Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sử dụng phương pháp “thảo luận nhóm” để dạy nội dung lí thuyết môn GDQP AN giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.76 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
TT
I
1
2
3
4
II
1
2
3
4
III
1
2

Nội dung
MỞ ĐẦU

Lý do chọ đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận
Thực trạng của vấn đề

Các biện pháp giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận


Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN

Trang
2
2
2
3
3
3
3
4
6
13
14
14
15
16
17

I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục quốc phòng - An ninh (GDQP-AN) là một bộ phận của nền giáo dục
quốc dân, việc giáo dục phồ cập và tăng cường QPAN là nhiệm vụ chung của Đảng,
Nhà nước và của toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống
nhất từ trung ương đến địa phương, các hình thức phù hợp với từng đối tượng. Đăc

biệt chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lịch sử truyền thống
1


của Đảng và dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ của mọi công dân [1] (Trích chỉ thị
12/CT/TW của Bộ chính trị - BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/5/2007).
GDQP-AN là một môn học bao gồm nhiều kiến thức về khoa học xã hội, nhân văn,
khoa học tự nhiên lẫn khoa học kĩ thuật quân sự. Là một môn học không chỉ trang bị
những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng, tư duy về QP-AN và kiến thức
quân sự cần thiết mà còn rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách sống con người CNXH..
Tuy nhiên, đây là một môn học nằm trong nhóm môn học có tỉ lệ lí thuyết chiếm
trên 60% chương trình môn học. Chính vì lí do đó, cùng với những nhận thức non
nớt của học sinh, các em thường dành nhiều thời gian cho các môn học mà các em
cho là quan trọng hơn, có thể thi THPT Quốc gia… (VD: Văn,Toán, lí, hóa, anh
văn….) mà xem nhẹ môn GDQP-AN, các em thường không học bài cũ trước khi
đến lớp hoặc ít khi đọc trước bài mới, dẫn đến kết quả học tập chưa cao và chưa
nhận thức hết tầm quan trọng của môn học. Trải qua gần mười năm giảng dạy môn
học này, bản thân tôi cũng như các đồng nghiệp đã có nhiều cố gắng luôn tìm cách
đổi mới về phương pháp giảng dạy để cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và kết
quả học tập cho học sinh như: ứng dụng Công nghệ thông tin đưa phim, ảnh tư liệu
vào giảng dạy, sử dụng giáo án điện tử, viết bài thu hoạch cá nhân, thảo luận
nhóm….Trong các phương pháp kể trên, qua một thời gian dài áp dụng tôi nhận
thấy rằng phương pháp “ Thảo luận nhóm” không chỉ mang lại hiệu quả cao trong
học tập, giúp các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp mà còn giúp các em
phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc
của cá nhân ….đồng thời giảm bớt thời gian để học bài cũ ở nhà. Từ đó giúp các em
có hứng thú với môn học, mang lại kết quả giáo dục cao hơn. Trên cơ sở đó, tôi đã
chọn đề tài: Sử dụng phương pháp “Thảo luận nhóm” để dạy nội dung lí thuyết
môn GDQP-AN giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập.

2. Mục đích nghiên cứu:
- Thảo luận nhóm tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ sự
hiểu biết của mình, giúp học sinh phát triển khả năng tư duy và diễn đạt (điều này
đặc biệt có ích với học sinh nhút nhát và còn nhiều hạn chế của trường).
- Tạo cơ hội cho mọi thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập lắng nghe ý kiến
của người khác một cách kiên nhẫn, lịch sự, tập đánh giá ý kiến người khác một
cách độc lập.
- Giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, tăng tính khách quan khoa học trong kiến
thức của học sinh.
- Hình thành thói quen tương tác trong học tập, tăng năng lực hợp tác và không khí
hiểu biết, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau.
- Kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm.
- Cải thiện mối quan hệ thầy - trò, trò - trò. Giáo viên có thông tin phản hồi từ học
sinh để điều chỉnh việc dạy của thầy, việc học của trò đồng thời tăng cường mối
giao cảm thầy trò, khiến cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn...
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng là học sinh trường THPT Đặng Thai Mai. Huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa. Tập trung chủ yếu vào việc thảo luận hệ thống câu hỏi lý thuyết cụ thể
nằm trong chương trình môn học làm rõ trọng tâm của bài đồng thời làm sinh động
giờ học, giúp học sinh hiểu rõ nội dung của bài, khơi dậy tình yêu quê hương đất
2


nước. tạo hứng thú cho học sinh, đồng thời nâng cao kết quả học tập lí thuyết môn
GDQPAN bằng phương pháp “thảo luận nhóm”
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp thu thập tài liệu
- Phương pháp thuyết trình gồm 3 bước:
+ Đặt vấn đề. Nêu vấn đề ở dạng khái quát, nhằm định hướng gây sự chú ý
cho người học.

+ Phát biểu vấn đề. Để cụ thể hóa, khoanh phạm vi nghiên cứu trong một thời
lượng nhất định.
+ Giải quyết vấn đề. Trình bày nội dung của vấn đề theo hai kiểu logic quy
nạp hoặc diễn giải.
- Khảo sát đánh giá nhận thức của học sinh về các nội dung của bài học.
- Phương pháp chọn “thủ lĩnh” để điều hành và quản lí hoạt động của nhóm.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thảo luận nhóm là gì? Theo tác giả Phan Trọng Ngọ:“Thảo luận nhóm là
phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất
cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và
đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó. Phương pháp này có mầm mống
từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở trường đại học sư phạm của một số nước tiên
tiến, bắt đầu từ môn học “Năng động tập thể” (Group dynanies)- một môn học dạy
cho sinh viên kỹ năng làm việc tập thể. Dần dần, môn học này chuyên rèn luyện kỹ
năng làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học ở tất cả các cấp học. Ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng rộng rãi
trong dạy học từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. [2]
“Thảo luận nhóm” là một hình thức học tập mang tính hợp tác nhằm nâng cao
chất lượng của học sinh – học sinh đóng vai trò chủ động, giảm bớt đi phương pháp
học tập trước đây, đó là: phấn trắng – bảng đen; thầy đọc - trò chép; thầy giảng – trò
nghe….giúp cho người học chiếm lĩnh tri thức chứ không phải lĩnh hội tri thức. Học
sinh có cơ hội giao lưu, trao đổi, thảo luận với nhau để đạt được kết quả cao trong
học tập về nhiều mặt. Theo cách học này, học sinh được tạo cơ hội tự dặt câu hỏi,
thảo luận, trình bày quan điềm của cá nhân và cùng hợp tác trao đổi kiến thức.Tuy
nhiên, để phát huy hiệu quả của việc học nhóm, giáo viên là người đóng vai trò rất
quan trọng trong việc cung cấp nền tảng kiến thức cho học sinh, phải khơi gợi được
hứng thú của học sinh bằng cách chọn những chủ đề tương ứng với trình độ của các
em, đưa ra những câu hỏi hoặc những vấn đề để học sinh tư duy một cách sâu sắc

hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác phải được sắp xếp để đảm bảo các thành viên
trong nhóm đều phải tham gia một cách tích cực.
Thanh Hóa là một trong những tỉnh luôn đi đầu trong công tác giáo dục quốc
phòng, an ninh áp dụng mô hình học rải theo thời khóa biểu thay thế cho học tập
trung trước đây, đồng thời cứ hai năm một lần sở GD&ĐT tổ chức thi hội thao giáo
dục quốc phòng - an ninh vào dịp tháng 12 nhân kỉ niệm ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam và ngày hội quốc phòng toàn dân, nhằm kiểm tra đánh giá chất
lượng dạy và học của các trường phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh.
3


Đối với môn học GDQP-AN là môn học vừa kết hợp hai nội dung lý thuyết và
nội dung thực hành, tuy nhiên nội dung lý thuyết được phân phối ở khối 10 là 21
tiết; khối 11 là 17 tiết; khối 12 là 24 chiếm 59.04% so với thực hành.
- Nhìn chung nội dung lý thuyết trong chương trình GDQP-AN đều là những bài lý
thuyết khó lại thêm tâm lí học sinh không thích môn học. Để học sinh hiểu bài, say
mê, hứng thú trong học tập đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu, tìm hiểu, đưa ra được
hình ảnh minh họa, nhân chứng, tư liệu trong một giờ học, một bài học để truyền tải
đến học sinh là một việc hết sức quan trọng trong việc giúp học sinh hiểu bài, đồng
thời tạo hứng thú, hình thành trong học sinh tình cảm, thái độ đúng đắn trong việc
học tập bộ môn quốc phòng an ninh, giúp học sinh dễ nhớ, hiểu bài và đặc biệt là
hứng thú với môn học là vô cùng cần thiết.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1 thuận lợi.
2.1.1 Đối với giáo viên:
- Trường THPT Đặng Thai Mai hiện có 02 giáo viên đã được đào tạo lớp ngắn hạn
06 tháng môn GDQP-AN và được phân công chuyên trách dạy bộ môn GDQP-AN
của nhà trường. Được sự quan tâm của lãnh đạo Sở Giáo dục, hàng năm, sở đều tổ
chức các khóa học bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Nhìn chung giáo viên bộ môn GDQP-AN đều đã có những nhận thức tích cực,

luôn muốn tìm tòi học hỏi để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì
vậy, trong thời gian vừa qua giáo viên nhà trường nói chung và giáo viên dạy bô
môn GDQPAN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng dạy để
nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng dụng Công
nghệ thông tin vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện tử, phương pháp
trình chiếu phim ảnh tư liệu sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử dụng hiệu quả
các thiết bị vào giảng day, kết hợp phương pháp truyền thống với ứng dụng CNTT,
hướng dẫn cho học sinh “thảo luận nhóm” một cách tích cực đã mang lại kết quả
khả quan.
2.1.2 Đối với học sinh:
- Đa số học sinh đều có thái độ tích cực, tham gia thảo luận nhóm đã mang lại hiệu
quả cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Những học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ
bản thông qua hoạt động thảo luận nhóm, các em đã mạnh dạn hơn khi tham gia trả
lời các câu hỏi của giáo viên, hòa đồng và đoàn kết hơn với các bạn trong lớp, phát
huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc của cá
nhân….
2.2. Khó khăn:
2.2.1 Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh khi bắt đầu tiết học mới, chưa có
phần dẫn dắt vào bài hoặc chưa gây được sự tập trung chú ý bài học của học sinh
ngay từ hoạt động đầu tiên.
- Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời câu hỏi
như thế nào.
- Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá giỏi dơ tay trả lời,
chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu kém ít được
4


chú ý và không được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các em càng thêm tự ti về

năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
2.2.2 Đối với học sinh:
- Học sinh còn lười và chưa có sự say mê đối với môn học, một số bộ phận học sinh
không học bài cũ và đọc bài mới trước khi đến lớp, trên lớp học thì thiếu tập trung
không chú ý, không có tinh thần phát biểu xây dựng bài.
- Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và đọc trong
sách giáo khoa chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu hỏi mang tính suy
luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung chung chưa sát với nội dung
yêu cầu của câu hỏi.
2.3. Khảo sát điều tra thực tế trước khi áp dụng đổi mới phương pháp:
Việc điều tra thông qua các câu hỏi khảo sát nhận thức và câu hỏi kiểm tra ý thức
ở cả 3 khối lớp 10,11,12 Kết quả điều tra như sau:
- BẢNG 1: Điều tra hứng thú học tập của các em đối với môn GDQPAN ở cả 3
khối lớp mỗi khối 01 lớp cụ thể như sau:

Lớp

Em cho biết cảm nghĩ của mình khi học môn GDQP-AN?
Rất thích
Thích
Hơi thích
Không thích


số
HS

số
lượng
2

3
1
6

10A3 38
11A2 37
12A4 34
Tổng 109

số
lượng
7
4
3
14

%
5
8
3
5

số
lượng
11
7
5
23

%

18
11
9
13

%

số lượng

29
19
15
21

18
23
25
66

%
48
62
74
61

- BẢNG 2: Điều tra mức độ học bài cũ môn GDQP-AN trước khi đến lớp của học
sinh ở cả 3 khối lớp mỗi khối 01 lớp cụ thể như sau:

Lớp


Em đã thực hiện việc học bài cũ và đọc bài ở nhà như thế nào?
Em học kĩ,
Em học
Thỉnh thoảng em Em ngại nên
học thuộc
thường xuyên
có học, có đọc
không học


số
HS

10A5 37
11A3 38
12A2 37
Tổng 112

số lượng

%

số lượng

%

số lượng

%


số lượng

%

2
1
0
3

5
3
0
2,8

6
5
3
14

16
13
8
13,2

7
6
5
18

19

16
14
16

22
26
29
77

59
68
78
69

- BẢNG 3: Thống kê chất lượng môn học trước khi áp dụng phương pháp "Thảo
luận nhóm" của 02 năm học trước đó(từ năm học 2013-2014; 2014-2015)
Xếp loại
Năm học
2013 - 2014
2014 - 2015

GIỎI

KHÁ

TB

Yếu

13%

14%

42%
47%

38%
33%

7%
6%
5


- Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy tỉ lệ học sinh yêu thích học môn GDQP-AN rất ít
cho nên việc chủ động tự học bài trước khi đến lớp của các em cũng không nhiều
dẫn đến kết quả học tập cuối năm cũng không cao.
3. Các biện pháp, giải quyết vấn đề:
3.1. Biện pháp thực hiện:
- Đối tượng người học (đặc điểm tâm sinh lí, kiến thức, kinh nghiệm học tập).
Từ kết quả khảo sát điều tra trên để đánh giá nhận thức và kết quả học tập của
các em, tôi đã tiến hành một số phương pháp nhằm nâng cao hứng thú và kết quả
học tập như: Ứng dụng công nghệ thông tin đưa hình ảnh vào bài giảng, Phương
pháp trình chiếu, viết bài thu hoạch, thảo luận nhóm … Trong các phương pháp nêu
trên tôi nhận thấy phương pháp “ Thảo luận nhóm” mang lại hiệu quả giáo dục toàn
diện hơn so với các phương pháp khác. Với những câu hỏi khó, những tình huống
chưa giải quyết, cá nhân các em có thể đưa ra thảo luận trong nhóm để thống nhất ý
kiến. Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương
pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Giúp cho học sinh mở rộng kiến thức,
phát triển được tư duy khoa học,phát triển kĩ năng nói, giao tiếp tranh luận... Tuy
nhiên khi tiến hành phương pháp này còn gặp phải một số hạn chế như sau:

- Thứ nhất: Để giúp học sinh làm quen với cách học mới, giúp các em chủ động, tự
tin, dám nêu ra quan điểm của mình chúng ta cần phải trải qua một thời gian để các
em thích ứng. Trong những tiết học đầu tiên chúng ta không nên áp dụng phương
pháp này ngay, vì làm như thế các em sẽ bỡ ngỡ dẫn đến nhiều trở ngại trong quá
trình học tập, không thu được kết quả như mong muốn. Chúng ta có thể làm theo
cách sau để tạo cho các em thói quen độc lập, tư duy và làm bài theo hiểu biết của
cá nhân.
Do học sinh chưa quen với cách học mới, các em thụ động, thiếu tự tin, không
dám nêu ra quan điểm của mình và đây chính là một trở ngại lớn nhất khi đua
phương pháp này vào giảng dạy.
- Thứ hai: Là khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia như thế
nào cho hợp lí, chọn cử ai là thủ lĩnh nhóm để nhóm học tập có hiệu quả. Tôi đã sử
dụng phương pháp sau để chọn ra thủ lĩnh nhóm đạt yêu cầu: Chúng ta chia thành 4
nhóm theo 4 tổ của lớp, mỗi tổ có 3 bàn học, giáo viên đưa ra một câu hỏi về kiến
thức môn học hoặc kiến thức xã hội, yêu cầu mỗi bàn học thảo luận để tìm ra đáp
án, giáo viên cho thời gian đủ để quan sát hoạt động của các em. Từ hoạt động này
chúng ta sẽ chọn ra một em nổi trội trong bàn có khả năng lãnh đạo, thuyết trình.
Như thế mỗi bàn chúng ta sẽ chọn được một em học sinh. Mỗi tổ ta sẽ có 3 học sinh
để tiếp tục lựa chọn nhóm trưởng bằng cách vừa nêu trên. Tiếp tục cho 3 em trong
tổ vừa chọn ngồi lại cùng một bàn và giáo viên đặt câu hỏi để các em trao đổi thảo
luận trả lời đáp án. Trong 3 em này chúng ta sẽ chọn một em được nhóm bầu lên để
thuyết trình nội dung hoặc em nào có tinh thần xung phong để bầu làm nhóm
trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều hành. Phân công nhiệm vụ cho các thành
viên trong nhóm. Tập trung thảo luận câu hỏi em phải làm gì để xây dựng và quản
li, bảo vệ biên giới quốc gia (giáo viên định hướng cho các em viết bài thu hoạch)
Đây là một khâu quan trọng để thay đổi phương pháp trong dạy và học. Nó cung
cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những
viên gạch đầu tiên để thực hiện thành công phương pháp “ thảo luận nhóm”.
6



- Thứ ba: Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần
trách nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm. Để làm tốt điều này,
cần có sự phối hợp tốt giữa nhóm trưởng, cán sự lớp và giáo viên. Đánh giá trực tiếp
vào kết quả, ý thức của từng nhóm là điều thực sự cần trong giai đoạn đầu. Ở đây ta
áp dụng chính sách thưởng phạt trong thảo luận: Qua những cách này chúng ta đã
dần giúp cho các em chủ động, tự tin làm quen với cách học mới và đã dần loại bỏ
đi một trở ngại lớn khi bắt đầu tiến hành phương pháp “ Thảo luận nhóm”
Để khích lệ tinh thần học tập giáo viên nên thưởng cho những học sinh tham gia
sôi nổi, nhiệt tình, có ý thức cao trong hoạt động của nhóm và trong quá trình học
tập bằng cách cho điểm kiểm tra thường xuyên hoặc cộng điểm ưu tiên và có hình
thức phạt những em mất trật tự, không tham gia thảo luận, làm việc hoặc nói chuyện
riêng…. bằng cách nhắc nhở, cảnh cáo, viết kiểm điểm hoặc trừ điểm….
- Để áp dụng tốt phương pháp này ta cần giải quyết được các mặt hạn chế nêu trên
bằng những biện pháp sau.
3.1.1. Lựa chọn chủ đề thảo luận:
Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần trách
nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
- VD1: Ở chương trình lớp 10 Bài 1: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Phần I – Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. Giáo
viên nêu câu hỏi: Bằng những kiến thức lịch sử đã học, em hãy lập dàn ý về
“Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam”. [3]Cho các em đọc bài và
yêu cầu mỗi em lập dàn ý trong thời gian do giáo viên quy định. Giáo viên quan sát
hoạt động của học sinh, nhận xét và kiểm tra bài làm của một số em. Sau đó giúp
các em hệ thống lại nội dung của bài. Hoặc cho các em viết bài thu hoạch:
- Ví dụ2: Ở Khối lớp 11 Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biện giới quốc gia.
Phần III: Bảo vệ Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam, mục 2 c.Trách
nhiệm của công dân: Trong phần này giáo viên đặt câu hỏi như sau: Là một công
dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em phải làm gì để xây dựng và quản
li, bảo vệ biên giới quốc gia?[4] (GV định hướng cho các em viết bài thu hoạch)

Qua những cách này chúng ta đã dần giúp cho các em chủ động, tự tin làm quen với
cách học mới và đã dần loại bỏ đi một trở ngại lớn khi bắt đầu tiến hành phương
pháp “Thảo luận nhóm”.
Chủ đề thảo luận phải là những nội dung cơ bản, trọng tâm, đồng thời là những
tình huống có vấn đề, hấp dẫn, buộc học sinh phải tư duy. Ví dụ: “Hãy thảo luận
để chứng minh Dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm không chỉ
bằng tinh thần chiến đấu dũng cảm, hi sinh vì Tổ quốc mà còn bằng trí thông
minh sáng tạo, bằng nghệ thuật quân sự độc đáo” [5] (GDQP, AN lớp 10).
Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan
điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc học
nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi
gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình
độ của học sinh, hoặc đặt câu hỏi đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư
duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp xếp để đảm
bảo tất cả các thành viên trong nhóm tham gia một cách tích cực.
3.1.2 Lựa chọn phương pháp , Nội dung và câu hỏi cho học sinh thảo luận.
7


Thông thường việc tổ chức thảo luận nhóm trên lớp được tiến hành theo các
bước như sau:
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
Bước 1:
- Chia nhóm, quy định thời gian thảo luận
Bước 2:
Lắng nghe và nhận nhiệm vụ
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm.
Bước 3:
Các nhóm thảo luận dưới sự điều

- Điều khiển, hỗ trợ các nhóm thảo luận.
khiển của nhóm trưởng
Bước 4:
Đại diện các nhóm báo cáo kết quả
- Tổ chức báo cáo kết quả thực hiện.
thảo luận. Các nhóm khác bổ sung
Bước 5: Giáo viên nhận xét và kết luận.
- Dựa vào phương pháp trên tôi ra câu hỏi và hướng dẫn để cho học sinh thảo luận
nhóm như sau:
- Ví dụ: Ở lớp 11 Bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh
Phần II, mục 3: Trách nhiệm của học sinh. Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy trình
bày trách nhiệm của học sinh trong việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự
(NVQS). [6] Giáo viên định hướng cho các em về trách nhiệm của bản thân đối với
việc thực hiện luận NVQS. Cho các em trao đổi thảo luận và trình bày kết quả.
- Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia. GV nêu câu hỏi: Là
công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em có trách nhiệm như thế nào
trong xây dựng và quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia. [7] Cho các em thảo luận rồi
trình bày.
- Ví dụ: Ở lớp 12 Bài 2: Một số hiểu biết về nền Quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân. Giáo viên cho các em thảo luận về những biện pháp chủ yếu để
xây dựng nền QPTD-ANND vững mạnh trong giai đoạn hiện nay và trách nhiệm
của học sinh trong xây dựng nền QPTD-ANND [8]
3.1.3 Chia nhóm và chọn nhóm trưởng:
Chia lớp thành 4 nhóm, 8 - 10 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau:
Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia
các nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm
đồng đều theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ
nam nữ của lớp 50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế
này, các nhóm đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số
cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá

khách quan của các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc nhóm của học sinh hầu như là
không có. Tuy có được thầy cô giáo phổ biến nhưng không rõ ràng và đầy đủ vì còn
hạn chế nhiều về thời gian và trình độ. Đây là một "khâu” quan trọng nếu muốn làm
tốt sự thay đổi trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng
làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây dựng
nên thành công của thảo luận nhóm.
Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề
tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu
hết là nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu? - Ai xử lý tài liệu? - Ai viết bài? - Ai phản
biện lại bài viết, tài liệu của nhóm? - Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác Ai thư ký?
8


3.1.4 Giao nhiệm vụ cho nhóm:
Giáo viên nêu nhiệm vụ rõ ràng, ngắn gọn, xác định thời gian, hướng dẫn cách
thức thảo luận. Thông thường, thời gian thảo luận trung bình là 5- 7 phút.
3.1.5 Làm việc theo nhóm:
Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn nhóm trưởng, thư ký hoặc tự
bầu ra nhóm trưởng. giáo viên có thể chỉ định nhóm trưởng, thư ký luân phiên để
khắc phục tình trạng có học sinh chuyên trách nhiệm vụ này. Trong khi học sinh
thảo luận, giáo viên đi tới các nhóm, quan sát, gợi ý, giúp đỡ học sinh thảo luận nếu
thấy cần thiết và nhắc nhở học sinh không nói chuyện, chơi, làm việc riêng. Sau khi
thảo luận, đại diện các nhóm lên trình bày. học sinh quan sát, bổ sung.
3.1.6 Tổng kết:
Giáo viên với vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen thưởng những
nhóm thảo luận tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho học sinh. Chính
sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi,
nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức về môn học GDQP - AN.
3.2.1.Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên.

Làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ, họ là người trực tiếp
giáo dục, quán triệt và giao nhiệm vụ cho học sinh. Chính sự chuyển biến trong
nhận thức về công tác GDQP-AN của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức
của học sinh.
Nội dung giáo dục quán triệt tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng; các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác GDQP-AN trong giai đoạn
mới hiện nay, như: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong
tình hình mới, [9] Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về
GDQP-AN, các văn bản quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQPAN và những yêu cầu mà học sinh cần đạt được khi học tập tại nhà trường. [10]
3.2.2. Giải pháp 2: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên.
Thường xuyên làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất
lượng cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy, đây là yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng môn học GDQP-AN.
3.2.3. Giải pháp 3: Đổi mới phương pháp và hình thức giảng dạy.
Giáo viên phải thường xuyên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho
phù hợp với từng đối tượng, tăng cường giáo dục truyền thống, lịch sử cho học sinh
thông qua bảo tàng cách mạng của trung ương, địa phương; thường xuyên cập nhật
thông tin để truyền đạt cho học sinh những tiêu chí mới về bảo vệ Tổ quốc tạo hứng
thú để học sinh yêu thích môn học hơn.
3.2.4. Giải pháp 4: Công tác phối kết hợp.
Thường xuyên phối hợp giữa Sở Giáo dục và Đào tạo với Bộ CHQS, Hội đồng
GDQP-AN tỉnh, giữa các nhà trường với cơ quan quân sự địa phương để tạo sự
thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo và bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, sách
giáo khoa, tranh ảnh, mô hình học cụ phục vụ cho môn học; thường xuyên làm tốt
công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả môn học, hàng năm tổ chức hội thi, hội
thao, thực hiện tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương, khen
9



thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong giảng dạy, học tập môn học
GDQP-AN.
3.2.5 Giải pháp 5: Đảm bảo cơ chế, chính sách cho QP-AN.
Đảng và nhà nước thường xuyên quan tâm đầu tư ngân sách cho QP-AN, đổi
mới chế độ chính sách cho giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học GDQP-AN theo
chế độ hiện hành, nhằm động viên kịp thời, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho giáo
viên trong thực hiện nhiệm vụ.
3.3 Ví dụ minh họa về phương pháp"thảo luận nhóm":
- Bài 5: Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai Phần II.
Thiên tai, tác hại của chúng và cách phòng tránh. (GDQP-AN lớp 10)
- Công tác chuẩn bị:
Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh từ tiết học tuần trước: Yêu cầu các em về
đọc trước Bài 5: Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai
Phần II. Thiên tai, tác hại của chúng và cách phòng tránh. Trong đó tập trung
nghiên cứu một số loại hình thiên tai thường gặp trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, nguyên nhân gây ra thiên tai, tác hại của thiên tai và một số biện
pháp phòng tránh? .[11]
- Thực hành lên lớp:
GIÁO VIÊN
HỌC SINH
Bước 1: Chia nhóm, quy định thời - 4 nhóm. Cử nhóm trưởng của các nhóm.
gian thảo luận
Thời gian thảo luận 7 phút ( trong các hoạt
- Giáo viên chia lớp thành nhóm rồi động này giáo viên phân chia thời gian cho
cử nhóm trưởng phụ trách các nhóm.
hợp lí).
Bước 2: Giao nhiệm vụ cụ thể cho - Lắng nghe và nhận nhiệm vụ sau đó tập
từng nhóm.
trung tiến hành thảo luận theo nhóm.
- Giao nhiệm vụ, xác định thời gian, - Nhóm 1: hãy nêu một số loại hình thiên

hướng dẫn cách thức thảo luận. Giáo tai thường gặp trên thế giới nói chung và
viên đưa ra các câu hỏi để học sinh Việt Nan nói riêng?
từng nhóm thảo luận. Trong tiết học
này GV nêu mục đích, yêu cầu của tiết - Nhóm 2: Nguyên nhân gây ra thiên tai?
học và định hướng cho các em tìm
hiểu các loại hình thiên tai, tác hại, - Nhóm 3: Nêu tác hại của thiên tai?
nguyên nhân gây ra thiên tai và đưa ra
các biện pháp phòng tránh thiên tai. - Nhóm 4: Hãy nêu một số biện pháp
Câu hỏi: Các em hãy kể tên một số phòng tránh?
loại hình thiên tai thường gặp trên thế
giới nói chung và Việt Nan nói riêng,
nguyên nhân gây ra thiên tai, tác hại
của thiên tai và một số biện pháp
phòng tránh?
Bước 3: Điều khiển, hỗ trợ các nhóm Tiến hành thảo luận. Các nhóm thảo luận
thảo luận.
theo nhóm của mình dưới sự điều khiển của
+ Giáo viên đi tới cáo nhóm quan sát, nhóm trưởng, thư kí nhóm ghi các ý kiến
gợi ý khi cần thiết để định hướng cho thảo luận của nhóm.
học sinh thảo luận
Tiến hành hoạt động: Cho mỗi em tự
nghiên cứu nội dung trong SGK kết hợp
10


với hiểu biết của cá nhân yêu cầu các em
lập dàn ý. Sau đó yêu cầu các em trao đổi,
thảo luận, thống nhất ý kiến và cử một
thành viên trong nhóm đứng lên trình bày
lần lượt từng nhóm.

Bước 4: Tổ chức báo cáo kết quả thực - Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo
hiện.
luận. Các nhóm khác bổ sung
+ Giáo viên nêu tiếp vấn đề để cả lớp + Nhóm trưởng chọn lọc, tổng hợp ý kiến
thảo luận nếu cần thiết.
của nhóm sau đó lên trình bày trước lớp.
- Bước 5: Tổng kết bài.
Một số loại thiên tai phổ biến ở Việt Nam :
+ Giáo viên bật máy, chiếu hình ảnh - cả lớp quan sát, các thành viên của nhóm
cần thảo luận của nhóm
khác bổ sung ý kiến
Giáo viên chốt lại vấn đề Giáo viên
nhận xét, đánh giá kết quả bài làm của
từng nhóm. Biểu dương những học
sinh và nhóm thảo luận tích cực và
hiệu quả
Giáo viên nhận xét và kết luận.
-Bão: là 1 trong những loại hình thiên
tai phổ biến và nguy hiểm ở VN kèm
theo mưa lớn kéo dài gây lũ lụt. Nước
ta nằm trong vùng Bão có số lượng
lớn, cường độ mạnh và ngày càng gia
tăng.
- Lũ lụt : chủ yếu xẩy ra trên lưu vực
các con sông
+ Ở Bắc bộ hàng năm trung bình 3-5
trận thời gian kéo dài từ 8-15 ngày
+ Các sông ở Trung bộ có đặc điểm
lên nhanh, rút nhanh do hệ thống ngăn
lũ thấp hoặc không có đê.

+ Các sông khu vực Tây Nguyên lũ
núi, quét
+ Các sông khu vực Đông Nam Bộ
cường độ không lớn nhưng ngập kéo
dài
+ Các sông khu vực Đồng Bằng Sông
Cửu Longdiễn biến chậm nhưng kéo
dài 4-5 tháng.
- Lũ quét, bùn đá. + Xảy ra ở vùng
đồi núi có độ đốc lớn cường độ mưa
lớn, đường thoát nước bất lợi
+ Cũng có thể xảy ra do vỡ các hồ
chứa nhỏ
+ Xảy ra bất ngờ, phạm vi hẹp nhưng
thiệt hại nghiêm trọng về người và
11


của.
- Ngập úng: + Do mưa lớn gây ra, ít
thiệt hại về người nhưng ảnh hưởng
lớn đến sản xuất nông nghiệpvà môi
trường sinh thái.
- Hạn hán và sa mạc hóa:
+ Đứng thư 3 về mức độ thiệt hại sau
Bão, Lũ.
+ Hạn hán kéo dài dẫn đến nguy cơ sa
mạc hóa 1 số vùng đặc biệt là vùng
Nam Trung Bộ, vùng cát ven biển,
trung du, miền núi...

- Ngoài ra còn có Lốc, sạt lở đất,
động đất, sóng thần...
* Tác hại của thiên tai: - Là tác nhân
cản trở phát triển kinh tế-xã hội; Tàn
phá môi trường, phát sinh dịch bệnh
tác động xấu đến sản xuất và đời sống;
Gây hậu quả xấu đối với quốc phòng
và an ninh.
*Một số biện pháp phòng chống và
giảm nhẹ thiên tai: - Chấp hành
nghiêm các văn bản pháp luật về
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Tích cực tham gia các chương trình
liên quan đến phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai. Nghiên cứu và ứng dụng
KH-CN trong phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai. Hợp tác quốc tế về cứu
hộ và phòng, chống và giảm nhẹ thiên
tai. Cứu hộ, cứu nạn. Khắc phục hậu
quả.
+ Cấp cứu người bị nạn. Làm vệ sinh
môi trường. + Giúp đỡ các gia đình bị
nạn ổn định cuộc sống. Khôi phục sản
xuất và sinh hoạt bình thường.
- Tuyên truyền giáo dục, nâng cao
nhận thức về phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai.
- Dặn dò: Ra câu hỏi và bài tập về
nhà cho học sinh ôn tập.
- Các loại thiên tai chủ yếu ở nước ta? Tác

hại của thiên tai? Một số biện pháp phòng
chống và giảm nhẹ thiên tai? Trách nhiệm
của học sinh trong việc phòng chống, giảm
nhẹ thiên tai?
12


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
4.1.. Kết quả đạt được.
Mặc dù thời gian của một tiết dạy còn hạn chế, nhưng tôi cũng đã mạnh dạn vận
dụng phương pháp này vào các tiết dạy lý thuyết ở trường và đạt được những kết
quả khả quan. Phương pháp này khi áp dụng vào dạy một số nội dung lí thuyết của
môn học phù với với chương trình sách giáo khoa và đảm bảo phương pháp học
mới. Học sinh có hứng thú học tập, tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức và phát
triển được nhiều kĩ năng. Từ đó, không khí học tập trở nên sôi nỗi và nhẹ nhàng,
học sinh thích thú với môn học so với phương pháp truyền thống trước đây. Qua
phương pháp học sinh tự nghiên cứu, sau đó trao đổi thảo luận đã giúp các em phát
huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học,
tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong
học tập và trong thực tiễn; tạo niềm vui, hứng thú trong học tập. Khi một học sinh
của nhóm lên trình bày các em còn lại chú ý lắng nghe xem bạn mình trình bày có
đầy đủ ý không, hoặc khi nhóm khác lên trình bày các em cũng chú ý lắng nghe
xem kết quả có giống với kết quả của nhóm mình hay không? Chính việc lắng nghe
đó đã giúp các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp học một cách dễ dàng,
không cần phải dành nhiều thời gian học thuộc lòng bài ở nhà. Từ đó, giảm bớt đi
áp lực của môn học và gây hứng thú cho học sinh dần dần làm cho các em yêu thích
môn học hơn.
4.2. Kết quả cụ thể: (khảo sát sau khi áp dụng phương pháp ''Thảo luận nhóm")
- BẢNG 1: Điều tra hứng thú học tập của các em đối với môn GDQP-AN ở cả 3
khối lớp mỗi khối 01 lớp sau khi đã áp dụng phương pháp " Thảo luận nhóm" cụ thể

như sau:
Em cho biết cảm nghĩ của mình khi học môn GDQP-AN?

Rất thích
Thích
Hơi thích
Không thích
Lớp số
số
số
số
HS số lượng
%
%
%
%
lượng
lượng
lượng
10A3 38
15
40
21
55
2
5
0
0
11A2 37
11

30
23
62
3
8
0
0
12A4 34
12
35
20
59
2
6
0
0
Tổng 109
38
35
64
59
7
6
0
0
- BẢNG 2: Điều tra mức độ học bài cũ môn GDQP-AN trước khi đến lớp của học
sinh ở cả 3 khối lớp mỗi khối 01 lớp sau khi đã áp dụng phương pháp " Thảo luận
nhóm" cụ thể như sau:
Em đã thực hiện việc học bài cũ và đọc bài ở nhà như thế nào?
Thỉnh thoảng

Em học kĩ,
Em học
Em ngại nên

em có học,
Học thuộc
thường xuyên
không học
Lớp
số
có đọc
HS
số
số
%
% số lượng %
số lượng
%
lượng
lượng
10A5 37
11
30
22
59,3
3
8
1
2,7
11A3 38

12
32
21
55
5
13
0
0
12A2 37
14
38
20
54
3
8
0
0
13


Tổng 112
37
33
63
56,3
11
9,8
1
0,9
- BẢNG 3: Thống kê chất lượng môn học của 02 năm học từ khi áp dụng phương

pháp "Thảo luận nhóm" (từ năm học 2015-2016; 2016-2017) cụ thể như sau.
Xếp loại
GIỎI
KHÁ
TB
Yếu
Năm học
2015 - 2016
21%
61%
16%
2%
2016 - 2017
26%
63%
11%
0%
Qua thực tế những năm giảng dạy môn giáo dục quốc phòng – an ninh. Với sự cố
gắng nghiên cứu, trao dồi, học hỏi kinh nghiệm qua đồng nghiệp bản thân tôi đã đúc
kết được một số biện pháp cụ thể như trên và đã đưa vào áp dụng giảng dạy cho các
học sinh ba khối lớp 10, 11, 12 của trường THPT Đặng Thai Mai
So sánh với thực tế kết quả khảo sát trước và sau khi tiến hành áp dụng một số
kinh nghiệm và các giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả
cụ thể như sau :
- Tiết học môn giáo dục quốc phòng – an ninh sinh động hơn.
- Học sinh phát huy được tính tự giác và tích cực hơn.
- Ý thức học tập, kỷ luật của học sinh được thể hiện ở mức độ cao hơn.
- Học sinh lĩnh hội được kiến thức nhanh và sâu rộng hơn.
- Học sinh rất hứng thú vớí môn học, qua khảo sát cho thấy tỷ lệ học sinh thích và
rất thích học môn GDQP-AN chiếm 94%

- Học sinh chăm chỉ tự giác học bài ở nhà trước khi đến lớp chiếm tỷ lệ 89,3%
- Kết quả đánh giá xếp loại cuối năm của môn giáo dục quốc phòng – an ninh của
từng năm học được nâng dần lên rõ rệt:
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Như chúng ta đã biết. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp cho học sinh tự
tìm tòi sáng tạo và chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Tổ
chức dạy học theo nhóm là một trong những hình thức thực hiện tốt nhất việc dạy
học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này học sinh
được lôi cuốn vào các hoạt động học tập, tiếp thu kiến thức bằng chính khả năng
của mình với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
Ngoài những nội dung kiến thức nêu trên sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy
rõ được ý nghĩa, mục đích một cách sâu sắc của một bài học GDQP-AN.
Qua quá trình giảng dạy, tôi vận dụng khai thác triệt để những kinh nghiệm vốn
có, kết quả cho thấy chất lượng bộ môn được nâng cao. Bên cạnh đó học sinh thấy
yêu thích học môn GDQP-AN và giờ dạy GDQP-AN thêm sinh động và hấp dẫn.
Trong quá trình giảng dạy tôi đúc rút ra kinh nghiệm thực tiễn như đã trình bày ở
trên, với đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng
góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của quý thầy cô giáo, các đồng nghiệp cũng như sự
chỉ đạo về chuyên môn của nhà trường để bản thân được học hỏi thêm, mỗi ngày
phát huy tốt hơn giờ dạy GDQP-AN ở bậc THPT.
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc đổi mới phương pháp giáo dục trong dạy
học là rất cần thiết, đặc biệt đối với môn GDQP-AN. Việc đổi mới phương pháp
giáo dục nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem lại hiệu quả cao. Điều đó cho thấy
đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng đắn .
14


Việc đổi mới phương pháp giáo dục mà tôi đang trình bày giúp giáo viên gây được
hứng thú, suy ngẫm trong học sinh, hướng các em đến với nội dung của bài học.

Học sinh yêu thích bộ môn, hứng thú và tích cực học tập hơn, như vậy sẽ cho kết
quả cao hơn.
Biện pháp tuy có thể nói không mới gì lắm, nhưng với sự chủ động hướng dẫn
của giáo viên và sự tích cực của học sinh đã đem đến một kết quả khả quan hơn
trong quá trình học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP-AN nói riêng yêu cầu người giáo viên phải
biết linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học sinh
khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải có nghệ
thuật sư phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Ngoài ra, để tạo hứng thú và lôi
cuốn học sinh đến với bộ môn GDQP-AN giáo viên cần phải có nhiệt huyết trong
quá trình giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi
kinh nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, sự lôi
cuốn trong phong cách để cuốn hút học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính
độc lập, sáng tạo và năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
2. Kiến nghị:
- Đối với tổ bộ môn:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP-AN để học
sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý đề xuất các phương pháp dạy
học môn GDQP-AN được tốt hơn. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có
những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học phù
hợp với đối tượng học sinh của mình.
- Đối với nhà trường:
Quan tâm tạo điều kiện hơn nữa trong việc đầu tư tu sửa sân bãi và mua sắm
thiết bị đồ dùng dạy học để đáp ứng yêu cầu dạy và học của bộ môn GDQP-AN.
Cần mua sắm thêm các tư liệu GDQP-AN có liên quan trong chương trình học
để giáo viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu
quả của bộ môn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá rút kinh nghiệm
các giờ dạy GDQP-AN đặc biệt là về mặt phương pháp.
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Có kế hoạch cấp bổ sung các đồ dùng trực quan,... nhằm phục vụ nhu cầu dạy học của giáo viên, học sinh ở trường THPT.

Tổ chức các đợt sinh hoạt cụm, sinh hoạt chuyên môn nhằm tìm các giải pháp để
nâng cao hiệu quả chất lượng bộ môn.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra về công tác chỉ đạo dạy và học của các trường
đồng thời dự giờ để đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy của giáo viên GDQP-AN.
XÁC NHẬN CỦA BGH
HIỆU TRƯỞNG

Quảng Xương, ngày 26 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan SKKN này không sao chép nội
dung của người khác
Tác giả

Trần Văn Tuấn
15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trích Chỉ thị 12/CT/TW của Bộ chính trị - BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 3/5/2007.
[2]. Theo tác giả Phan Trọng Ngọ. - Nguồn infonet.vn/ky-nang-su-dung-phuongphap-thao-luan-nhom post189143.info
- Nguồn pháp dạy học hợp tác trong
nhóm
[3] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 10
[4] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 11
[5] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 10
[6] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 11
[7] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 11
[8] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 12
[9] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 12
[10] Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về GDQP-AN,

các văn bản quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDQP-AN
[11] Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - An ninh 10
- Sách giáo viên Giáo dục quốc phòng - An ninh 10
12. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet.
- Nguồn quocphonganninh.edu.vn/index.aspx
- Nguồn giaoan.violet.vn
- Nguồn text.123doc.org › Giáo án - Bài giảng › Tư liệu khác
- Nguồn giaoducthoidai.vn › Trao đổi
- Nguồn text.123doc.org › Khoa học xã hội › Giáo dục học

16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Văn Tuấn
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: Tổ Thể dục - GDQP-AN. Trường THPT Đặng Thai Mai
TT
1.

2.

Tên đề tài SKKN
- Sử dụng các bài tập bổ trợ trong
giảng dạy kĩ thuật môn nhảy xa
kiểu ưỡn thân cho học sinh lớp 11
- Đổi mới phương pháp dạy học và
một số giải pháp nâng cao chất

lượng môn Giáo dục quốc phòng An ninh cho học sinh THPT.

Cấp đánh
giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học đánh
giá xếp loại

Cấp Sở

B

2009-2010

Cấp Sở

C

2012-2013

17




×