Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Su dung phuong phap thao luan nhom, tro cho trong tiet tong ket, on tap van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.06 KB, 16 trang )

1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho con người có những suy nghĩ

nhận thức
mới trên tất cả các lĩnh vực. Hòa vào xu thế chung, Bộ giáo dục đã phát động đổi mới
phương
pháp
dạy học nhằm đáp ứng
tốt
nhất nhu cầu chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện của
người học trong thời
đại mới.
Một vấn đề quan trọng đang đặt ra là
làm
thế nào để phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Để thực hiện được vấn
đề
này
trong nhà trường phổ thông ở tất cả các môn học quả là một vấn đề
nan
giải. Hơn nữa, làm
thế nào để thực hiện được phương pháp dạy học tích
cực
trong môn Ngữ văn thì càng khó
khăn gấp bội.
Có thể nói, môn Ngữ
văn
là một môn học có tác dụng khơi gợi những rung cảm, những
cảm xúc


thẩm
mĩ trong lòng người học. Môn Ngữ văn còn là môn học thuộc nhóm công cụ
có tác động tích cực đến việc học tập các môn học khác, là công cụ tư duy và diễn đạt để
các em giao tiếp với mọi người trong cuộc sống hằng ngày, lại vừa là môn học có quan hệ
khá mật thiết với các môn thuộc nhóm nghệ thuật góp phần hình thành các giá trị chân,
thiện, mĩ trong cuộc sống con người. Vị trí đó, tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính
thực hành, giảm lí thuyết, gắn với đời sống. Bởi vậy, nếu giáo viên không có cách
tổ
chức
học tập tốt, môn học này sẽ trở thành một môn học buồn chán, nặng
nề,
làm nguội lạnh sự
nhạy bén trong tư duy, xúc cảm của người học, làm
mai
một những khả năng diễn đạt và
cảm nhận tác phẩm văn chương của học
sinh
. Chính vì thế, việc vận dụng, thực hiện những
phương pháp mới vào
dạy
học là một yêu cầu rất cần thiết đối với môn Ngữ
văn.
Ở SGK chương trình THCS nói chung, chương trình Ngữ văn 9 nói riêng, tiết ôn tập, tổng
kết được dành một thời lượng khá lớn. Đây là những tiết học giúp học sinh rèn luyện kĩ
năng hệ thống hoá kiến thức cơ bản trong từng phân môn đồng thời còn có tính chất củng
cố kiến thức cho cả một cấp học. Giáo sư Nguyễn Khắc Phi –Tổng chủ biên SGK Ngữ văn
THCS đã từng nhấn mạnh : “ Chương trình Ngữ văn 9 dành một thời lượng khá lớn cho
các phần ôn tập, tổng kết, kiểm tra không phải chỉ tổng kết những vấn đề riêng của lớp 9
mà của cả cấp học. Ở học kì I , về Tiếng Việt, số tiết ôn tập, tổng kết, và kiểm tra gần
ngang với số tiết học bài mới . Ở học kì II , riêng phân môn văn học đã có 6 tiết tổng kết .

2
Phối hợp một cách hợp lí, có hiệu quả việc ôn tập, tổng kết và cung cấp kiến thức mới là
một đòi hỏi khắt khe đối với việc tổ chức dạy học Ngữ văn 9”.
Với những lí do trên, để phát huy hiệu quả sự chủ động, tích cực, sáng tạo học tập của học
sinh trong môn Ngữ văn nói chung và dạy học các tiết ôn tập, tổng kết nói riêng, tôi chọn đề
tài "SỬ DỤNG HÌNH THỨC THẢO LUẬN NHÓM VÀ TRÒ CHƠI ĐỂ PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG CÁC TIẾT ÔN TẬP, TỔNG
KẾT NGỮ VĂN 9".
II. Mục đích chọn đề tài
Dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh là vấn đề
không mới nhưng cũng chưa cũ đối với giáo dục
hiện
đại bởi phương pháp dạy học truyền
thống không thể đáp ứng được
những
đòi hỏi của nền giáo dục hiện nay. Đổi mới phương
pháp dạy
học
trong nhà trường để xóa bỏ phương pháp dạy học giáo điều là một đòi hỏi
cấp
bách nhằm giải phóng và phát huy tiềm năng sáng tạo cho người học ngay
từ
trên ghế nhà
trường. Thế kỉ XXI là thế kỉ của chất xám, của trí tuệ. Con người muốn tồn tại, muốn hòa
nhập, muốn
tự
khẳng định mình thì trước hết phải là những thành viên năng động, sáng
tạo.
Mà phương pháp giáo điều không thể đảm đương trọng trách này. Vì
vậy,

phải tìm ra một
phương pháp dạy học khác cho phù hợp, một trong
những
phương pháp đó là dạy học phát
huy tính tích cự, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Tuy phương pháp dạy học
này
không
phải hoàn hảo nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới
phương
pháp dạy học góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu
quả
dạy
học.
III. Thực trạng của vấn đề
Thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh học rất yếu môn Ngữ văn, ít ham thích
học văn. Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại phải tiếp tục tìm hiểu, khám phá
những kiến thức cao hơn, rộng lớn hơn, trừu tượng hơn từ đó dẫn đến việc mất dần kiến
thức và kỹ năng cơ bản, dẫn đến chán học, không hứng thú học văn. Bên cạnh đó,
chương trình vẫn còn những bài dạy dung lượng kiến thức lớn nhất là các bài ôn tập, tổng
kết trong chương trình Ngữ văn 9. Điều này khiến học sinh càng lười học, không chịu
đầu tư suy nghĩ, ít phát biểu xây dựng bài trong giờ học, khâu chuẩn bị bài còn hời hợt,
tiếp thu bài chậm.
3
Về phía giáo viên, một số GV còn lúng túng trong phương pháp giảng dạy, nhất là khi
dạy các bài tổng kết, ôn tập. Đôi khi, giáo viên chưa biết làm thế nào để tạo sự hứng thú
cho HS trong học tập và nắm bắt được những kiến thức trọng tâm của bài học một cách
nhẹ nhàng và sinh động nhất.
Bởi vây, với các bài ôn tập, tổng kết trong chương trình Ngữ văn nói chung và lớp 9 nói
riêng. Việc hướng dẫn học sinh tự học , tự nghiên cứu, tích cực, chủ động là cách tốt
nhất để chuyển giao quyền chủ động lĩnh hội kiến thức đến học sinh.

Cụ thể
Giáo viên thực sự trao quyền cho học sinh học tập một cách chủ động
Học sinh được hướng dẫn và chủ động lĩnh hội kiến thức.
Học sinh và giáo viên cùng hợp tác- Thông tin được chia sẻ
Làm việc theo nhóm
Học sinh được học cách lãnh đạo
Bài học được khắc sâu, người học làm trung tâm
Thực tế theo tháp nhận thức ta
thấy việc tự học, tự nghiên cức
của học sinh sẽ giúp các em tiếp
nhận kiến thức một cách chủ
động, tự nhiên và có hệ thống
hơn. Nếu các em nghe giảng thì
mức độ tiếp thu chỉ đạt 5%, tự
đọc, mức độ tiếp thu là 10 %,
nghe nhìn là 20%, làm thử
nghiệm trước học sinh là 30%,
thảo luận theo nhóm là 50%, tự
chuẩn bị bài và trình bày lại là
75% và giảng lại được cho
người khác nghe thì mức độ tiếp
thu sẽ đạt 90%.
4
IV. Phạm vi, đối tượng áp dụng
Áp dụng đối với các tiết tổng kết, ôn tập Ngữ văn 9
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Quan sát tình hình thực tế
2. Điều tra thăm dò
3. Phân nhóm, phân loại
4. Thực nghiệm

PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỤC TIÊU, YÊU CẦU CỦA CÁC TIẾT ÔN TẬP, TỔNG KẾT ĐỐI VỚI HỌC SINH
LỚP 9.
Qua nhiều lần sinh hoạt chuyên môn cụm, trao đổi với một số đồng nghiệp của trường
bạn phần lớn đều cho rằng kiểu bài ôn tập - tổng kết ở lớp 9 là kiểu bài rất khó đạt
được yêu cầu đặt ra, thời gian ít nhưng nội dung lại phong phú đa dạng , HS ít hứng
thú không phát huy tính tích cực sáng tạo trong học tập. Vì thế đối với những tiết ôn
tập - tổng kết ,tôi dành rất nhiều thời gian cho sự chuẩn bị, nghiên cứu tìm cách tổ
chức các hoạt động sao cho phù hợp với từng tiết dạy để vừa củng cố kiến thức, kĩ
năng thực hành vừa phát huy tính tích cực của HS.
1. Mục tiêu: Mục đích của dạng bài ôn tập –tổng kết ở lớp 9:
- Củng cố, hệ thống hoá kiến thức đã được học, tự học có hướng dẫn, đọc thêm của
toàn cấp học.
- Biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn
- Đòi hỏi người dạy và người học phải có tư duy khái quát, tổng hợp vừa phải tư duy
cụ thể
- Củng cố khắc sâu kiến thức và hình thành kĩ năng luyện tập
2. Yêu cầu
Rõ ràng , để dạy học có hiệu quả các tiết tổng kết –ôn tập trong chương trình Ngữ văn
lớp 9 quả là điều không đơn giản, đòi hỏi cần có sự chuẩn bị tích cực của GV và cả HS,
trong đó vai trò tổ chức hoạt động học tập của GV là vô cùng quan trọng. Bởi HS có tích
cực tự giác học tập ở trường và cả ở nhà phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của GV. Một giờ
5
học lôi cuốn tất cả HS vào hoạt động học tập thì giờ học đó không thể không đạt kết quả.
Để có một tiết học như thế cần thực hiện những yêu cầu cơ bản sau:
a. Giáo viên:
- Phải nắm vững yêu cầu cần đạt của tiết học về kiến thức, phương pháp, kĩ năng…
- Khai thác và sử dụng hệ thống câu hỏi, bảng hệ thống tổng hợp có trong SGK và
SGV một cách sáng tạo.
- Nghiên cứu thật kĩ nội dung, sử dụng phương pháp dạy học hợp lí, theo từng bài mà

có cách tổ chức hoạt động học tập đa dạng sao cho phù hợp và có hiệu quả, vừa đạt
được mục tiêu yêu cầu vừa phát huy tính tích cực chủ động học tập của HS.
- GV phải có sự chuẩn bị chu đáo về đồ dùng dạy học cần thiết khi tổ chức các hoạt
động học tập .
- Chú trọng hơn việc dặn dò trước tiết học kiểu bài Ôn tập – tổng kết, hướng dẫn HS
chuẩn bị bài cụ thể chu đáo .
- Không thể thiếu sự nổ lực nhiệt tình của GV trong việc tìm tòi tư liệu, học hỏi
đồng nghiệp, không ngừng sáng tạo, từng bước vận dụng có hiệu quả phương pháp
dạy học mới với từng kiểu bài, từng tiết dạy.
- Dự trù phương án sử dụng thời gian hợp lí
- Người GV đóng vai trò điều hành, lấy HS làm trung tâm, linh hoạt giải quyết
những tình huống bất ngờ sao cho có hiệu quả .
b. Học sinh:
Chuẩn bị bài chu đáo nhất là các nội dung ôn tập khái niệm, lập bảng hệ thống
II. CÁC HÌNH THỨC PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH TRONG TIẾT TỔNG KẾT, ÔN TẬP.
1- Hình thức tổ chức thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là đặt học sinh vào môi trường học tập theo các nhóm nhằm khuyến
khích học sinh trao đổi và biết cách làm việc hợp tác. Thảo luận nhóm giúp học sinh tích
cực tham gia vào quá trình học tập, lắng nghe, ghi lại và chia sẻ từ đó đưa ra ý kiến giải
quyết một vấn đề chung.
Thảo luận nhóm không chỉ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động trong học tập của
học sinh mà còn góp phần hình thành nhiều kĩ năng cho người học như:
6
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng nói, diến đạt
- Kĩ năng tập hợp và ghi chép tư liệu
- Kĩ năng báo cáo.
a.


Cách thức tổ chức:
- Để thực hiện một tiết tổng kết, ôn tập có sử dụng hình thức hoạt động
nhóm, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách chia lớp học thành các nhóm nhỏ
( 2,4,6em). Chúng ta cần phải biết cách chia nhóm, chọn kiểu nhóm nào để phù hợp với
điều kiện của lớp. Nhóm: Gồm 2 đến 6 em, tuỳ mục đích và yêu cầu của vấn đề học tập,
các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc lựa chọn chủ định, được duy trì ổn định hoặc
thay đổi theo từng phần của tiết học, được giao nhiệm vụ cụ thể. Các nhóm lớn (6 em, tạo
điều kiện cho các thành viên trong nhóm niềm tin lớn nhất về kết quả làm việc vì có nhiều
khả năng tìm câu hỏi đúng). Vớí loại nhóm này, thu hút được nhiều ý kiến, nhiều kinh
nghiệm và có khả năng hiểu đúng, hiểu nhanh chóng nhiệm vụ. Tuy nhiên nhóm
lớn cũng có hạn chế là khó đi đến quyết định thống nhất và giáo viên khó quản lí.
Các nhóm nhỏ (2-4 em) các em có nhiều cơ hội để thể hiện ý kiến của
mình, thống nhất ý kiến nhanh hơn và dễ quản lí hơn.
*Cơ cấu nhóm:
Để nhóm hoạt động có hiệu quả, các thành viên phải biết rõ nhiệm vụ của mình,
vì vậy phải phân công nhiệm vụ cho các em:
+ Trưởng nhóm: điều khiển hoạt động nhóm.
+ Thư kí: ghi chép kết quả hoạt động của nhóm sau khi đã thống nhất.
+ Báo cáo viên: Báo cáo kết quả làm việc của nhóm.
+ Thành viên khác: có nhiệm vụ tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm.
Trong nhóm có học sinh phải thay nhau đóng vai của các thành viên trên hoặc kiêm
nhiệm. Khi hoạt động nhóm các thành viên trên cần:
+ Hướng vào nhau ( ngồi thành vòng tròn hoặc xung quanh bàn )
+ Chăm chú lắng nghe người khác phát biểu.
7
+ Từng thành viên sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình.
+ Trao đổi, thảo luận để có ý kiến thống nhất.
+ Tuân theo sự điều khiển của từng nhóm trưởng.
+ Đảm bảo thời gian.

* Cách chia nhóm
Trong giờ lên lớp, tuỳ theo mục tiêu của từng hoạt động. GVcó thể chia nhóm nhỏ có
từ hai HS trở lên. Việc chia nhóm nhiều hay ít HS là do GV yêu cầu và quyết
định. Sau đây là một số cách chia nhóm đang được giáo viên áp dụng:
- Gọi ngẫu nhiên: tuỳ theo mục đích chia nhóm giáo viên có thể chia nhóm thích
hợp( từ số 1 đến số 6…rồi quay trở lại).
- Chỉ định: Giáo viên lần lượt đọc tên học sinh vào từng nhóm.
- Chia nhóm biểu tượng: GV có thể dùng các biểu tượng: hình tam giác,hoa hồng, các
loại qủa, tên các anh hùng …để chia nhóm. Các em có cùng biểu tượng vào một nhóm để
tạo ra sự ngẫu nhiên và thoải mái cho học sinh.
- Chia từng cặp: Giáo viên chỉ định hai học sinh ngồi gần nhau làm việc. Cách
này thường diễn ra ngay sau khi học sinh làm việc cá nhân.
- Chia theo bàn: Giáo viên chỉ định 2 hoặc 3 bàn thành một nhóm
Với hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta có thể sử dụng trong tất cảc các tiết dạy,
trong tất cả các bài học đặc biệt các tiết tổng kết, ôn tập.
Khi cho HS thảo luận nhóm thì có rất nhiều cách để chúng ta thực hiện:
+ Viết sẵn câu hỏi ra giấy rồi phát cho mỗi nhóm một tờ.
+ Treo bảng phụ (máy chiếu) có ghi nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Chỉ cho HS câu hỏi trong sách GK và HS nhìn vào đó để thảo luận.
+ Từ một ý kiến thắc mắc của HS về bài học, tổ chức cho các em thảo luận.
b. Chuẩn bị của giáo viên:
+ Phiếu học tập, bảng phụ, máy chiếu…chuẩn bị nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ, câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
+ Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, phù hợp với đối tượng HS.
+ Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo cho HS.
8
+ Các câu hỏi chỉ nên xoay quanh nội dung chính của bài học.
+ Thời gian thảo luận không quá ngắn HS không kịp định hình, cũng không quá
dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
+ Phân nhóm cho HS thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.

+ HS thảo luận xong, GV gọi ít nhất hai nhóm trả lời, còn lại thu bài về nhà
chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
+ Phân công một HS nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một HS ghi nhanh làm thư
ký.
+ Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng thời
gian nào trong tiết dạy.
c. Chuẩn bị của học sinh:
+ Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
+ Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
+ Mạnh dạn trình bày ý kiến trước lớp.
d. Một số ví dụ minh hoạ:
- Ví dụ 1: Khi hướng dẫn học sinh bài "Tổng kết từ vựng", giáo viên có thể sử dụng
hình thức thảo luận nhóm để làm các bài tập nhằm tiết kiệm thời gian và giúp các em học
sinh tích cực tham gia vào bài học. Ví dụ bài tập phần thành ngữ: Trong các tổ hợp từ sau
đây, tổ hợp từ nào là thành ngữ, tổ hợp từ nào là tục ngữ? Giải thích nghĩa của mỗi thành
ngữ, tục ngữ đó? Để hướng dẫn học sinh bài tập này theo phương pháp thảo luận nhóm,
giáo viên cần chuẩn bị phiếu thảo luận trên đó có sẵn các ví dụ và yêu cầu để học sinh
điền các thông tin.
Phiếu thảo luận
Nhóm
Ví dụ Thành ngữ/Tục ngữ Ý nghĩa
a) Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng
b) Đánh trống bỏ dùi
c) Chó treo mèo đậy
d) Được voi đòi tiên
e) Nước mắt cá sấu
9
Sau khi hướng dẫn học sinh việc chia nhóm, các yêu cầu khi thảo luận và yêu cầu của bài
tập, giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận. Sau đó đại diện các nhóm trình bày, nhận

xét, bổ sung. Cuối cùng, giáo viên nhận xét và thống nhất.
Hình thức thảo luận nhóm với cách làm tương tự có thể được dùng trong rất nhiều các bài
tập nhất là các bài ôn tập, tổng kết tiếng việt.
- Ví dụ 2: Tương tự khi hướng dẫn HS bài ôn tập thơ hiện đại Việt nam, giáo viên cần
chú ý hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà bằng việc lập bảng thống kê theo mẫu có sẵn.
Giáo viên có thể phân chia thành 3 nhóm và giao cho mỗi nhóm chuẩn bị từ 3-4 tác phẩm
ra giấy khổ to. Trong tiết ôn tập trên lớp, giáo viên dành cho các nhóm từ 5-7 phút để thảo
luận, bổ sung sau đó cử đại diện lên trình bày. Các nhóm khác nghe, nhận xét. Giáo viên
chốt lại, bổ sung hoàn chỉnh bảng hệ thống
Qua hoạt động này, giáo viên sẽ dễ dàng hướng dẫn HS sắp xếp các bài thơ theo từng
giai đoạn lịch sử và so sánh các bài thơ có đề tài gần nhau để thấy điểm chung và những
nét riêng của mỗi tác phẩm. Nếu còn thời gian có thể cho HS thi bình hay phân tích câu
thơ, khổ thơ mà mình thích .
Bảng thống kê
S
T
T
Tên bài
thơ
Tác giả Năm
sáng
tác
Thể
thơ
Đặc sắc nội dung Đặc sắc nghệ thuật
1 Đồng chí Chính
Hữu
1948 tự do Tình đồng chí của những người
lính dựa trên cơ sở cùng chung
cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu,

được thể hiện thật tự nhiên, bình
dị mà sâu sắc trong mọi hoàn
cảnh, nó góp phần quan trọng tạo
nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần
của người lính cách mạng.
Chi tiết, hình ảnh, ngôn
ngữ giản dị, chân thực,
cô đọng, giàu sức biểu
cảm.
Bài thơ về
tiểu đội xe
không
kinh
Phạm
Tiên
Duật
1969 Tự
do
Qua hình ảnh độc đáo - những
chiếc xe không kính. khắc hoạ nổi
bật hình ảnh những người lính lái
xe trên tuyến đường Trường Sơn
trong thời ki kháng chiến chống
Chất liệu hiện thực sinh
động, hình ảnh độc
đáo ; giọng điệu tự
nhiên, khoẻ khoắn, giàu
tính khẩu ngữ.
10
Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần

dũng cảm và ý chí chiến đấu giải
phóng
3 Đoàn
thuyền
đánh cá
Huy Cận 1958 bảy
chữ
Những bức tranh đẹp, rộng lớn,
tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và
người lao động trên biển theo
hành trình chuyến ra khơi đánh cá
Qua đó thể hiện cảm xúc về thiên
nhiên và lao động, niềm vui trong
cuộc sống mới.
Nhiều hình ảnh đẹp
rộng lớn, được sáng tạo
bằng liên tưởng và
tưởng tượng ; âm
hưởng khoẻ khoắn lạc
quan.
4 Bếp lửa Bằng
Việt
1963 kết
hợp
bảy
chữ

tám
chữ
Những kí niệm đầy xúc động về

bà và tình bà cháu, thể hiện lòng
kính yêu trân trọng và biết ơn của
cháu đối với bà và cũng là đối với
gia đinh. Quê hương, đất nước.
Kết hợp giữa biểu cảm
với miêu tả và bình
luận ; sáng tạo hình ảnh
bếp lửa gắn liền với
hình ảnh người bà.
5 Khúc hát
ru những
em bé lớn
trên lưng
mẹ
Nguyễn
Khoa
Điềm
1971 chủ
yếu

tám
chữ
Thể hiện tình yêu thương con của
người mẹ dân tộc Tà-ôi gắn liền
với lòng yêu nước, tinh thần chiến
đấu và khát vọng về tương lai.
Khai thác điệu ru ngọt
ngào, trìu mển.
6 Ánh
trăng

Nguyễn
Duy
1978 Năm
chữ
Từ hình ảnh ánh trăng trong thành
phố, gợi lại những năm tháng đã
qua của cuộc đời người lính gắn
bó với thiên nhiên, đất nước bình
dị, nhắc nhở thái độ sống tình
nghĩa, thuỷ chung.
Hình ảnh bình dị mà
giàu ý nghĩa biểu tượng
; giọng điệu chân thành.
nhỏ nhẹ mà thấm sâu.
7 Con cò chế Lan
Viên
1962 tự do Từ hình tượng con cò trong những
lời hát ru, ngợi ca tình mẹ và ý
nghĩa của lời ru đối với đời sống
của mỗi con người.
Vận dụng sáng tạo
hình ảnh và giọng điệu
lời ru của ca dao.
8 Mùa
xuân
Thanh
Hải
1980 Năm
chữ
Cảm xúc trước mùa xuân của thiên

thiên và đất nước, thể hiện ước
Thề thơ năm chữ có
nhạc điệu trong sáng,
11
nho nhỏ nguyện chân thành góp mùa xuân
nhỏ của đời mình vào cuộc đời
chung.
tha thiết, gần với dân ca
; hỉnh ảnh đẹp giản dị,
những so sánh, ẩn dụ
sáng tạo.
9 Viếng
lăng Bác
Viễn
Phươn
g
1976 Tám
chữ
Lòng thành kính và niềm xúc động
sâu sắc của nhà thơ đối với Bác
Hồ trong một lần từ miền Nam ra
viếng lăng Bác.
Giọng điệu trang trọng
và tha thiết ; nhiều hình
ảnh ẩn dụ đẹp và gợi
cảm ; ngôn ngữ bình dị,
cô đúc.
1
0
Sang thu Hữu

Thỉnh
Sau
1975
Năm
chữ
Biến chuyển của thiên nhiên lúc
giao mùa từ hạ sang thu qua sự
cảm nhận tinh tế của nhà thơ.
Hình ảnh thiên nhiên
được gợi tả bằng nhiều
cảm giác tinh tế, ngôn
ngữ chính xác gợi cảm
1
1
Nói với
con
Y
Phương
Sau
1975
tự do Bằng lời trò chuyện với con, bài
thơ thể hiện sự gắn bó, niềm tự
hào về quê hương và đạo lí sống
của dân tộc.
cách nói giàu hình
ảnh,vừa cụ thể gợi cảm,
vừa gợi ý nghĩa sâu xa.
2- Hình thức sử dụng trò chơi:
Phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt động cho
học sinh. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi

trong đó mục đích của trò chơi nhằm chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách
chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp
tác và sự tự đánh giá.
a. Cách thức tổ chức:
Đối với việc sử dụng trò chơi thì cũng cần chú ý lựa chọn trò chơi phù hợp với từng nội
dung bài dạy và thời gian của tiết học. Có thể trò chơi “Giải ô chữ”, “Rung chuông vàng”,
“Tiếp sức”,…. GV cũng có thể tổ chức trò chơi “Rung chuông vàng” ở cuối tiết học bằng
cách phân chia lớp thành nhiều nhóm và và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để HS thảo
luận, nhóm nào trả lời đúng sẽ được điểm tối đa. Hoặc khi dạy các bài Tiếng Việt, có thể
tổ chức trò chơi “Tiếp sức”… Tuy nhiên, phải chú ý một điều là khi tổ chức các trò chơi,
GV cần lưu ý nêu trước thể lệ trò chơi và qui định thời gian cho HS biết để thực hiện. Và
12
đặc biệt phải chú ý kết hợp với các phương pháp khác để có hiệu quả cao trong tiết dạy.
Khi đưa ra câu hỏi trong trò chơi “Giải ô chữ”, GV cần chuẩn bị sẵn những câu hỏi gợi
mở để HS nhanh chóng tìm ra ô chữ, không để làm ảnh hưởng đến tiết học, và cuối cùng
HS sẽ tìm ra được từ khoá chính là nội dung bài học hoặc một phần của bài học.
b. Chuẩn bị của giáo viên:
+ Đọc, tìm hiểu nội dung bài học.
+ Xác định nội dung quan trọng nhất cần sử dụng trò chơi.
+ Sắp xếp các ô chữ trong bảng phụ, nếu dạy ứng dụng công nghệ thông tin chỉ
việc cài đặt chế độ trong máy, khi giảng dạy thực hiện từng bước với từng câu
hỏi.
+ Hướng dẫn thể lệ, cách thức thực hiện trò chơi.
c. Một số ví dụ minh hoạ:
- Ví dụ 1: Khi dạy bài Ôn tập truyện trung đại, để cho giờ học sôi nổi hơn, học
sinh không cảm thấy nhàm chán, gò bó, thì chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Rung
chuông vàng”.
GV chia lớp thành 4 đội, sau đó nêu thể lệ cách thức, quy định của trò chơi. Lần lượt nêu
các câu hỏi về các tác giả, năm sinh, quê quán, nội dung, nghệ thuật của các văn bản đã
học. Các nhóm trả lời, giáo viên lần lượt loại những học sinh trả lời sai. Cuối cùng còn lại

học sinh của nhóm nào trả lời đến câu hỏi cuối cùng thì nhóm đó được rung chuông vàng.
- Ví dụ 2: Khi dạy bài Tổng kết về từ vựng chúng ta có thể sử dụng trò chơi tiếp
sức.
Chia nhóm và công bố thể lệ, cách thức trò chơi. Mỗi nhóm chuẩn bị một nội dung của
bài học. Lần lượt gọi học sinh trong nhóm trả lời. Nhóm nào trả lời tiếp sức đúng thì đạt
điểm tối đa, nhóm nào không tiếp sức được đổi cho nhóm khác và bị điểm trừ. Phần Ôn
tập từ tượng thanh, tượng hình trong bài Tổng kết từ vựng, tổ chức thành trò chơi: Chia
lớp thành hai đội, một đội nêu khái niệm, một đội nêu ví dụ tưng ứng, sau đó đảo ngược
lại; đội nào nêu khái niệm không chính xác hoặc lấy ví dụ sai sẽ thua cuộc.
13
- Ví dụ 3: Bài Ôn tập phần thơ, phần Thống kê phân loại các tác phẩm thơ hiện
đại Việt Nam đã học trong SGK Ngữ văn 9, trên cơ sở HS đã chuẩn bị bảng thống kê theo
mẫu ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 89, GV cho HS chơi trò chơi “Chọn người uyên bác” :
+ GV ghi ra 11 phiếu (tương ứng với 11 tác giả, tác phẩm học trong chương trình), mỗi
phiếu hai dòng thơ của một tác phẩm thơ trữ tình. Photo mỗi phiếu đó tương ứng với số
người tham gia chơi (4 – 5 em).
+ Tiến hành: 5 người chơi ngồi trên ghế quay mặt xuống lớp. Trên bàn, trước mặt GV đặt
5 tờ phiếu (đã ghi cùng một câu thơ) gấp lại để giữ bí mật. Quản trò hô “bắt đầu”, 5 người
chơi mở tờ phiếu, xác định câu hỏi và giơ tay xin trả lời. Ai nhanh nhất sẽ được trả lời.
Trả lời đúng mỗi lượt sẽ được điểm tối đa, trả lời chưa đúng thì những người chơi còn lại
sẽ giơ tay xin bổ sung. Sau 11 lượt chơi, cộng ai nhiều điểm nhất được chọn làm “Người
uyên bác”.
Ví dụ 4: Hoặc tổ chức trò chơi “Giải ô chữ” để ôn tập một số kiến thức về văn
học trung đại mà HS đã học bằng một số câu hỏi gợi ý như sau:
+ Hàng 1 gồm 6 chữ cái: “Truyện Kiều” là loại truyện thơ viết bằng…(CHỮ NÔM)
+ Hàng 2 gồm 7 chữ cái: Nhân vật chính trong truyện “Chuyện người con gái Nam
Xương” (VŨ NƯƠNG).
+ Hàng 3 gồm 13 chữ cái: Tuỳ bút viết trong những ngày mưa (VŨ TRUNG TUỲ BÚT).
+ Hàng 4 gồm 6 chữ cái: Ngoài biện pháp ước lệ, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” còn sử
dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả chị em TK ?(ĐÒN BẨY)

+ Hàng 5 gồm 15 chữ cái: Một nhà thơ lớn của dân tộc sớm phải chịu cảnh mù loà ở tuổi
27 (NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU).
+ Hàng 6 gồm 6 chữ cái: Tác phâm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia văn phái
viết bằng chữ gì ? (CHỮ HÁN).
+ Hàng 7 gồm 8 chữ cái: Tác giả truyện “Chuyện người con gái nam Xương” (NGUYỄN
DỮ)
+ Hàng 8 gồm 14 chữ cái: Thể văn ghi chép những điều kì lạ vẫn được lưu truyền
(TRUYỀN KÌ ).
14
C H Ữ N Ô M
V Ũ N Ư Ơ N G
V Ũ T R U N G T Ù Y B Ú T
Đ Ò N B Ẩ Y
N G U Y Ễ N Đ Ì N H C H I Ể U
C H Ữ H Á N
N G U Y Ễ N D Ữ
T R U Y Ề N K Ì
- Từ chìa khoá là: Đây là một đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng các hình thức sử dụng trò chơi trong
dạy học văn. Trong chương trình ngữ văn THCS còn rất nhiều bài có thể áp dụng các hình
thức trên.
IV. KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.
Trên đây là một vài nhận biết và việc làm cụ thể của bản thân tôi trong việc thực hiện
theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy - học giúp học sinh hứng thú hơn trong giờ học
môn Ngữ văn ở trường THCS đặc biệt là các tiết tổng kết, ôn tạp. Qua tiết dạy có vận
dụng hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi, tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Tiết học trước đây trầm lắng, tẻ nhạt, chỉ có thầy hỏi trò trả lời thì bây giờ các em cảm
thấy thoải mái hơn, sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra các ý kiến của bản thân.
- Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia đối thoại, tranh
luận

- Các em cảm thấy hứng thú hơn, không uể oải trong giờ học .
- Các em rất thích thú với việc tổ chức trò chơi, hầu như tất cả học sinh đều muốn tham
gia vào cuộc chơi đó.
- Và đặc biệt, có những em học yếu cũng tích cực tham gia trò chơi . Khi HS đã tích cực
tham gia sôi nổi thì sẽ tránh được hiện tượng không chú ý khi thầy cô giảng bài.
- Tỉ lệ HS tích cực, hứng thú trong học văn so với điều tra, theo dõi ban đầu là vượt trên
60
0
/
0.

- Tỉ lệ HS khá giỏi về bộ môn tăng lên đáng kể
Có thể thấy qua bảng so sánh sau:
Khi chưa áp dụng(Năm học 2011-2012)
15

TIÊU CHÍ TỈ LỆ (%)
Hs yêu thích môn Ngữ văn
Hs không yêu thích môn Ngữ văn
Điểm TBM loại Giỏi
Điểm TBM loại Khá
Sau khi áp dụng(Năm học 2012-2013)

TIÊU CHÍ TỈ LỆ (%)
Hs yêu thích môn Ngữ văn
Hs không yêu thích môn Ngữ văn
Điểm TBM loại Giỏi
Điểm TBM loại Khá
V. PHẦN 2: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1) Kết luận:

Với hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học các tiết tổng kết, ôn
tập môn Ngữ văn 9 ở trường trung học cơ sở đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học,
HS đã có sự chuyển biến hơn, tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học
tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy – học. Các em không
còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn; hăng say phát
biểu, hiểu bài hơn. Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu nhất bởi vì cũng không
phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò chơi một cách hiệu quả. Chính
vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta cũng cần kết hợp rất nhiều các phương
pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình.
2) Kiến nghị:
Hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt kết quả
trong dạy học, còn hình thức sử dụng trò chơi khi giảng dạy môn Ngữ văn theo suy nghĩ
của bản thân tôi, đây là hình thức đang còn khá mới mẻ đối với mỗi giáo viên. Hơn nữa
đòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian, phương tiện nhất là về máy chiếu và máy tính
xách tay mà ở vùng kinh tế khó khăn, các trường học cũng không hoặc chưa thể đầu tư
16
được. Cá nhân GV với kinh tế hạn hẹp nên càng khó khăn hơn. Bản thân tôi, trong quá
trình giảng dạy cũng nhận thấy còn một số thiếu sót, hạn chế khi áp dụng các hình thức
trên.
Để kinh nghiệm này có tính khả thi cao, ngoài việc mỗi GV phải không ngừng trau
dồi chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, bản thân tôi cũng như các GV khác rất
mong được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà trường và ngành GD như đầu
tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn, sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham
khảo, nghiên cứu. Có thể trang bị cho các tổ, nhóm chuyên môn máy chiếu, máy tính xách
tay để việc giảng dạy thuận lợi hơn, nên tăng cường mở các hội nghị, chuyên đề trao đổi
về phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh .
Trên đây là một chút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản thân. Trong quá
trình thể nghiệm và viết lý thuyết những kinh nghiệm này không tránh khỏi thiếu sót, rất
mong được sự góp ý, chỉnh sửa của lãnh đạo nhà trường cũng như của các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.

×