Mục Lục
1. Mở đầu
2. Nội dung Sáng Kính kinh Nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thuận lợi
2.2.2 Khó khăn
2.3 Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết ván đề
2.3.1 Một vài giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh.
2.3.1.1 Tuyển chọn vận động viên thi đấu Hội Thao Giáo dục quốc phòng – an ninh
cấp tỉnh
2.3.1.2 Tuyển chọn học sinh bắn súng
2.3.1.3 Dụng cụ sân bãi
2.3.1.4 Xin ý kiến ban giám hiệu, phối hợp đoàn thanh niên tổ chức học tập pháp luật
và mít tinh...
2.3.1.5 Học theo phương pháp thảo luận nhóm :
Học nhóm là hình thức học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh tạo điều
kiện để các em giao lưu với nhau và có được những kết quả tiến bộ về nhiều
mặt.
2.3.1.6 Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp dạy truyền thống chuyển sang dạy
bằng giáo án điện tử là một quá trình đổi mới về tư duy
2.3.1.7 Kinh nghiệm về chuẩn bị giảng dạy về giáo án điện tử.
2.3.1.8 Vai trò lựa chọn cán sự bộ môn
2.3.2 Những giải pháp nâng cao chất lượng an ninh quốc phòng an ninh
2.3.2.1 Giải pháp một
2.3.2.2 Giải pháp hai
2.3.2.3 Giải pháp ba
2.3.2.4 Giải pháp bốn
2.3.2.5 Giải pháp năm
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đạt được.
3. Kết luận
- Bài học kinh nghiệm
- Kiến nghị
1
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN HỌC
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH
TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
1. MỞ ĐẦU
Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, nhằm
thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới XHCN có sự
phát triển tồn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ
thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực
lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo
con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lịng yêu
nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự,
chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội
dung giáo dục tồn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới
XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Mặt khác, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh, công việc giảng dạy phải
gắn liền với nghiên cứu khoa học. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ
kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp
thích hợp để truyền đạt tri thức tới người học.
Sau nhiều năm giảng dạy mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh theo phương pháp
mới, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển tải nhiều kiến thức
đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành phải hợp lý khoa học mới
giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy. Mặt khác khơng để học sinh học phần lí
thuyết cũng như thực hành một cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh sự nhàm chán trong
tập luyện đó là yếu tố chủ quan, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng phát huy tốt việc đổi mới
phương pháp giảng dạy. Mặt khác, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng - an ninh, công
việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học. Đây là con đường ngắn nhất để
khơng ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những
hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học. Cần lưu ý rằng, để phục vụ
đắc lực cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, hướng nghiên cứu của các giáo viên giáo
dục quốc phòng - an ninh nên tập trung trực tiếp vào nội dung kiến thức môn học hay
những yếu tố tham gia vào quá trình dạy và học như: Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi
mới nội dung chương trình học tập...
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh
giá: Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hố hơn nữa
q trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải tham khảo tài
2
liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời,
cần cải tiến phương pháp học tập của học sinh, bởi hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao
hàm hoạt động của học sinh; cũng như vậy, hoạt động học của học sinh ln chứa đựng vai
trị giảng dạy của giáo viên. Để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh, năng lực
giảng dạy của giáo viên, từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của học sinh,
phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo
thành q trình tự đào tạo. Qua đó tơi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Những
giải pháp nâng cao chất lượng mơn học Giáo Dục Quốc Phịng – An Ninh cho học sinh
THPT”. Riêng bản thân tôi, do khả năng và năng lực còn nhiều hạn chế, đòi hỏi cần phải
nỗ lực nhiều. Một lần nữa, với lí do trên nên tôi chọn đề tài này, nhưng trong q trình
nghiên cứu, viết lách, tất sẽ khơng tránh khỏi những thiếu xót, bởi đây là 1 đề tài rất mới
mẻ đối với bản thân. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp… góp ý, tạo điều kiện để tơi hồn
thành đề tài sáng kiến & kinh nghiệm năm học 2014-2015 và nếu thành cơng, đó sẽ là cơ sở
để tơi có thể tiếp tục nghiên cứu ở những bài, chương rộng hơn sau này.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự
lãnh đạo của đảng đối với cơng tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ thị số 417/CT-TTg
ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác
GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị định 116/2007-NĐ-CP về GDQP-AN
cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ
GDQP-AN trong các trường THPT.
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành
kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Đào tạo cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh”.
Năm học 2014-2015 Trường THPT Hàm Rồng - TPTH tiếp tục chỉ đạo triển khai
thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói khơng với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích; nói khơng với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học
sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW
ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất lượng giáo dục ổn định và
phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học Trường THPT Hàm Rồng đã chỉ đạo làm tốt
3
cơng tác tun truyền đến tồn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh hiểu rỏ
mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương
pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến khích tự học phải
vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy
sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải đào tạo khả năng tự học cho học
sinh.
Nói đến giáo dục quốc phịng – an ninh. Trường THPT Hàm Rồng là một trong những đơn
vị trong Thành Phố - Thanh Hóa có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân
bãi đáp ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1550 học sinh. Tiết
học giáo dục quốc phịng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh những tri
thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phịng tồn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND Việt
Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng
nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích,
thiết thực với học sinh phổ thơng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn được làm quen
với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản
trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném
lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã
giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống
mọi âm mưu diễn biến hồ bình của kẻ thù.Tồn bộ chương trình học tập của từng khối
được xây dựng theo chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ
tiết, đúng phân phối chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học
sinh tham gia học đầy đủ tích cực sơi nổi và hào hứng.
Giáo dục quốc phịng – an ninh trong trường THPT là mơn học chính khóa, là bộ
mơn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên không thể đơn
giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và phải được quán triệt trong
tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể
đáp ứng được u cầu nhiệm vụ quốc phịng hiện tại và tương lai.
2.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
2.2.1 Thuận lợi :
- So với khu vực, trường Trung học phổ thơng Hàm Rồng TPTH là một trường có bề dày
về kết quả đào tạo học sinh và là trường đạt chuẩn quốc gia, nên vấn đề chuyên môn giảng
dạy luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát. Trường có một đội ngũ sư phạm hùng
hậu đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chun mơn vững, nhiệt tình, tận tụy với
cơng tác quản lý và giảng dạy.
- Hội đồng sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều thế hệ, và ln
có sự đồn kết gắn bó mật thiết với nhau.
- Đối với mơn Giáo dục quốc phịng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn
quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh đều
được đào tạo vững về chun mơn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học.
4
- Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho mơn học Giáo dục quốc
phịng – an ninh tương đối.
- Nề nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu nên
đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt.
2.2.2 Khó khăn :
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên được đào tạo từ
chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy được đào qua
lớp giáo viên giáo dục Quốc phịng và được tập huấn về chun mơn thường xuyên hàng
năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội về chun mơn
có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy.
- Đối với học sinh : Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do
yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ phía khơng ít
phụ huynh nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm vụ học tập đối với
bộ môn này. Và thật tai hại đối với một phận nhỏ học sinh còn ngộ nhận và coi đây là môn
học phụ dẫn đến ý thức học tập mơn Giáo dục quốc phịng – an ninh chưa cao.
- Tức thời tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo dục quốc
phòng – an ninh cũng làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị hạn chế nhất
định.
- Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở giáo dục – đào
tạo cấp và một số tự trang bị nhưng vẫn còn thiếu : Tranh ảnh giảng dạy còn hạn chế ở một
số nội dung. Đặc biệt là thiếu dụng cụ “kính ngắm”. Để đạt được kết quả tốt qua nội dung
ngắm bắn giáo viên đã gặp khó khăn thực sự, nếu chỉ trang bị cho các em học sinh về lý
thuyết bắn, tư thế bắn, các yếu lĩnh của động tác bắn luyện tập rồi đưa vào máy bắn tập, thì
hiệu quả thực sự chưa cao trong khi luyện tập, bắn vào các mục tiêu mà khơng có kính
ngắm để giáo viên theo dõi, hướng dẫn, sửa sai cụ thể. Mà kính ngắm thì lại khơng tìm mua
được ngồi thị trường.
2.3 CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2.3.1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
2.3.1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN cấp tỉnh:
Biện pháp thực hiện:
Về thời gian hội thao cấp Tỉnh thực hiện 2 năm/1lần, cấp trường tổ chức hằng năm theo
hướng dẫn năm học về GDQP-AN, sau khi đã có kết quả hội thao cấp trường (liền kề với
Hội thao cấp tỉnh) thì Tổ trưởng chuyên môn bắt đầu lập kế hoạch, phân công giáo viên
chịu trách nhiệm từng môn thi:
Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm chỉ huy phải có dáng
dấp qn đội, tiếng hơ to, rỏ, mạnh dạn và dứt khoát, tốt nhất là chọn học sinh có giọng
người miền Bắc. Sau đó phân cơng trực tiếp cho em làm Tiểu đội trưởng của một tiểu đội
5
trong lớp, giáo viên nào hướng dẫn lớp đó sẽ bồi dưỡng trực tiếp cho em đó. Song song thì
các giáo viên cịn lại cũng tự tìm kiếm một tiểu đội trưởng và huấn luyện cho em đó, rồi
cuối cùng chọn ra một tiểu đội trưởng tham gia Hội thao.
Các mơn cịn lại sẽ chọn theo thành tích đạt được trong hội thao, số lượng chọn thì gấp đơi
để sau khi tập luyện sẽ chọn VĐV chính thức được hồn hảo hơn. Sau đó sẽ biên chế về
các lớp, rồi giáo viên được phân cơng sẽ có kế hoạch tập luyện ở những giờ ngoại khóa
(theo quy định kế hoạch tập luyện hội thao cấp tỉnh).
2.3.1.2. Tuyển chọn học sinh bắn đạn thật:
Biện pháp thực hiện:
Thực hiện công văn số 4943/BGDĐT-GDQP ngày 18 tháng 8 năm 2010 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh năm
học 2010-2011.
Căn cứ hướng dẫn số 1547/SGDĐT_ GDTH ngày 13 tháng 9 năm 2010 V/v Hướng
dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục quốc phòng năm học 2010-2011
Căn cứ kế hoạch tổ chức học tập môn học GDQP của nhà trường; Qua quá trình học tập nội
dung bắn súng của học sinh;
Hằng năm Sở Giáo dục và Đào tạo kết hợp Bộ Chỉ huy Quân sự tổ chức bắn đạn thật cho
giáo viên khối THPT.
Theo kế hoạch của tổ bộ mơn thì trong quá trình giảng dạy bài kĩ thuật bắn súng tiểu liên
AK tại lớp các giáo viên phải chọn cho mình một số học sinh có kết quả học tập tốt sau đó
sàn lọc lại một lần nữa và việc đầu tiên là cho học sinh khám sức khỏe. Hiện nay tại các
nhà trường đều có bộ phận Y tế trường học cho nên việc khám sức khỏe cho các em cũng
rất dễ dàng và đỡ phần tốn kém. Việc khám sức khỏe tập trung chú ý vào huyết áp và tim
mạch của các em. Những học sinh nào có vấn đề về huyết áp và tim mạch thì dứt khốc bị
loại. Sau đó tiếp tục có kế hoạch tập luyện, nội dung tập luyện bao gồm: ngắm chụm, ngắm
trúng chụm, ngằm bia chỉ đỏ, bắn trên máy bắn tập MPT03.
Thông qua máy bắn tập MPT03 sẽ chọn ra được những học sinh có độ ngắm chụm rất tốt.
Sau q trình tập luyện theo đúng chế độ và trước khi đi bắn một ngày Tổ bộ môn sẽ phân
công giáo viên triển khai toàn bộ sơ đồ bắn, giáo dục về tâm lý khi bắn nhất là học sinh mới
lần đầu bắn đạn thật (yếu tố này rất quan trọng) rồi sau đó thực hành bắn giống như khi bắn
đạn thật nhưng trên máy bắn tập MPT03. Điều quan trọng nhất là khi nghe tiếng súng lần
đầu tiên phải giáo dục cho các em thật kĩ lưỡng, phải bình tỉnh, tự tin khơng cẩu thả, khơng
giật mình. Nắm vững ngun tắc khi sử dụng súng, đạn:
- Nắm chắc tính năng của súng
- Quan sát phát hiện mục tiêu nhanh, ước lượng cự ly đúng, xác định điểm ngắm
chính xác, giữ súng đúng, bóp cị êm, đều. Lựa chọn thời cơ kết thúc phát bắn phù
hợp.
- Tích cực học tập, ơn luyện, rèn luyện sức khỏe, tâm lý để phục vụ tốt cho bài
bắn. Chấp hành nghiêm qui tắc bảo đảm an tồn trong q trình luyện tập và thực
hành bắn đạn thật.
6
Hiệu quả:
Xếp loại
GIỎI
KHÁ
ĐẠT
KHÔNG ĐẠT
2012-2013
26%
20%
13%
41%
2013-2014
24%
22%
23%
31%
2014-2015
29%
13%
40%
18%
Năm học
2.3.1.3. Dụng cụ sân bãi:
Biện pháp thực hiện:
Về sân bãi thì hằng năm nhà trường có kế hoạch tu bổ, đảm bảo an toàn sân bãi để học sinh
có nơi tập luyện. Tuy đã được khắc phục nhưng những khó khăn về sân bãi trong trường
học THPT thì vấn đề thầy và trị phải khắc phục để thực hiện đúng mục đích tập luyện và
thực hiện đúng qui cách. Trang bị tập luyện với súng tập, sách giáo khoa, tranh ảnh mô
phạm.
Cụ thể:
Trang bị tập luyện với súng tập kích cỡ của khẩu súng tiểu liên AK. Được Bộ Giáo dục cấp
phát năm học 2006 cùng sách giáo khoa, tranh ảnh mơ phạm. Súng mơ hình được trang bị
trên 1/3 học sinh trong lớp cho mỗi tiết học.
2.3.1.4. Kết hợp Ban Giám Hiệu Nhà trường tổ chức học tập pháp luật, mít tin…:
Biện pháp thực hiện:
Để đổi mới hình thức, phương pháp GDQP-AN cho học sinh, nhân các ngày lễ lớn của đất
nước, địa phương, Tổ trưởng chuyên môn đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tổ chức Giáo
dục pháp luật, cho học sinh tham gia mít tin, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao;
thi tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; ngày thành lập Công An nhân
dân, ngày thành lập Tỉnh, thi về phòng chống ma túy, HIV… Qua đó đã nâng cao nhận
thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, truyền
thống của quê hương, đất nước, nâng cao nhận thức về quốc phòng, an ninh cho học sinh.
2.3.1.5. Học theo phương pháp thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức học hợp
tác nâng cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và có được
những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
Biện pháp thực hiện:
7
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điểm, và
thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc học nhóm, giáo viên
phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi gợi hứng thú học sinh
bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình độ của học sinh, hoặc đặt câu
hỏi/ đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, q
trình cộng tác cũng phải được sắp xếp để đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm tham
gia một cách tích cực.
Chia lớp thành 4 nhóm, 10-11 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau:
Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia các
nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm đồng đều theo
tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ nam nữ của lớp
50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các nhóm đồng đều
nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân
để phát triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan của các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm
việc nhóm của học sinh hầu như là khơng có. Tuy có được thầy cơ giáo phổ biến nhưng
khơng rõ ràng và đầy đủ vì cịn hạn chế nhiều về thời gian và trình độ. Đây là một "khâu”
quan trọng nếu muốn làm tốt sự thay đổi trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ
bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây
dựng nên thành cơng của thảo luận nhóm.
Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề
tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân cơng cơng việc. Hầu hết là
nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết bài?- Ai phản biện lại bài viết,
tài liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác- Ai thư ký?
Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia sôi
nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thơng thường, câu hỏi được đưa lên cho nhóm
trình bày và được chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay, chuyển cho
nhóm thảo luận trả lời. Người hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu
trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả
lời hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần
đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mơ hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh.
2.3.1.6. Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống chuyển sang
dạy bằng giáo án điện tử là cả một quá trình đổi mới tư duy:
Biện pháp thực hiện:
- Cần phải thống nhất về nhận thức và tư duy của đội ngũ giáo viên. Đây là vấn đề tưởng
chừng đơn giản nhưng khi thực hiện thì có một số ý kiến cho rằng, soạn giáo án điện tử chỉ
là chuyển giáo trình văn bản được sao từ file word sang các slide rồi đem chiếu lên cho học
sinh xem. Đây là một quan niệm nhầm lẫn mà chúng ta cần loại bỏ. Vì để soạn được một
giáo án điện tử đem lại hiệu quả cao cho người học thì người thầy phải bỏ ra rất nhiều công
8
sức và tâm huyết. Tôi muốn nhấn mạnh là vất vả hơn nhiều khi dạy bằng phương pháp
truyền thống.
Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo
án điện tử tôi mới bắt đầu thực hiện và giáo viên gần như tự mày mị, tìm hiểu từ thiết kế
giáo án cho đến cách trình bày… chưa có một chuẩn thống nhất, vì vậy cịn những khiếm
khuyết và dẫn đến có những ý kiến, thậm chí cả phản đối dạy bằng giáo án điện tử. Tôi
nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng vậy thôi, bước đầu sẽ có những khó khăn, nhưng
chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần dần và với các ý kiến đóng góp có tính xây dựng thì
sẽ có kết quả tốt.
2.3.1.7. Kinh nghiệm về chuẩn bị và giảng dạy bằng giáo án điện tử:
Biện pháp thực hiện:
- Về thiết kế bài giảng:
Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan, sinh
động và lơi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim ngắn hay
âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần được coi trọng
trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng không rối
mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ…) làm cho học sinh mất tập trung
vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vơ ích.
Các cơng đoạn thường theo một qui trình sau:
Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu gọn cho
phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa
lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống), chủ
yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắc hay các trích dẫn… tuyệt đối không bê
nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưng
vẫn phải có bài soạn…
Cơng việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu
nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt
khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không
quá lớn, chiếm quá nhiều “đất” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho
đảm bảo độ tương phản nhưng khơng q lịe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có
một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến giáo
viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố gắng mơ
hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mơ hình, đồ thị để chuyển các slide. Công
việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài
giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu
bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn.
Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được
chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và sử
dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài giảng và
giửa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo viên đang giảng ở
trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ của bài giảng bằng
9
cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có thể sử dụng các nút chức
năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng ban đầu… Tóm lại, giáo viên
có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà
khơng phải lần tìm mất thời gian.
Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với mỗi tiết,
mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư liệu nên vừa đủ minh
họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm lỗng thơng tin và ảnh hưởng đến
thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích cho mơn học được thu xếp
cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học sinh thu hoạch, liên hệ với bài
giảng.
- Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử:
Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết
bảng, thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lơi cuốn học sinh hơn.Tuy
nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, cịn chất lượng bài giảng tốt hay khơng phụ thuộc
vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ của người học.
Trong quá trình ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào giảng dạy mơn GDQP-AN sẽ có rất
nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên và người học những
kết quả thiết thực.
2.3.1.8. Vai trò của đội ngũ cán sự môn học:
Biện pháp thực hiện:
Chúng ta biết rằng khơng thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự
lớp. Muốn giúp những học sinh này trở nên những cán sự lớp biết cách điều hành tổ chức
địi hỏi người giáo viên phải có một số kỹ năng cần thiết:
- Lựa chọn: có thể qua sự tín nhiệm của tập thể lớp nhưng cũng cần có sự quan sát
từng em học sinh. Có em có năng lực học tập tốt nhưng lại khơng có khả năng điều hành
lớp. Cũng có thể chọn những học sinh có sức học khá, ngoan về hạnh kiểm biết diễn đạt
mạch lạc một vấn đề hơn những học sinh khác trong cùng lớp.
- Thiết kế công việc: người giáo viên phải biết những công việc cần thiết trong kế
hoạch năm học, trong tháng và trong tuần để thiết kế cho tập thể lớp tham gia mà trong đó
đội ngũ cán sự lớp theo dõi, điều hành dưới sự giám sát chặt chẽ của giáo viên
- Bồi dưỡng: thường xuyên trao đổi và hướng dẫn cho các em theo từng nhiệm vụ mà
chúng ta đã phân cơng, khơng nên giao khốn cho các em mà có sự trợ giúp; cũng khơng
tham gia quá sâu để các em độc lập hoạt động và giáo viên sẽ tư vấn cho các em, giúp các
em giải quyết các tình huống khó khăn.
- Kiểm tra, đánh giá: Giáo viên phải thật sự nhiệt tình và tâm huyết trong công tác,
thường xuyên theo dõi, động viên đội ngũ Cán sự lớp. Tuyên dương các em làm tốt, uốn
nắn những lệch lạc của các em nhưng không làm cho các em mất uy tín trong tập thể lớp.
Xây dựng đôi ngũ Cán sự lớp là việc làm khơng dễ nhưng chúng ta phải làm vì giáo
10
viên ở các trường Trung học phổ thơng khơng có thời gian để xử lí tất cả mọi việc ở lớp
hơn nữa sẽ khơng có thơng tin và cũng khơng giải quyết kịp thời được nếu đội ngũ Cán sự
lớp khơng được rèn luyện một cách chu đáo và có kế hoạch cụ thể.
- Việc sử dụng đội ngũ cán sự môn học là biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, ý thức kỷ luật, từ đó
hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí tuệ và thể chất một
cách tồn diện.
Tóm lại để dạy tốt theo phương pháp mới giáo viên Giáo Dục Quốc Phòng – An
Ninh chúng ta cần phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán sự môn học một
cách chu đáo, phát huy khả năng tự học cho học sinh, bằng cách phải đưa ra tiêu chí phấn
đấu có tính cạnh tranh, thi đua từng nhóm vào trong nội dung chương trình học tập. Như
vậy thì thời lượng của nội dung bài dạy chỉ chiếm khoảng 1/3 thời lượng toàn bộ nội dung
buổi học. Mặt khác giáo viên có đủ thời gian để hướng dẫn sửa chữa động tác sai cho các
học sinh yếu, kém. Tuy nhiên việc chọn lựa cán sự phải tìm hiểu kỷ tham khảo ý kiến tập
thể có tính nhiệm khơng, khả năng nắm bắt động tác, vai trò quản lý...
2.3.2. Một vài giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh:
2.3.2.1.Giải pháp 1:
Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực
tiếp giáo dục, quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến trong nhận
thức về công tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của học sinh.
Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng; các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác GDQP-AN trong giai đoạn mới hiện nay,
như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơng tác giáo dục quốc phịng, an ninh trong tình hình mới, Nghị định số
116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN, các văn bản quy định của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQP-AN… và những yêu cầu mà học sinh cần đạt
được khi học tập tại nhà trường.
2.3.2.2. Giải pháp 2:
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng
cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng môn
học GDQP-AN.
2.3.2.3. Giải pháp 3:
Thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp với từng đối
tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh thông qua bảo tàng cách
mạng của trung ương, địa phương; thường xuyên cập nhật thông tin để truyền đạt cho học
sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc.
11
2.3.2.4. Giải pháp 4:
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội
đồng GDQP-AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo sự thống
nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, sách giáo khoa,
tranh ảnh, mơ hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên làm tốt công tác thanh tra,
kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức hội thi, hội thao, thực hiện tốt công
tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân
có thành tích trong giảng dạy, học tập môn học GDQP-AN.
2.3.2.5. Giải pháp 5:
Quan tâm, đầu tư ngân sách để hàng năm trang thiết bị được bổ sung phù
hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường đồng thời giáo viên bộ môn cũng đủ điều kiện soạn
bài, giảng bài theo phương pháp đổi mới.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với
sự cố gắng nghiên cứu, trau dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc
kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy cho các học
sinh ba khối lớp 10, 11, 12 của trường Trung học phổ thông Hàm Rồng.
So sánh với thực tế và sau khi tiến hành áp dụng một số kinh nghiệm và các giải pháp của
sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau :
- Tiết học mơn giáo dục quốc phịng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
* Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của mơn giáo dục quốc phịng – an ninh của
từng năm học được nâng dần lên:
Xếp loại
GIỎI
KHÁ
ĐẠT
KHÔNG ĐẠT
2012-2013
36%
48%
14%
2%
2013-2014
44%
47%
8%
1%
2014-2015
43%
46%
11%
0%
Năm học
12
Thành tích qua hội thao giáo dục quốc phịng cấp tỉnh được nâng lên:
- Hội thao giáo dục quốc phòng tỉnh Thanh Hóa do Sở Giáo dục đào tạo cùng Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Thanh Hóa tổ chức, trường Trung học phổ thơng Hàm Rồng đã nâng thành
tích lên vị trí cao nhất. Đó là hạng nhất tồn đồn trên tổng số 109 trường Trung học phổ
thơng trong tồn tỉnh tham gia hội thao năm 2014.
3. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết: Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học sinh tự tìm tịi
sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả.
Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy rõ được ý
nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.
Qua q trình giảng dạy, tơi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm vốn có, kết quả
cho thấy chất lượng bộ mơn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh thấy u thích học mơn
GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp dẫn.
Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như đã trình bày ở trên, với
đề tài này chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của
lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về chuyên môn của
trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi ngày phát huy tốt hơn giờ dạy GDQP-AN ở
trường Trung Học Phổ Thông.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục trong dạy học là rất
cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới phương pháp giáo dục nếu tận
dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy
học là một định hướng đúng đắn .
Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tơi đang trình bày giúp giáo viên gây được hứng
thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học. Học sinh u
thích bộ mơn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết quả cao hơn.
Biện pháp tuy có thể nói khơng mới gì lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn của giáo
viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn trong quá trình học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên phải biết linh
hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh khắc sâu kiến thức
một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ thuật sư phạm và nắm
được những nội dung cơ bản. Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi cuốn học sinh đến với bộ
mơn GDQP-AN giáo viên cần phải có nhiệt huyết trong quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ
sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để
có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi cuốn trong phong cách nhằm lơi cuốn học
sinh. Ngồi ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp thu và
lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
13
* Kiến nghị:
- Đối với tổ:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để học sinh và giáo
viên có thể thơng qua đó thảo luận góp ý làm tiền đề cho phương pháp dạy tốt hơn bộ môn
GDQP-AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có những sáng kiến hoặc sáng
tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của
mình.
- Đối với trường:
Cần mua các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học để giáo viên và học
sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của bộ môn.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan: như mơ hình học cụ, tranh ảnh ..... các băng
đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên, học sinh ở trường trung
học phổ thông.
Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chun mơn nhằm tìm các giải pháp để
nâng cao hiệu quả chất lượng bộ mơn.
Có quy định cụ thể, bắt buộc về trang phục cho học sinh khi học ngồi sân bãi.
Có súng thật, để học sinh được tập tháo lắp đầy đủ các chi tiết để đỡ phiền khi mỗi lần đi
mượn ở Bộ chỉ huy quân sự.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP-AN.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Thanh Hóa, ngày 18 tháng 04 năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Lê Như Hưng
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 12 (Sách giáo khoa)
2. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 11 (Sách giáo khoa)
3. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 10 (Sách giáo khoa)
4. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 12 (Sách giáo viên)
5. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 11 (Sách giáo viên)
6. Sách Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh 10 (Sách giáo viên)
7. Cổng thông tin Giáo Dục Quốc Phịng.
8. Thơng tin trên mạng Internet.
9. Tài liệu Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh của cơ quan thường trực hội
đồng GDQP-AN trung ương.
10. Thơng tin tư liệu.
11. Tạp chí Dân Qn Tự Vệ Giáo Dục Quốc Phịng.
12. Tạp chí Quốc Phịng Tồn Dân.
13. Tạp chí Nhà Trường Qn Đội
15
SỜ GD&ĐT THANH HĨA
Đơn vị : THPT Hàm Rồng
CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày 02 tháng 04 năm 2016
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học : 2015 – 2016
Tên sáng kiến kinh nghiệm : “Những giải pháp nâng cao chất lượng mơn học Giáo Dục
Quốc Phịng – An Ninh cho học sinh THPT.”
Họ và tên tác giả : Lê Như Hưng Đơn vị : Tổ Thể dục – GDQP-AN
Lĩnh vực :
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn :
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác :
1.Tính mới
- Có giải pháp hồn tồn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hồn tồn mới và đã triển khai áp dụng trong tồn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong
tồn ngành có hiệu quả cao
- Hồn tồn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn
vị có hiệu quả
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách :
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ
đi vào cuộc sống :
Tốt
Khá
Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng :
16
Tốt
Khá
Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
17