giao
thông được pháp luật bảo vệ.
- Cảnh sát giao thông phạt cả 2 bố con bạn Minh là đúng.
- Bạn Minh phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì bạn đã đủ 16 tuổi.
2. Cả hai bố con bạn Minh đều có lỗi, cố ý đi xe máy ngược chiều là sai, có thể
gây ra tai nạn nguy hiểm cho bản thân và người khác nhưng họ vẫn vi phạm.
3. Hai bố con bạn Minh phải chịu trước pháp luật vì cả hai bố con bạn Minh
đều là người có năng lực trách nhiệm pháp lý (Bạn Minh đủ 16 tuổi) họ có đủ nhận
thức rằng đi xe máy ngược chiều nguy hiểm, là làm trái pháp luật, có thể gây tai

nạn, nguy hiểm cho người khác…Do vậy, họ phải tự chịu trách nhiệm vê hành vi
của mình.
10


Cảnh sát nhân danh Pháp luật và quyền lực Nhà nước, căn cứ vào các quy định
của pháp luật cụ thể là Luật giao thông đường bộ để xử phạt hành chính (phạt
tiền) hai bố con bạn Minh.
Từ phân tích tình huống trên các em tự rút ra bài học vi phạm pháp luật có
các dấu hiệu cơ bản một cách tự nhiên mà không cần thụ động vào sách giáo khoa:
Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật.
Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.
Thứ ba, người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
Khi đó các em dễ dàng trả lời câu hỏi: Vi phạm pháp luật là gì? Người vi
phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lí như thế nào?
Vận dụng sáng tạo phương pháp này giáo viên sẽ làm cho học sinh hiểu sâu
và nhớ lâu kiến thức pháp luật, có thêm niềm tin bước vào kỳ thi THPT Quốc gia
đạt kết quả cao và là hành trang về kiến thức pháp luật trước khi bước vào đời.
Thứ tư, trong quá trình dạy phải chú ý đến đối tượng học sinh, nhất là học
sinh có học lực trung bình, yếu. Thực tế chỉ ra rằng, trong các lớp học bao giờ cũng
có sự phân hóa các đối tượng học sinh. Do vậy, để giúp đỡ các học sinh yếu, kém
tiến bộ, giáo viên bộ môn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để phát hiện ra
những học sinh non về kiến thức, yếu về kĩ năng để giúp đỡ các em khắc phục,
từng bước vươn lên trong học tập để có kết quả như mong muốn.
Thứ năm, tăng cường dạy học và kiểm tra dưới hình thức trắc nghiệm.
Trắc nghiệm là hình thức kiểm tra, đánh giá gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu
ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết yêu cầu thí sinh phải trả lời vắn
tắt đối với từng câu hỏi theo các hình thức trắc nghiệm:
+ Trắc nghiệm đúng – sai
+ Trắc nghiệm điền khuyết

+ Trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi
+ Trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm cho từng phần kiến thức ở mỗi bài
được thể hiện ngay trong giáo án ở mỗi cấp độ nhận thức khác nhau cho học sinh
tiếp cận thường xuyên với câu hỏi trắc nghiệm khách quan đáp ứng kì thi THPT
Quốc gia. Giáo viên tăng cường cho học sinh cả trong phần kiểm tra bài cũ và củng
cố bài mới. Ra ma trận đề thi để phục vụ trong các đợt kiểm tra định kì, kiểm tra
thường xuyên, học kỳ. Sau khi có đề thi minh họa thì bám sát theo cấu trúc của đề
thi minh họa THPT Quốc gia để sử dụng cho học sinh, đảm bảo mỗi lớp, mỗi học
sinh một đề thi riêng.
Thứ sáu, phải nghiêm túc trong khâu kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là khâu cuối cùng của quá trình dạy học. Mục đích của
kiểm tra, đánh giá là để phân loại học sinh, kiểm định chất lượng dạy học cuối cùng
của thầy và trò. Nếu giáo viên làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá định kỳ và
thường xuyên tốt, phản ánh được một cách khách quan kết quả học tập, để từ đó
điều chỉnh phương pháp dạy học. Ngược lại, nếu công tác kiểm tra, đánh giá không
được coi trọng, không được làm bài bản, nghiêm túc, chắc chắn kết quả dạy học sẽ
11


ngày càng trì trệ. Cũng qua khâu kiểm tra, đánh giá, phân loại học sinh giáo viên
cũng có thể tiến hành dạy ôn thi, phụ đạo khi cần thiết.
2.3.3. Giáo viên đưa ra những yêu cầu cần thiết đối với học sinh
Thứ nhất, học sinh không nên quá lo lắng, căng thẳng. Tâm lí lo lắng, hoang
mang, căng thẳng của học sinh cũng là điều dễ hiểu. Các em lo vì lần đầu tiên môn
CDCD được chọn vào kì thi vô cùng quan trọng như thế, lo vì liệu mình có làm
được bài, lo vì không biết sự lựa chọn môn thi của mình có chính xác hay không…
Tuy nhiên các em hãy thư giản, thoải mái tâm lí. Để làm bài thi được 5 điểm không
quá khó nhưng để đạt 8, 9 điểm học sinh cần nổ lực hơn nữa.
Thứ hai, học sinh phải học hết chương trình lớp 12. Với 40 câu hỏi trắc

nghiệm khách quan, mỗi câu hỏi ở các cấp độ cơ bản, phương án trả lời đúng, trong
đề thi có các câu hỏi ở các cấp độ cơ bản phục vụ mục đích xét tốt nghiệp (nhận
biết: 40%, thông hiểu: 20%) và các câu hỏi phân hóa (vận dụng bậc thấp: 30%, vận
dụng bậc cao: 10%) phục vụ mục đích xét tuyển đại học, cao đẳng. Đề thi nằm
trong tất cả các bài học (trừ các bài và những nội dung giảm tải) ở lớp 12 nên học
sinh sẽ phải học đầy đủ tất cả các bài, các nội dung trong chương trình GDCD lớp
12. Nếu học sinh học tủ, học lệch, coi trọng bài này và coi nhẹ bài khác thì có thể
sẽ dẫn đến kết quả không tốt.
Thứ ba, ở trên lớp các em cần chú ý nghe giảng, ghi chép và gạch sách các ý
cơ bản, chú ý các ví dụ minh họa của giáo viên và lấy được các ví dụ minh họa
tương tự để vận dụng phần lí thuyết. Học sinh tích cực chuẩn bị bài, phát biểu xây
dựng bài; phân bố thời gian học tập, vui chơi, nghỉ ngơi khoa học, hợp lí.
Thứ tư, học là phải hiểu. Nếu các em chỉ học thuộc mà không hiểu thì khi
gặp đáp án nhiễu tương tự đáp án đúng các em sẽ dễ đánh nhầm đáp án hoặc rất
mất thời gian phân biệt.
Thứ năm, vận dụng linh hoạt trong xử lí tình huống. Có thể nói, học luật là
để học sinh hiểu luật và vận dụng luật vào trong cuộc sống. Do đó, các tình huống
trong thực tế được báo chí đưa tin thường được giáo viên lấy làm ví dụ minh họa
cho bài giảng của mình. Trong quá trình học, các em nên chú ý các ví dụ này để
biết được giáo viên đã vận dụng luật để giải quyết tình huống như thế nào.
Thứ sáu, giáo viên lưu ý cho học sinh một số lỗi có thể mắc phải khi làm bài.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy các em dễ phạm một số lỗi sau đây:
- Các em đọc không kĩ đề, không xác định được “từ chìa khóa” trong câu hỏi.
Chẳng hạn trong đề minh học có câu hỏi: Mục đích của tính quy phạm phổ biến là
gì?
A. Vì pháp luật được áp dụng nhiều lần, nhiều nơi, đối với tất cả mọi người, trong
mọi lĩnh vực.
B. Tạo nên tính công bằng, bình đẳng vì bất cứ ai trong điều kiên, hoàn cảnh nhất
định cũng phải xử xự theo khuôn mẫu được pháp luật quy định.
C. Vì pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực của nhà nước.

D. Tất cả các đáp án đều đúng.
12


Với câu hỏi này, nếu đọc sơ sài các em sẽ nhầm với Tính quy phạm phổ biến
của pháp luật có nghĩa là gì? Nếu là câu hỏi này thì đáp án là câu A. Nhưng ở đề thì
hỏi mục đích, do đó đáp án là câu B.
Rõ ràng, chỉ thay đổi một từ để hỏi là đã thay đổi toàn bộ đáp án, do đó các
em cần đọc kỹ đề, xác định đúng vấn đề được hỏi để không bị nhầm đáp án.
- Các em dừng quá lâu ở một câu. Với thời lượng 50 phút 40 câu, bình quân mỗi
câu chỉ làm trong 1 phút, 10 phút còn lại để tô đáp án, kiểm tra sai sót…Do đó
dừng lại quá lâu ở 1 câu sẽ không có thời gian làm câu khác. Các em cần phân bố
thời gian làm bài hợp lý nhất.
Vì vậy, khi làm bài các em lưu ý, đối với các câu hỏi khó, khi đọc lên không
có một chút hiểu biết nào thì phải bỏ qua. Câu nào cả 4 đáp án thấy giống giống
nhau cho rằng đều đúng cũng bỏ qua, đánh dấu bên lề sau đó quay lại. Các câu nắm
chắc kiến thức, chắc đáp án sẽ làm trước, rồi đến câu loại suy và các câu tình
huống.
Với những giải pháp trên, tôi tin rằng, chất lượng giáo dục đại trà của nhà
trường nói chung và chất lượng dạy học môn GDCD nói riêng sẽ được nâng lên
một cách rõ rệt, sẽ đáp ứng được yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục theo tinh thần
Nghị quyết số 29/NQ-TW trong những năm tiếp theo. Và với các giải pháp nêu
trên, tôi cũng tin tưởng rằng học sinh sẽ thu được kết quả cao trong kì thi sắp tới.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với những giải pháp mà tôi vận dụng đa số học sinh hiểu được bài, hào hứng
hơn mỗi lần có tiết GDCD, trong quá trình học có tinh thần hăng say phát biểu bài,
ghi chép đầy đủ và học bài cũ, làm bài tập nghiêm túc hơn. Các em cũng đã nắm
được những kĩ năng cơ bản khi làm bài kiểm tra, đánh giá dưới hình thức trắc
nghiệm. Đồng thời các em cũng đã biết vận dụng điều đã học vào thực tiễn cuộc
sống giúp phát triển kĩ năng sống cho bản thân.

Vì vậy, qua năm học 2016 – 2017, chất lượng và hiệu quả giảng dạy môn
GDCD đã được nâng lên rõ rệt, đặc biệt khối 12, khi các em đang chuẩn bị bước
vào kì thi THPT Quốc gia, biểu hiện qua những số liệu cụ thể sau:
Bảng 1: Kết quả học lực môn học của học sinh khối 12 của năm học 2016-2017
so với năm học 2015-2016:
Lớp Sĩ số
Năm học 2015 – 2016
Năm học 2016 – 2017
Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi Khá TB Yếu Kém
12A1 41
0
14
22
5
1
3
21
17
0
0
12A2 30
0
8
18
4
1
1
14
15
0

0
12A3 43
3
20
19
1
0
6
28
9
0
0
12A4 42
5
25
6
1
0
6
30
6
0
0
12A5 41
4
16
19
2
0
5

24
12
0
0
12A6 45
7
26
12
0
0
9
31
5
0
0
12A7 44
5
24
15
0
0
5
29
10
0
0

13



12A8
12A9
Tổng

45
8
28
9
0
0
10
35
0
0
0
49
10
29
10
0
0
13
35
1
0
0
380
42
189 134
13

2
58
247
75
0
0
Như vậy, kết quả học lực của khối 12 năm học này so với năm trước đã tăng
lên đáng kể. Cụ thể:
Năm học 2015 – 2016
Năm học 2016 – 2017
Giỏi chiếm: 11,05%
Giỏi: 15,26%
Khá:
49,7%
Khá: 65%
TB:
35,3%
TB: 19,74%
Yếu:
3,42%
Yếu: 0%
Kém:
0,53%
Kém: 0%

Bảng 2: Kết quả học lực môn học của học sinh khối 12 của học kỳ II so với học kỳ I
năm học 2016 – 2017:
Lớp Sĩ số
Học kỳ I
Học kỳ II

Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi Khá TB Yếu Kém
12A1 41
1
12
27
1
0
3
21
17
0
0
12A2 30
0
6
23
1
0
1
14
15
0
0
12A3 43
2
15
26
0
0
6

28
9
0
0
12A4 42
4
19
19
0
0
6
30
6
0
0
12A5 41
1
11
29
0
0
5
24
12
0
0
12A6 45
5
22
18

0
0
9
31
5
0
0
12A7 44
3
15
26
0
0
5
29
10
0
0
12A8 45
5
20
20
0
0
10
35
0
0
0
12A9 49

7
23
19
0
0
13
35
1
0
0
Tổng 380
28
143 207
2
0
58
247
75
0
0
Kết quả học lực của khối 12 học kì II so với học kì I năm học 2016 – 2017
cũng đã tăng lên rõ rệt. Cụ thể:
HỌC KÌ I
HỌC KÌ II
Giỏi chiếm: 7,37%
Giỏi: 15,26%
Khá:
37,63%
Khá: 65%
TB:

54,47%
TB: 19,74%
Yếu:
0.53%
Yếu: 0%
Kém:
0%
Kém: 0%
Bảng 3: Kết quả điểm thi môn học của các học sinh lựa chọn môn GDCD để thi xét
tốt nghiệp qua những lần kiểm tra chất lượng tại trường năm học 2016 – 2017:
Lần 1
Lần 2
Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi Khá TB Yếu Kém
Tổng 167 12
49
94
11
1
25
61
77
4
0
14


học sinh
%

7,19 29,34


56,2
8

6,59

0.6

14,97

36,5
3

46,1

2,4

0

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm hướng
tới sự phát triển toàn diện con người Việt Nam mới đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD ở
trường THPT là điều hết sức quan trọng, nhất là trong giai đoạn Bộ Giáo dục và
đào tạo lựa chọn môn GDCD là một trong những môn thi để xét tốt nghiệp trong kỳ
thi THPT Quốc gia thì việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học và ôn thi môn GDCD lại cấp bách hơn bao giờ hết.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều, phạm vi nghiên cứu chỉ là ở trường
THPT, do giới hạn của đề tài nên có nhiều vấn đề chưa được phân tích kỹ, các giải

pháp đưa ra cũng chưa thật sự đầy đủ. Tuy nhiên đề tài cũng giúp cho đội ngũ giáo
viên trực tiếp giảng dạy bộ môn xác định đúng đắn thực trạng dạy học và ôn thi
THPT Quốc gia của khối 12 ở trường THPT Hậu Lộc 4 năm học 2016 – 2017; xu
hướng học ban Khoa học xã hội trong đó lấy môn GDCD làm môn xét tốt nghiệp.
Từ đó, có kế hoạch hoàn chỉnh, đúng mực, kịp thời trong quá trình giảng dạy của
mình; giúp chúng ta định hướng lại một số việc cần phải làm trong năm học đặc
biệt trong giai đoạn ôn thi gấp rút chuẩn bị cho kì thi THPT.
Đề tài nghiên cứu tại trường THPT Hậu Lộc 4 nên có thể áp dụng cho những
đơn vị cùng khối, đặc biệt là những đơn vị có điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ cán
bộ, đặc điểm học sinh giống đơn vị.
Qua đề tài, theo tôi để dạy học và thi đạt kết quả cao môn GDCD, giáo viên
cần thực hiện tốt các yêu cầu và nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc 5 phải:
- Phải đảm bảo nội dung chương trình dạy học, không tự ý cắt xén;
- Phải đảm bảo không gây áp lực, căng thẳng, quá tải cho học sinh;
- Phải phát huy tinh thần, trách nhiệm của cá nhân, tổ, nhóm chuyên môn;
- Phải cung cấp cho học sinh kiến thức đảm bảo 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu và
vận dụng;
- Phải đổi mới phương pháp dạy học và lựa chọn phương pháp, nội dung phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
Nguyên tắc 5 bám:
- Bám sát Sách giáo khoa GDCD lớp 12;
- Bám sát Chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD 12;
- Bám sát chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và đào tạo;
- Bám sát tình huống, bài tập GDCD 12 và các tình huống pháp luật trong thực tế;
- Bám sát đề minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo.
3.2. Kiến nghị
15



- Vì lần đầu tiên môn GDCD được đưa vào thi dưới dạng tổ hợp cùng với 2 môn
Lịch Sử và Địa Lý nên kính mong Bộ giáo dục và đào tạo, Sở Giáo dục và đạo tạo,
các cấp, ban ngành lãnh đạo quan tâm, đưa ra những phương án tối ưu cho giáo
viên giảng dạy như tăng cường các lớp tập huấn, hội thảo về chuyên môn, kiểm tra,
đánh giá.
- Một số kiến nghị đối với Cấp ủy, Ban giám hiệu trường THPT Hậu Lộc 4:
+ Nhà trường nên tổ chức tư vấn cho học sinh chọn môn thi, phân lớp từ năm lớp
10 và lập kế hoạch ôn tập cụ thể.
+ Tổ chức những buổi ngoại khóa, trò chuyện, giao lưu giữa thầy cô với học sinh,
giữa học sinh với học sinh nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải trong quá
trình học tập môn GDCD
+ Tổ chức chương trình giáo dục ngoài giờ lên lớp, chương trình giáo dục pháp
luật...
+ Tăng tiết ôn tập cho học sinh để học sinh nhanh chóng tiếp cận với môn học
+ Trang bị tủ sách pháp luật tại thư viện.
Những vấn đề trình bày trong đề tài này chỉ mang tính chất chủ quan, là
những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy. Vì vậy, khó tránh khỏi
những sai sót, rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, ý
kiến trao đổi của các đồng nghiệp để bài viết được hoàn thiện tốt hơn, có hiệu quả
cao hơn khi áp dụng vào thực tế giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết


Nguyễn Thị Thùy

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 12, NXB Giáo dục Việt Nam 2011.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo, Sách giáo viên GDCD 12, NXB Giáo dục Việt Nam,
2011.
3. Đình Văn Đức (Tổng chủ biên) cùng nhiều tác giả, Dạy học theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn GDCD 12, NXB Đại học Sư phạm, 2010.
4. Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên THPT, Kỹ
năng xây dựng ma trận, biên soạn câu hỏi, bài tập đề kiểm tra môn GDCD, 2016.
4. Vương Tấn Đạt, Phương pháp dạy học môn GDCD ở trường Trung học phổ
thông, NXB Đại học Sư phạm, 2009.
5. Vũ Đình Bảy (chủ biên), Đặng Xuân Điều – Nguyễn Thành Minh, Phương pháp
dạy học môn giáo dục công dân , NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.
6. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và
Công văn 4818, Thông tư 04 của Bộ Giáo dục và đào tạo.
7. Đề minh họa của Bộ Giáo dục và đào tạo.
8. Một số nguồn tư liệu ở các trang báo, trang web.

17



×