Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THPT đông sơn 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.13 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan
trọng trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ
đạo dạy và học trong các nhà trường. Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ:
“Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà
trường THPT đặc biệt quan tâm và mọi giáo viên phổ thông đều có nhiệm vụ
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi và
thi học sinh giỏi nhằm: “Động viên khích lệ những học sinh và giáo viên trong
dạy và học, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất luợng giáo dục, đồng
thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn,
nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước” (Điều 1 – Quy chế thi chọn học sinh giỏi
ban hành theo quyết định 3479/1997/QĐ- BGD&ĐT ngày 01/11/1997). Như
vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề cần thiết và cấp bách, bởi vì hơn
lúc nào hết đất nước đang cần những con người tài năng đón đầu tiếp thu những
thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để phát minh ra những sáng kiến
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất nước hiện nay. Mặt khác,
kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá năng
lực chuyên môn của giáo viên và sự phát triển của các nhà trường, mỗi học sinh
giỏi không chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà còn là niệm tự
hào của cả cộng đồng. Tuy nhiên thực tế nhiều năm trước đây, việc bồi dưỡng
học sinh giỏi nói chung và bộ môn GDCD nói riêng ở trường THPT Đông Sơn I
chưa đạt được kết quả như mong muốn. Với những lý do như trên, tôi chọn đề
tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD
ở trường THPT”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu đề tài với mong muốn góp một tiếng nói giúp
học sinh, phụ huynh thấy được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi nói chung và học sinh giỏi môn GDCD nói riêng. Đồng thời chia sẻ kinh
nghiệm với các đồng nghiệp đồng môn nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy, bồi
dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THPT hiện nay.


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 11, 12 ở trường THPT
Đông Sơn 1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp…
1


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở nước ta việc dạy học nói chung và bồi dướng nhân tài nói riêng được
chú trọng ngay từ khi dựng nước vì như Thân Nhân Trung đã nói “Hiền tài là
nguyên khí quốc gia”. Đảng ta khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” điều đó được thể hiện trong các
nghị quyết trung ương. Nghị quyết Trung ương VIII “Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học. Bồi
dưỡng năng lực tự học và ý chí vươn lên”. NQ TƯ IV “ Đổi mới phương pháp
dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Môi trường đào tạo phải hướng vào đào
tạo con người năng động, sáng tạo. “Phát triển qui mô giáo dục cả đại trà và
mũi nhọn”. Trích kết luận của hội nghị lần IV BCH TƯ khóa 9. Ở nước ta cũng
như hầu hết các nước trên thế giới, vấn đề dạy học và chất lượng dạy học ngày
càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội.
2.2. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môi Giáo dục
công dân trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trong trường THPT, GDCD là một trong những môn học trang bị cho học
sinh thế giới quan nhân sinh quan khoa học, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống nhân cách cho học sinh, hình thành ở thế hệ trẻ hệ thống giá trị
chuẩn mực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay công tác thành lập và bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi môn GDCD có nhiều khó khăn. Bởi vì lâu nay trong quan niệm của không

ít phụ huynh và học sinh thì môn GDCD vẫn bị coi là “môn phụ”, không thi Tốt
nghiệp, không thi Đại học nên hầu như học sinh không có sự đầu tư cho môn
học này.
Thực tế đã có em định tham gia đội tuyển nhưng bố mẹ không đồng ý, vì
mục đích cuối cùng của nhiều phụ huynh là cho con thi đậu vào các trường đại
học, cao đẳng nên chỉ cho con mình ôn thi 3 môn theo khối, mà không nhiệt tình
và thậm chí không muốn con mình dự thi đội tuyển học sinh giỏi - nhất là đội
tuyển môn GDCD vì họ cho rằng: Học và thi để làm gì, chỉ mất thời gian vô ích!
Một số học sinh đã tâm sự với tôi: “Cô ơi, bố mẹ em chỉ cho thi các môn theo
khối thôi kể cả thi không đạt giải, còn thi môn GDCD thì bố mẹ em không đồng
ý cô ạ”.
Thực tế trên đã không những làm giảm lòng nhiệt tình, tâm huyết và sự
đam mê của giáo viên dạy GDCD nói chung và giáo viên bồi dưỡng đội tuyển
nói riêng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, sự tự tin của một số rất ít học
2


sinh sẽ tham gia đội tuyển, các em ngại vì phải thi GDCD! Chính vì lẽ đó, các
năm trước đây có nhiều trường trong tỉnh, kể cả trường chuyên Lam Sơn đã
không thể thành lập được đội tuyển môn GDCD.
Cách đây nhiều năm, cũng giống như đa số các trường THPT trong toàn
tỉnh, mặc dù Ban giám hiệu trường THPT Đông Sơn I rất quan tâm đến công tác
bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, nhưng kết quả của môn GDCD hàng năm
không cao, có năm không có giải. Thông thường bước vào năm học lớp 12, cuối
học kỳ I mới chính thức thành lập đội tuyển môn GDCD. Vì thế giáo viên phụ
trách trực tiếp lên kế hoạch phụ đạo cho các em một số buổi để đi thi.. Từ thực
tế trên, Ban giám hiệu đã thay đổi cách chỉ đạo, không để cho việc bồi dưỡng tự
phát trong giáo viên, học sinh mà giao khoán hẳn cho giáo viên có kế họach
chọn đội tuyển ngay từ đầu năm học lớp 12. Với cách làm này chất luợng và số
lượng đã có thay đổi nhưng kết quả đạt được còn rất hạn chế, tỷ lệ học sinh đạt

giải ít, chưa đủ chỉ tiêu và đặc biệt không có giải cao.
Kết quả của thực trạng trên
Năm học

2004- 2005
2005- 2006
2006- 2007
2007- 2008
2008- 2009

Số HS dự
thi

Nhất

7
8
8
9
10

0
0
0
0
0

Số HS đạt giải
Nhì
Ba

Khuyến khích

0
0
0
0
0

0
0
0
1
1

1
2
2
2
2

Xếp loại
cấp tỉnh

57
50
52
47
52

Bản thân tôi bắt đầu được Ban giám hiệu phân công phụ trách đội tuyển từ

năm học 2004- 2005. Đứng trước thực tế đó, tôi luôn trăn trở để trả lời câu hỏi:
Cần phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng đội tuyển học sinh
giỏi?
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết.
2.3.1 Thành lập đội tuyển
2.3.1.1. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn GDCD
Châm ngôn có câu: “Có bột mới gột nên hồ”. Quả đúng như vậy, trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy đóng vai trò quan trọng nhưng học
sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông thường những em có tố chất
thông minh, học lực khá - giỏi bao giờ cũng đăng ký vào đội tuyển các môn học
theo khối như: Toán, lý, hoá, sinh, văn, sử, địa, ngoại ngữ… rồi cuối cùng mới
đến GDCD. Đó cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra xu thế hiện nay, học sinh học theo
ban xã hội ngày càng ít và thậm chí không có. Vậy làm thế nào để học sinh say

3


mê, thích học môn GDCD? Điểm xuất phát phải bắt đầu từ người thầy. Thầy
phải thực sự coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để chuyên tâm gắn
bó và sáng tạo không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí luận khoa học,
thầy phải nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học sinh thấy
được sự thú vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính giáo dục
cao. Niềm say mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu
chuyện đời thường và giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc
sống.
Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn GDCD phải là người
truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu thích môn
học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn
và có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất tác
động đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định việc các em sẽ

học và thi như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo viên vừa đóng vai
trò là người thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các em, để phân tích và
chỉ ra cho các em thấy được những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh giỏi.
Đó chính là phương pháp học như thế nào để nhớ nhanh, nhớ kỹ và nhớ chính
xác nhất. Điều này đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với kiến thức các môn xã
hội. Ngoài ra, còn giúp các em kỹ năng xác định đề, phân tích đề, khả năng lập
luận tư duy, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong các môn khoa học tự
nhiên. Và điều quan trọng hơn đó là các em được trải nghiệm phương pháp học
tập cũng như tâm lý khi bước vào kỳ thi, từ đó có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp
kịp thời… Có thể nói, đó chính là những bước đi ngắn giúp các em tiến đến kỳ
thi tốt nghiệp THPT và thi đại học vững chắc hơn.
Ngoài phương pháp truyền thống là cho học sinh tự đăng ký, qua từng tiết
học, từng bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học sinh có khả
năng trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải quyết tình
huống và thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn giới thiệu để lựa
chọn, động viên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp trường tạo nguồn
đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Vì thế, có những em học lực còn rất hạn chế,
song các em cũng hăng hái đăng ký dự thi với mong muốn được học hỏi nhiều
hơn. Kết quả là số luợng học sinh đăng ký ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm
trước. Năm học 2008-2009 là 15 em, năm học 2012-2013 là 20 em, năm học
2015-2016 là 27 em… Từ nguồn học sinh như trên, sau khi thi học sinh giỏi cấp
trường tôi tiến hành lựa chọn danh sách đội tuyển, theo thang điểm từ cao xuống
thấp và lấy từ 10 đến 12 em.
4


Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sát ít nhất hai
lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung thêm
hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển. Với cách làm này, trong
nhiều năm liên tục đội tuyển do tôi phụ trách đều có số lượng tối đa là 10 em dự

thi cấp tỉnh( Từ năm 2014 là 05 em).
Như vậy, để chọn đội tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các bước
sau đây:
Bước 1: Giúp học sinh hiểu, nhận thức đúng về vai trò của bộ môn và lợi
thế khi tham gia đội tuyển.
Bước 2: Lập danh sách dự tuyển, động viên khích lệ học sinh tham gia dự thi.
Bước 3: Thi tuyển theo kế hoạch chung của nhà trường để lập danh sách từ
cuối năm học lớp 11.
Với những phương pháp như trên tôi đã động viên được nhiều học sinh
tham gia dự thi và chọn được những em có lực học khá ở các khối A, B, D…
khác với trước đây phải bắt buộc các em mới đi thi. Có thể nói, đó là niềm động
viên rất lớn đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD trong điều kiện
hiện nay.
Tuy nhiên để làm được điều đó, trước hết đòi hỏi người giáo viên phải thực
sự nhiệt tình, tâm huyết trong giảng dạy và điều quan trọng hơn đó là tính bền
bỉ, kiên trì, không lùi bước trước khó khăn để thuyết phục và khích lệ được các
em tự nguyện tự giác tham gia. Giáo viên phải là người có uy tín với học sinh
được các em tin tưởng quý mến. Ngoài ra, kết quả thi đội tuyển đã đạt được của
những năm trước chính là minh chứng để củng cố niềm tin đó với đồng nghiệp,
học sinh và phụ huynh trong những năm học tiếp theo.
2.3.1.2. Giúp đỡ, động viên khích lệ các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp
thời.
Do số học sinh trong đội tuyển phân tán ở nhiều lớp khác nhau, lịch học
thêm của các em thường lệch nhau, cho nên để chọn được 1 buổi không trùng
với lịch học của tất cả các em là điều rất khó khăn. Trước đây, để đảm bảo cho
các em không phải nghỉ học các môn khác, tôi đã chọn phương án là dạy thêm
vào các buổi chập tối (khoảng từ 17h đến 18h30). Đối với các em đây là khoảng
thời gian không học thêm ca nào, nên sau khi học xong các môn khác các em ở
lại học tiếp. Dù bụng đói và rất mệt nhưng các em vẫn tham gia với tinh thần rất
vui vẻ và hào hứng. Chính điều đó đã làm tôi thực sự cảm động và là động lực

giúp tôi kiên trì quyết tâm hơn, vượt thoát khỏi tâm lý tự ti để khẳng định sự
bình đẳng giữa môn GDCD với các bộ môn khác và với mong muốn làm được
5


điều mà mình tâm huyết. Có nhiều hôm trong giờ nghỉ giải lao tôi đã mua bánh
mỳ, bánh quy, … để cô trò cùng ăn cho đỡ đói.
Thấu hiểu những khó khăn đó bước sang năm học 2014-2015, Ban Giám
hiệu nhà trường đã lên thời khoá biểu cho các đội tuyển được học vào các buổi
chiều thứ 3 hàng tuần. Trong các buổi dạy, lãnh đạo nhà trường thường xuyên
quan tâm, xuống lớp trao đổi động viên cả thầy và trò. Điều đó đã tạo thêm động
lực, niềm tin cho chúng tôi nỗ
lực cố gắng nhiều hơn.
Trong quá trình bồi
dưỡng, giáo viên phải thực sự
là người có “Tâm” với học sinh
đội tuyển của mình. Sự quan
tâm đó không chỉ dừng lại ở
thái độ, lời nói, kiến thức, kinh
nghiệm truyền đạt cho các em
mà còn bằng tất cả tấm lòng,
không đơn thuần là tình thầy
trò mà như một người thân
thực sự của các em. Vì thế, các
em sẵn sàng chia sẻ với tôi về
Một buổi ôn luyện của đội tuyển
mọi vấn đề trong cuộc sống.
Tôi thường đến thăm gia đình học sinh trong đội tuyển vào các dịp nghỉ lễ, sinh
nhật… đặc biệt là khi các em bị ốm phải nghỉ học, qua đó để hiểu hơn về hoàn
cảnh gia đình, điều kiện học tập cũng như sự quan tâm của các bậc phụ huynh.

Nhờ vậy, nhiều phụ huynh đã có cái nhìn đúng hơn về vai trò của bộ môn, hiểu
được lợi thế khi các em được tham gia đội tuyển học sinh giỏi môn GDCD.
2.3.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển
một cách khoa học, đúng hướng và có hiệu quả
Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, trước hết giáo viên phải
lập được kế hoạch tổng thể, có được “chương trình khung” và kế hoạch cho từng
giai đoạn. Chẳng hạn, trong năm học kế hoạch là 30 buổi dạy thì giáo viên phải
cụ thể hoá về thời gian, nội dung ôn luyện, từ đó giúp học sinh hiểu, định hình
được những việc cần làm để các em chủ động hơn trong quá trình ôn tập kiến
thức cũ và lĩnh hội tri thức mới. Đồng thời qua đó các em sẽ thấy được tầm quan
trọng của việc nắm vững kiến thức trọng tâm trong mỗi bài, mỗi phần và mỗi
chương trình cũng như toàn cấp. Hệ thống hoá kiến thức và mở rộng kiến thức
6


trong các buổi dạy là điều rất quan trọng. Tuy nhiên không có nghĩa là dạy lại
kiến thức một cách đơn thuần mà giáo viên phải hệ thống kiến thức theo từng
chủ đề cụ thể. Mục tiêu chính của việc bồi dưỡng học sinh giỏi là giúp các em
trở thành người kiến tạo tri thức thay vì là những người sử dụng tri thức. Ôn tập
đến đâu, kiểm tra đến đó. Khi ôn tập lý thuyết bao giờ cũng gắn với bài tập vận
dụng bằng hình thức bài tập trắc nghiệm giải thích hoặc bài tập tình huống để
học sinh làm quen với kỹ năng vận dụng lí luận vào thực tiễn đồng thời có thể lý
giải các hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội…
Ngoài ra để giúp các em dễ nhớ, dễ hiểu giáo viên cần có những ví dụ liên
hệ thực tế bằng các đồ dùng dạy học như tranh ảnh minh hoạ, lược đồ, biểu đồ,
đặc biệt có thể sử dụng chương trình Powpoint để hỗ trợ…. Bên cạnh đó giáo
viên thường xuyên cập nhật các số liệu, thông tin mới để minh hoạ cho bài dạy.
Tài liệu tham khảo cũng là yếu tố không thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng: Tài
liệu chuẩn kiến thức kỹ năng, Bài tập pháp luật, Tình huống pháp luật, các văn
bản luật có liên quan như Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự, luật Hôn nhân gia

đình, luật bình đẳng giới, luật khiếu nại tố cáo… đều có thể cung cấp cho học
sinh những dẫn chứng chính xác khi vận dụng vào bài làm.
2.3.3. Rèn luyện kỹ năng tự học, tự đọc tài liệu, khai thác kiến thức cho
học sinh
Để rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu khai thác kiến thức ở từng bài
trong SGK, giáo viên cần chỉ rõ cách khai thác từng nội dung cụ thể bằng
phương pháp đi từ khái quát đến cụ thể và từ đó có sự liên hệ vận dụng trong
cuộc sống, sau đó giao nhiệm vụ để các em tự học và kiểm tra bằng các bài viết.
Ví dụ: Ở Bài 1 SGK GDCD lớp 12: Pháp luật với đời sống. Để giúp học
sinh nắm vững trọng tâm và khắc sâu kiến thức thông qua các ví dụ trong thực tế
không chỉ giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu mà còn kiểm tra khả năng giải
quyết vấn đề bằng cách thay đổi dạng câu hỏi như: Có ý kiến cho rằng: “Ở đâu
có pháp luật ở đó không có tự do”, quan điểm của em về ý kiến trên như thế
nào? Thay cho câu hỏi: “Trình bày vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội?”
Với dạng đề này thực tế là không khó nhưng nếu học sinh không đọc SGK
và đặc biệt là các điều luật đã trích dẫn ở phần Tư liệu tham khảo thì chắc chắn
sẽ khó có câu trả lời đúng.
2.3.4. Coi trọng khâu ra đề, làm đáp án, chấm chữ và rèn luyện kỹ
năng làm bài cho học sinh
2.3.4.1. Ra đề và đáp án

7


Để rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh, giáo viên cần hiểu đây là một
công việc không dễ, đòi hỏi nhiều thời gian công sức của cả thầy và trò mới đem
lại kết như mong muốn. Bởi đa số các em sau khi được chọn vào đôị tuyển thì
điểm yếu nhất đó chính là kỹ năng làm bài, một phần là do các em học theo khối
A,B có thế mạnh ở các môn tự nhiên hơn là các môn xã hội. Vì thế giáo viên chỉ
nói hoặc nhắc nhở thôi thì chưa hẳn các em đã hiểu và khắc phục được. Do đó

cần phải có thời gian kiểm định qua các bài kiểm tra viết mới thấy được sự tiến
bộ rõ rệt của từng em.
Để việc luyện tập có hiệu quả và học sinh không thấy chán, tôi đã chuẩn bị
nguồn đề, như sau :
- Các đề thi học sinh giỏi tỉnh các năm trước.
- Đề thi học sinh giỏi các tỉnh khác sưu tầm qua đồng nghiệp hoặc truy cập
trên mạng.
- Đề tôi soạn cho các em từ các nguồn tư liệu và bám sát SGK, theo cấu
trúc định lượng giữa phần tự luận và phần trắc nghiệm, bài tập tình huống,
lượng kiến thức, số câu hỏi ở chương trình lớp 10,11,12 một cách hợp lý.
- Sử dụng các câu hỏi khó trong tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng, sách giáo
khoa và sách bài tập, những câu hỏi giải thích lí … đòi hỏi học sinh phải hiểu
vấn đề mới làm được.
Muốn có nguồn tư liệu đó, trong nhiều năm qua tôi phải sưu tầm tài liệu,
bảo quản có hệ thống các đề thi, các kiến thức mới trong mỗi đề thi và các nội
dung khác minh thu thập được qua đồng nghiệp, qua các đợt tập huấn, đóng
thành tập lưu trữ để tạo nguồn tư liệu cho bản thân.
Trong quá trình thực hiện tôi luôn chú ý cách ra đề sao cho có hiệu quả
và gây được hứng thú cho học sinh. Mỗi đề thi đều phủ khắp kiến thức của
chương trình đã học và có cấu trúc như một đề thi chính thức. Các bài tập tình
huống và câu hỏi đảm bảo đủ 3 mức độ: nhớ; hiểu và vận dụng. Trong quá trình
thực hiện, cần hiểu tâm lý học sinh là nếu đề ra không hay thì học sinh sẽ không
thích làm và chán. Vì vậy, giáo viên phải có đầu tư thực sự cho việc ra đề. Thực
tế tôi đã cho các em làm không dưới 10 đề thi tại lớp.
Tóm lại, tuỳ theo từng mốc thời gian và lượng kiến thức đã ôn tập để đưa
ra các bài kiểm tra cụ thể. Chẳng hạn, ở giai đoạn đầu tôi thường ra câu hỏi kiểm
tra trong khoảng thời gian là 90 phút, sau đó tăng dần lên 120 phút, 150 phút, rồi
mới đến các bài kiểm tra 180 phút. Đặc biệt, tất cả các bài kiểm tra đó tôi đều
cho các em làm vào tờ giấy thi theo mẫu in của Sở. Điều này sẽ giúp các em làm
quen với các dạng đề trong thời gian khác nhau để từ đó định lượng thời gian

8


của mỗi câu ứng với số điểm nhất định. Ví dụ câu ít điểm thì các em không cần
viết quá dài mà phải tập trung vào các ý cơ bản của câu hỏi, không được trình
bày lan man.
Trước khi các em làm đề, tôi cho các em trao đổi thông tin về các dạng đề
thi của những năm trước, qua đó giúp các em hiểu cấu trúc đề thi, kỹ năng xác
định yêu cầu của đề và phương pháp nhận dạng đề thi một cách cơ bản cũng như
kỹ năng làm bài sao cho có hiệu quả nhất. Trước khi thi 2 tháng tôi cho các em
luyện đề nhiều hơn (1 tuần/2 đề). Đối với dạng đề trắc nghiệm, bài tập tình
huống, nếu là câu hỏi yêu cầu khẳng định đúng sai thì phải khẳng định trước rồi
mới giải thích vì sao? Đối với câu hỏi giải thích vì sao thì phải giải thích rõ
trọng tâm, không lan man (hỏi gì trả lời ngay vấn đề đó, không cần dẫn dắt dài
dòng) Đối với câu hỏi tự luận tôi yêu cầu các em chú ý cách trình bày sao cho
bài viết phải có bố cục rõ ràng, lôgíc. Từ đó các em hiểu rằng, tuy bài viết của
môn GDCD không phải là một bài văn nhưng kết cấu chỉnh thể của nó cũng
phải theo trình tự như vậy.
Ngoài ra, tôi còn ra đề cho các em tự học ở nhà. Theo tôi nếu các em
nghiên cứu tài liệu hoặc thảo luận để làm bài cũng là hình thức để các em ôn
vững kiến thức Vì vậy, tôi quán triệt tinh thần với các em rằng: trước khi làm bài
các em phải đọc hết đề, nếu thấy phần kiến thức nào mình chưa nắm vững, chưa
rõ, chưa thuộc, thì đem sách, tài liệu ra đọc cho thuộc. Sau đó, gấp sách lại và
làm theo cách hiểu của mình.
Tóm lại, để rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh cần thực hiện tốt 3
bước cơ bản sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh phải xác định được dạng đề bài và yêu cầu của
từng câu hỏi, kể cả các dạng câu hỏi ẩn thì học sinh phải biết phân tích đề để
tránh lạc đề.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh lập dàn ý sơ lược cho từng câu hỏi trong đề thi,

tránh thiếu ý khi làm bài.
- Bước 3: Yêu cầu học sinh lập dàn ý chi tiết cho đề thi và hướng dẫn cách
viết cho từng dạng câu hỏi, xây dựng bố cục toàn bài theo cách phổ biến nhất đó
là phương pháp diễn dịch hoặc theo kết cấu: tổng - phân - hợp để bài làm sâu sắc
và phong phú hơn.
2.3.4.2. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh
Cách 1: Ngay sau khi làm bài kiểm tra, tôi yêu cầu các em về nhà phải làm
được đề cương đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết tới 0.25 điểm cho từng ý,
9


từng câu, từ đó tự chấm xem bài của mình sẽ được mấy điểm. Điều này sẽ giúp
các em cách xác định đáp án cũng như tiến trình trong bài kiểm tra để tránh lạc
đề hoặc thiếu ý.
Cách 2: Trước khi trả bài kiểm tra, tôi phát đáp án chuẩn đã làm và phân
công các em đóng vai trò là giáo viên để chấm bài cho bạn, tôi yêu cầu các em
không trao đổi thảo luận để đảm bảo tính khách quan, mỗi bài sẽ đựợc 2 em
chấm độc lập, có nhận xét chi tiết ưu, nhược điểm của từng bài. Qua đó, giúp
các em tự rút kinh nghiệm cho mình, ngoài ra có thể so sánh bài làm, cách chấm
của mình với các bạn. Cuối cùng tôi công bố điểm để các em tự đối chiếu.
Sau mỗi bài kiểm tra, kể cả các bài kiểm tra tại lớp từ 15 phút trở lên tôi
đều rất chú trọng và quan tâm đến các em trong đội tuyển để chấm và sửa lỗi
cẩn thận chi tiết cho các em, nhận xét vào bài của các em từ lỗi chính tả cho đến
cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt…
Để thúc đẩy các em làm bài tích cực, có hiệu quả và nộp bài đúng hạn, giáo
viên phải giữ đúng hẹn giao đề, chấm bài, trả bài để các em biết kết quả và kịp
thời rút kinh nghiệm. Nhưng nếu chỉ chấm chữa thôi thì chưa đủ vì bài làm của
các em thường rất lủng củng, không biết cách diễn đạt, chuyển ý, viết dài dòng
và lan man. Vì vậy, sau khi chấm chữa kỹ lưỡng, tôi đều phát đáp án chi tiết và
yêu cầu các em sau khi xem bài rút kinh nghiệm những sai sót thì phải học thuộc

đáp án. Khi trả bài tôi dành thời gian nhất định để nhận xét cụ thể ưu, nhược
điểm của từng em. Có những em tôi đã phải chữa và gạch đỏ cả bài. Mục đích
là rèn luyện cho các em cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận trong bài
như thế nào. Và yêu cầu các em về nhà làm lại và khắc phục ngay nhược điểm
đó, hôm sau tôi thu lại kiểm tra để thấy được sự tiến bộ của các em.
Nếu chấm trả, phát đáp án mà không kiểm tra lại thì các em sẽ chủ quan
không học thuộc mà chỉ đọc qua. Cho nên, tôi đã kiểm tra lại bằng cách ra lại
câu hỏi cũ xem các em có làm đúng như đáp án đã phát không? Những bài đầu
tiên các em làm rất kém, điểm thấp, thậm chí còn sai kiến thức cơ bản và cao
nhất chỉ đạt 10/20 điểm. Đến những bài sau, kỹ năng làm bài của các em tiến bộ
rõ rệt… các em viết chắc kiến thức và biết cách trình bày, không còn lan man
thiếu ý như trước.
Trong các buổi ôn luyện hàng tuần, ngoài hình thức kiểm tra viết, tôi còn
tiến hành kiểm tra vấn đáp các em đối với mảng kiến thức cần phải thuộc nhớ,
qua đó đánh giá thực lực của các em, đồng thời có thể giải đáp những thắc mắc
mà các em đưa ra… Tôi đã làm như sau:
Bước 1: Nêu câu hỏi
10


Bước 2: Gọi HS lên bảng xác định yêu cầu câu hỏi và trả lời đáp án
Bước 3: Gọi HS khác nhận xét, bổ sung
Buớc 4 : Giáo viên kết luận và cho điểm
2.3.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng
Đây là khâu khá quan trọng trong quá trình bồi dưỡng vì có phân loại được
học sinh thì giáo viên mới có thể có phương pháp phù hợp với khả năng của
từng em và các em mới có khả năng đạt được kết quả như mong muốn. Sau đó
lập bảng theo dõi ghi chép cẩn thận vào sổ (Nhật ký dạy đội tuyển) của mình để
chỉ cho các em thấy được các em đã khắc phục nhược điểm ở những bài sau như
thế nào.

Qua việc lập bảng theo dõi như trên giáo viên sẽ rút ra được lỗi thường gặp
phổ biến của các em để sau một thời gian nhất định sẽ kiểm tra lại để nắm được
mức độ tiến bộ của từng em.
Năm học 2015-2016 đội tuyển có 05 em dự thi và các em đều có điểm
mạnh điểm yếu khác nhau như: Em Lê Thị Lan, Lê Thị Hồng, Lê Thị Vân… rất
chịu khó và chăm chỉ nhưng vốn từ và
hiÓu biết xã hội của các em có hạn chế,
viết chậm nên bài làm thường mắc các
lỗi diễn đạt và kỹ năng vận dụng, giải
quýêt vấn đề. Ngược lại, các em Lê Thị
Vân Anh, Nguyễn Thu Phương… lại có
vốn kiến thức thực tế phong phú, khả
năng nắm bắt vấn đề nhanh, biết cách
trình bày bài, song thiếu tính cẩn thận,
thường vội vàng chủ quan nên đôi khi
hay bị sót ý, mất điểm trong bài tập tình
huống trong bài. Hoặc có em kiến thức
chắc chắn, chịu khó đọc tài liệu nhưng
tâm lý khi đi thi lại không ổn định và mất
bình tĩnh. Cũng có em sức viết dài nhưng
Một buæi kiểm tra vấn đáp tại lớp
hay dàn trải, phân chia thời gian không
hợp lý dẫn đến bài làm không trọn vẹn, thiếu thời gian.
Năm học 2015-2016 vừa qua, trong đội tuyển có em Lê Thị Vân Anh lớp
12A7 học khối B, dù được chọn bổ sung vào sau so với các bạn (giữa học kì 1
năm học lớp 12), dù em có một nhược điểm lớn đó là chữ viết không cẩn thận,
11


nhưng tư duy nhanh và đặc biệt là khả năng nhớ và vận dụng rất tốt nên tôi đã

quyết định chän em vào danh sách dự thi. Tôi giao nhiệm vụ cho em từng bước
phải cải thiện chữ viết và cách trình bày bài của mình qua mỗi bài kiểm tra ở lớp
cũng như ở nhà, tôi còn kiểm tra vở ghi trên lớp thường xuyên để nhắc nhở em
sửa lỗi. Và sau hai tháng ôn tập, nhược điểm đó đã đựợc đẩy lùi, điều vui hơn đó
là trong kú thi cấp Tỉnh em đã đạt giải nhất với số điểm rất cao: 18.5 điểm.
Từ thực tế đó tôi nhận thấy, phát hiện chính xác khả năng và phân loại đúng
học sinh càng sớm càng tốt. Phân loại học sinh chủ yếu dựa vào khả năng quan
sát, tiếp cận trong quá trình bồi dưỡng và giảng dạy trên lớp của giáo viên.
Ngoài ra, qua hệ thống trả lời câu hỏi vấn đáp trực tiếp hoặc bài kiểm tra viết.
Đối với những em có khả năng nhớ chậm, khái quát vấn đề còn hạn chế, giáo
viên cần khoanh vùng kiến thức và nhắc trước cho các em có sự chuẩn bị để các
em có thể tự tin trong quá trình học. Đối với học sinh có khả năng tư duy tốt, tôi
sẽ đưa ra yêu cầu cao hơn. Để đánh giá, theo dõi mức độ tiến bộ của các em,
sau mỗi lần kiểm tra, tôi căn cứ vào điểm để chia các em theo nhóm, thông
thường là 3 đến 4 nhóm. Chẳng hạn nhóm 1 là những em có số điểm cao nhất, ít
nhược điểm. Nhóm 2, 3, 4 tương tự như vậy xét theo điểm từ cao xuống thấp.
Đồng thời lập bảng thống kê ghi rõ ưu, nhược điểm của từng em qua bài kiểm
tra. Qua việc lập bảng theo dõi như trên, giáo viên sẽ rút ra được một số lỗi phổ
biến thường gặp ở tất cả các em. Ngoài ra, qua đó các em sẽ biết được mình
đang ở vị trí nào để nỗ lực cố gắng nhiều hơn. Tất nhiên, chỗ đứng của các em
sẽ liên tục thay đổi qua các bài kiểm tra. Điều này sẽ tạo được không khí thi đua
lẫn nhau trong đội tuyển, đối với những em được xếp ở tốp đầu phải thường
xuyên cố gắng thì mới giữ được thứ hạng cao mà mình đã có, còn một số em
xếp cuối chắc chắn phải phấn đấu vươn lên.
2.3.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tạo nhiều cơ hội cho học sinh được bày
tỏ ý kiến và trao đổi thông tin với giáo viên để từ đó biết được các em đang cần
gì, thiếu gì? Chẳng hạn, sau mỗi buổi học thỉnh thoảng tôi thường trao đổi với
các em rất thân mật gần gũi với các câu hỏi thăm dò như: Theo các em phương
pháp dạy của cô như thế được chưa, các em có hiểu không?...

Từ đó tạo cho các em tâm lý tin cậy, gần gũi mạnh dạn hơn để bày tỏ
những vấn đề còn băn khoăn vướng mắc.Giáo viên có thể làm được điều này
bằng cách:
- Khích lệ học sinh suy nghĩ và đặt câu hỏi.

12


- Lắng nghe và trả lời ý kiến của các em, biểu dương những ý kiến có tính
chất đổi mới, sáng tạo.
- Tổ chức thảo luận theo nhóm để các em có thể phát biểu ý kiến của mình.
- Kể những tấm gương tốt ở các đội tuyển năm trước cho các em nghe để
học tập, noi theo.
- Thường xuyên động viên khích lệ các em hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng ngày.
- Giao nhiệm vụ có tính chất thử thách để các em có động cơ phấn đấu.
2.3.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ
cho học sinh
Căn cứ vào kết quả chia nhóm, xếp loại
học sinh trong suốt quá trình bồi dưỡng, tôi
giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em. Chẳng
hạn, những em có kết quả làm bài ổn định
chắc chắn, xếp ở tốp 1 tôi yêu cầu khi đi thi
các em phải đạt số điểm là 15 trở lên, tức là
phải đạt giải cao. Tương tự như vậy tôi
‘khoán” chỉ tiêu cụ thể cho từng em và đảm
bảo rằng tất cả các em đều phải có giải. Để
không tạo áp lực cho các em, tôi luôn làm
công tác tư tưởng, động viên khích lệ để các
em hiểu: Mọi sự nỗ lực, cố gắng của cả cô
Thảo luận ngoài giờ

và trò do chính các em quyết định, vì thế cần
phải có quyết tâm cao để chứng minh rằng: Thi GDCD không dễ và để đạt được
kết quả cao như các môn khác cũng là điều không đơn giản. Ngoài ra để động
viên các em, tôi còn treo giải thưởng cho em nào đạt hoặc vượt chỉ tiêu cô yêu
cầu. Tất nhiên, không phải em nào cũng được kết quả như mong muốn, nhưng ít
nhất các em đã biết được mục tiêu của mình là gì để bước vào kỳ thi với tâm lý
tự tin và quyết tâm cao nhất.
2.3.8. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và
ngòai nhà trường
Trong thực tế có người cho rằng, bồi dưỡng học sinh giỏi là trách nhiệm
của đồng chí giáo viên được nhà trường phân công. Điều đó chỉ đúng một phần
nhất định. Vì để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả cao phải có sự hỗ
trợ đắc lực của các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn, sự chỉ đạo sát sao

13


của Ban giám hiệu, sự quan tâm đồng tình, động viên khích lệ của phụ huynh
học sinh và các giáo viên trong trường tạo điều kiện giúp đỡ.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của trường THPT Đông Sơn I trong
những năm gần đây liên tục đạt kết quả cao, trước hết là có đường lối chỉ đạo
đúng đắn của BGH nhà trường, sự quan tâm, tạo điều kiện thực sự cho giáo viên
dạy đội tuyển. Trong những buổi dạy đội tuyển BGH luôn kiểm tra sát sao, động
viên thày và trò. Trong năm học 2015-2016 nhà trường đã tạo lập được quỹ hỗ
trợ cho giáo viên dạy đội tuyển. Khác với trước đây, đội tuyển do một cá nhân
phụ trách, nhưng hiện nay giao trách nhiệm cho tổ trưởng chuyên môn và các
giáo viên khác cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp dạy hỗ trợ lẫn nhau. Để có
sự đồng thuận và nhất trí giữa nhà trường và gia đình, sau khi học sinh làm
tham gia đội tuyển chính thức, nhà trường tổ chức họp phụ huynh các đội tuyển
để trao đổi, từ đó sự quan tâm của phụ huynh được tăng lên. Đến ngày chuẩn bị

đi thi, nhà trường tổ chức gặp mặt các đội tuyển vừa để căn dặn vừa động viên
giao nhiệm vụ cho các em. Trong các buổi trao phần thưởng học sinh giỏi hàng
năm, một thành phần không thể thiếu trong buổi lễ đó là các bậc phụ huynh
trong đội tuyển. Tất cả những việc làm đó đều thể hiện rằng: Để có chất lượng
học sinh giỏi thực sự vững bền trước hết cần có sự đồng tâm của tập thể sư
phạm nhà trường, sự nỗ lực của thầy và trò, sự đồng thuận của phụ huynh học
sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với những việc đã làm như trên đối chứng với cách làm trước đây, tôi đã
thu đựơc những kết quả rất khích lệ, đựơc lãnh đạo Sở, lãnh đạo nhà trường,
đồng nghiệp và các trường bạn ghi nhận. Góp một phần vào thành tích chung
của nhà trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm nay, xứng
đáng là một trong những trường có chất lượng dạy tốt học tốt trong tỉnh.
Có thể nói, sự kiên trì tận tâm và lòng nhiệt tình trong chuyên môn của bản
thân cùng với sự miệt mài chăm chỉ, nỗ lực của các em học sinh đã được đền
đáp. Liên tục trong nhiều năm, đặc biệt là năm học 2015-2016 đội tuyển môn
GDCD không những đã đạt chỉ tiêu nhà trường đề ra mà còn hoàn thành xuất
sắc với kết quả rất cao (đứng thứ 5 toàn tỉnh với 1 giải nhất, 3 giải 3 và 1 giải
khuyến khích)
Đó là những con số biết nói, là những minh chứng mà thầy và trò chúng tôi
đã đạt được. Chỉ tính trong 3 năm liên tục trở lại đây, số lượng học sinh tham gia
đăng ký dự thi tăng lên, số học sinh đạt giải cấp tỉnh hàng năm ngày càng nhiều
cả về số lượng và chất lượng.
14


Năm học

Số HS đạt giải /Số
HS dự thi


2010- 2011
2012-2013
2015-2016
Tổng

8/10
4/5
5/5
17/20

Số HS đạt giải
Nhất

1
1

Nhì

Ba

Khuyến
khích

1
2

3
1
3

7

4
2
1
7

3

Xếp thứ tự
trong toàn
tỉnh

20
15
5

Niềm vui của cô và trò trong buổi lễ trao giải thưởng tại trường THPT Đông Sơn 1

15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Theo tôi: “Dạy học là một nghệ thuật”! Điều này càng đúng hơn trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi vì bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình công
phu, nhiều thử thách đối với cả thầy và trò. Cho nên, ngoài trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm uy tín thì giáo viên dạy GDCD phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết
trong giảng dạy để khơi dậy được ở học sinh sự yêu thích môn học và thắp lên
niềm tin vững chắc cho các em đi đến thành công. Mặc dù trong quá trình thực

hiện tôi đã áp dụng 8 giải pháp trên nhưng chắc chắn vẫn còn một số giải pháp
khác chưa áp dụng, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp để công tác bồi dưỡng HSG bộ môn ngày càng đạt kết quả cao hơn.
3. 2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Bộ GD&ĐT
- Nên đưa môn GDCD vào chương trình thi tốt nghiệp THPT để đảm bảo
yêu cầu: “Học gì thi ấy”.
3.2.2. Đối với Sở GD&ĐT
- Cần có tài liệu hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi môn GDCD để tạo điều
kiện cho giáo viên ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi.
- Nên tổ chức các đợt hội thảo chuyên đề báo cáo kinh nghiệm về công tác
bồi dưỡng HSG để GV có điều kiện học hỏi lẫn nhau.
3.2.3. Đối với các trường THPT
- Quan tâm, có chế độ ưu đãi thực sự xứng đáng đối với giáo viên bồi
dưỡng đội tuyển học sinh giỏi.
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để đầu tư nhiều hơn về điều kiện vật
chất, kinh phí cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong các nhà trường.
- Không ngừng yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng
lực chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy để phát huy tốt năng
lực học của trò và năng lực sư phạm của thầy.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Đông Sơn, ngày 15/5/2016
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Thuận

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16



1. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Quy chế chọn Học sinh giỏi, Nxb Giáo dục, 1997.
2. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách giáo khoa GDCD lớp 10; 11;12, Nxb Giáo dục,
2008.
3. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Sách GDCD (sách giáo viên), Nxb Giáo dục, 2006.
4. Bộ Giáo dục – Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn GDCD lớp 10; 11;
12, Nxb Giáo dục, 2006.
5. Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007), Nxb Lao động Xã hội, 2007.
6. Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao
Động, 2009.
7. Hội luật gia Việt Nam, Tìm hiểu nội dung cơ bản Bộ luật dân sự năm 2005,
Nxb Lao động xã hội, 2005.
8. Nghị quyết Trung Ương 2 – khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004.
9. Trần Văn Thắng, Tình huống GDCD 12, Nxb Giáo dục, 2009.
10. Luật khiếu nại tố cáo (Sửa đổi bổ sung), Nxb Chính trị Quốc gia, 2006.
11. Trần Văn Thắng, Luyện tập và tự kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức,
kỹ năng lớp 10; 11; 12, Nxb Giáo dục, 2010.
12. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, NXb Chính trị Quốc
gia, 2006.
13.Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, NXb Chính trị Quốc
gia, 2010.
14. Vũ Hồng Tiến, Tình huống Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, 2008.
15. Vũ Hồng Tiến, Bài tập trắc nghiệm GDCD lớp 10;11;12, Nxb Giáodục, 2008.

MỤC LỤC
17



1. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài..................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu............................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu:.........................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................1
2. NỘI DUNG.......................................................................................................2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm............................................2
2.2. Thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môi Giáo dục
công dân trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm........................................2
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết..............................................3
2.3.1 Thành lập đội tuyển...............................................................................................3
2.3.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một cách khoa
học, đúng hướng và có hiệu quả.................................................................................................6
2.3.3. Rèn luyện kỹ năng tự học, tự đọc tài liệu, khai thác kiến thức cho học sinh.......7
2.3.4. Coi trọng khâu ra đề, làm đáp án, chấm chữ và rèn luyện kỹ năng làm bài cho
học sinh.......................................................................................................................................7
2.3.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng.....................................................11
2.3.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh..............12
2.3.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh......................................................13
2.3.8. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngòai nhà trường
...................................................................................................................................................13

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm................................................14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................16
3.1. Kết luận...............................................................................................16
3. 2. Kiến nghị............................................................................................16
3.2.1. Đối với Bộ GD&ĐT...........................................................................................16
3.2.2. Đối với Sở GD&ĐT...........................................................................................16
3.2.3. Đối với các trường THPT...................................................................................16


18



×