Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Luận văn Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.03 KB, 108 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được chủ trương này đòi hỏi các
cấp chính quyền phải có đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn, năng
lực quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới.
Đối với chính quyền cơ sở, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ, năng lực thực thi công việc
của cán bộ công chức đáp ứng ngày càng cao yêu cầu công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các địa phương, hoàn thành thắng lợi mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xã, phường là đơn vị hành chính Nhà nước cấp cơ sở, hàng ngày tiếp xúc,
giải quyết công việc trực tiếp với công dân; trực tiếp tiếp nhận, chấp hành và thực
hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, công
tác quản lý hành chính Nhà nước ở cơ sở có chất lượng hay không bắt đầu từ đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân nhất, là
nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi” [29,
tr.169]. Vì vậy, để chính quyền cấp xã thực hiện và phát huy tốt vị trí và vai trò của
mình trong thực tiễn, điều này phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ CBCC xã, phường
như trong Nghị quyết Trung ương III (khóa VIII) đã từng khẳng định: “Cơ sở xã,
phường, thị trấn mạnh hay yếu là một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn… Họ chính là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành”. Để có thể làm
được những việc này, đội ngũ cán bộ công chức cấp xã cần có những hiểu biết nhất
định về pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp luật, kỹ năng xử lý và giải quyết tình


2



huống mới có thể giải quyết được công việc và biến cố xảy ra trong thực tiễn quản
lý hành chính cơ sở. Việc nâng cao chất lượng nguồn lực, nâng cao khả năng giải
quyết công việc, trình độ chuyên môn và thái độ, hành vi, tác phong trong tiếp xúc,
ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đối với nhân dân là nhiệm vụ thường
xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt, cũng như lâu dài trong điều kiện
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, mặc dù việc xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ
nói chung và cán bộ, công chức cấp xã, phường nói riêng trên địa bàn thị xã Hoàng
Mai đã được quan tâm; số lượng và chất lượng cán bộ ở cấp xã có trình độ về các
mặt nói chung đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ và xu thế phát triển của thị xã. Phần lớn cán bộ, công chức ở cấp xã,
phường không được quy hoạch, đào tạo bài bản; việc bố trí, sử dụng còn nhiều bất
cập. Đội ngũ cán bộ cấp xã làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, phương pháp
làm việc chưa khoa học; trình độ, phương pháp quản lý còn hạn chế điều đó đã ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức của nước ta nói chung và của
Thị xã Hoàng Mai nói riêng trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt
được đang còn có những hạn chế, thiếu sót cần phải tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh
bổ sung về đối tượng, chương trình, nội dung, chế độ chính sách, cơ sở vật chất kỹ
thuật, giảng viên, cả về cơ cấu đào tạo ở trong nước và nước ngoài; giải quyết mối
quan hệ giữa đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng... Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài:
“Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An" làm luận
văn thạc sĩ Kinh tế chính trị là xuất phát từ yêu cầu thực tế của công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức (ĐT, BDCBCC) và mong muốn góp thêm ý kiến vào
lĩnh vực công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


3


Việc nghiên cứu, khảo sát về đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được nhiều nhà khoa
học, nhiều cán bộ quản lý quan tâm nghiên cứu, như:
Nguyễn Đức Vân (2003), Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân. Luận văn của tác giả đề cập đến thực trạng của đội ngũ cán bộ quản lý,
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện đội ngũ cán bộ quản lý trong thời kỳ
CNH, HĐH hiện nay.
Phạm Thành Minh (2010), Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý tại văn
phòng Cục Đăng kiểm Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Kinh tế quốc
dân. Luận văn của tác giả đã phân tích, đánh giá đội ngũ công chức Việt Nam,
phân tích những nguyên nhân dẫn tới những hạn chế về năng lực đội ngũ công chức
Quản lý Nhà nước (QLNN) và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực đội
ngũ công chức QLNN, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH đất nước trong giai
đoạn hiện nay và trong những năm tới.
Phạm Thị Thanh Nhàn (2012), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp cơ sở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh”. Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, Học viện Chính trị Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh. Luận văn của tác giả đề cập đến thực trạng của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay.
Tống Tuấn Long (2012), “Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn cho cán
bộ Tài chính cấp xã tại tỉnh Hà Tĩnh”. Luận văn thạc sỹ kinh tế. Đại học Nông
nghiệp Hà Nội. Luận văn của tác giả đề cập đến chất lượng cán bộ Tài chính cấp cơ
sở, đưa ra những hạn chế hay gặp phải của đội ngũ cán bộ Tài chính hiện nay. Từ
đó đề xuất những giải pháp để nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát


4


triển kinh tế xã hội thời kỳ mới.
Vũ Thị Diệp (2012), “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã của tỉnh Hải Dương”. Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội. Luận văn của tác giả đề cập đến chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã của tỉnh Hải Dương, nêu được những thực trạng và nguyên nhân
dẫn đến sự yếu kém của đội ngũ Công chức về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cũng như các kỹ năng xử lý công việc. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ Công chức cấp xã trong tình hình hiện nay.
Lê Thị Lương (2015), Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã,
phường ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”. Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Vinh.
Tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường
trên địa bàn thành phố Vinh, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức xã, phường.
Nhưng nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An thì chưa có công trình nào nghiên cứu trùng với
đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An thời gian qua.


5


- Đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị
xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Chủ yếu ở phạm vi thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, có tham
khảo kinh nghiệm của một số địa phương khác.
- Thời gian: Từ năm 2013 đến 2015.
- Nội dung: Luận văn sẽ tập trung vào các nội dung đánh giá thực trạng công
tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, trình độ lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ sở
và đề ra các giải pháp về công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ
cấp xã trên địa bàn thị xã Hoàng Mai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận.
Luận văn dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Để làm rõ nội dung trong đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh đối chiếu
- Phương pháp điều tra, khảo sát
* Nguồn số liệu:
- Số liệu thứ cấp: Lấy số liệu từ các báo cáo tổng kết, đề án, các bài


6


báo, tạp chí, thống kê của các cơ quan Đảng và cơ quan quản lý nhà nước ở
trong nước, trong tỉnh Nghệ An, ở thị xã Hoàng Mai và một số địa phương khác.
- Số liệu sơ cấp: Từ kết quả điều tra khảo sát của tác giả
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cấp xã trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Đánh giá đúng thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã
Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An thời gian qua.
Đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
Kết quả của luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, bố trí cán bộ cấp xã ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
và cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị Thị xã.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cấp xã.
- Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã ở thị xã
Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã, ở thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, trong giai đoạn hiện nay.


7

B. NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP XÃ

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Cán bộ cấp xã
“Cán bộ” theo giải thích trong Từ điển Tiếng Việt là người làm công tác
nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước [22, tr.105]. Theo cách giải thích
này, người đọc có thể cho rằng cán bộ là “ người của nhà nước” và làm những công
việc cho Nhà nước. Còn những người làm trong các tổ chức khác thì không được
coi là cán bộ.
Theo điều 1 (Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003): Cán bộ, công
chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện). Những người được tuyển dụng,
bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Những người
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ
thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng


8

uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã).
Theo khoản 1, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức Việt Nam (2008) quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức

chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( gọi chung là
cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( gọi chung là cấp huyện),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khoản 3, điều 4, Luật cán bộ công chức năm 2008 nêu rõ: Cán bộ xã,
phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ cho
Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy,
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Điều 3, Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, quy định cán bộ cấp
xã có các chức vụ: Bí thư và Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND;
Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch MTTQ; Bí thư Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam; Chủ tịch Hội cựu chiến
binh, Chủ tịch Hội nông dân.
1.1.2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý phát
triển nguồn nhân lực của các cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng
và phát triển đội ngũ CBCC thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, trung thành với
Nhà nước và tận tuỵ với công việc phục vụ nhân dân. Quá trình ĐTBD bao giờ
cũng phải tiến hành trên cơ sở xác định nhu cầu ĐTBD của từng cơ quan, đơn vị,
từng vị trí công việc, đồng thời, phải dựa trên sự phân tích những “khoảng trống”
về năng lực thực hiện công việc của đội ngũ CBCC.


9

Đào tạo, theo định nghĩa chung nhất là quá trình tác động đến con người, làm
cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,... một cách có
hệ thống để họ có thể thích nghi với và khả năng nhận một sự phân công lao động
nhất định, đóng góp phần công sức của mình vào sự phát triển xã hội nói chung. Đó
là quá trình làm cho người ta trở thành có năng lực theo những tiêu chuẩn, đòi hỏi
nhất định, là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng mới. Thời gian đào tạo

tương đối dài (từ 1 năm học trở lên) và có bằng cấp, chứng chỉ.
Bồi dưỡng là quá trình tác động đến con người làm cho người đó “tăng thêm
năng lực hoặc phẩm chất”, là quá trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp một cách thường xuyên, là tăng cường năng lực nói chung
trên cơ sở kiến thức, kỹ năng đã được đào tạo. Bồi dưỡng đảm đương nhiệm vụ cập
nhật, trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng, thái độ cho công chức để họ thực
hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người ta “trở thành
người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, và bồi dưỡng được xác định là
quá trình làm cho người ta “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Việc tách bạch
khái niệm đào tạo và bồi dưỡng riêng rẽ chỉ để tiện cho việc phân tích điểm giống
và khác nhau giữa đào tạo và bồi dưỡng. Một định nghĩa chung cho đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ có thể được hiểu như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một
cách có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của
giáo dục, hướng dẫn, phát triển, và lĩnh hội kinh nghiệm theo một cách bài bản, có
kế hoạch. Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho cán
bộ học tập, rèn luyện nhằm giúp đối tượng đạt được mục tiêu của mình bằng việc
tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là
con người, là CBCC làm việc trong tổ chức.


10

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là quá trình tổ chức những cơ hội học tập cho họ
nhằm trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc để họ thực
hiện công việc được giao tốt hơn, hiệu quả hơn.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có thể hiểu là kết quả đầu ra của quá
trình ĐTBD và được thể hiện cụ thể ở kiến thức, kỹ năng, thái độ (phẩm chất, giá
trị nhân cách, trách nhiệm với công vụ) hay năng lực của cán bộ sau khi tốt nghiệp
khóa học tương ứng với mục tiêu, chương trình của từng khóa ĐTBD. Quan niệm

về chất lượng ĐTBD cán bộ không chỉ dừng ở kết quả quá trình đào bồi dưỡng mà
còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của học viên đã hoàn thành khóa
học với năng lực thực thi công vụ tại các vị trí làm việc cụ thể ở các cơ quan hành
chính nhà nước và khả năng phát triển của bản thân. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh
rằng chất lượng ĐTBD trước hết phải là của quá trình đào tạo và được thể hiện
trong hoạt động công vụ của người đã học xong chương trình của khóa đào tạo.
Quá trình thích ứng với môi trường làm việc, vị trí làm việc không chỉ phụ thuộc
vào chất lượng đào tạo mà còn phụ thuộc vào yếu tố khác như chế độ , chính sách,
quản lý, sử dụng và bố trí công việc của nhà nước và đơn vị, thủ trưởng cơ quan sử
dụng công chức.
1.2. Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với việc nâng cao chất
lượng cán bộ cấp xã
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước.
Người coi cán bộ như là “cái gốc” của mọi công việc, là cái “dây chuyền” của bộ
máy; nếu dây chuyền không tốt, không chạy, thì động cơ dù tốt, dù chạy thì toàn bộ


11

máy cũng bị tê liệt. Người chủ trương phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính nhà nước thông qua quy chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện,
quản lý sử dụng có hệ thống, bài bản, toàn diện và chuyên sâu. Đào tạo bồi dưỡng
cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của công tác cán bộ, là yêu cầu khách
quan trong xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng
đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, cơ cấu đồng bộ, chất lượng cao kết hợp với đào
tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo bồi dưỡng là yếu tố quan trọng trong công tác cán bộ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Người lãnh đạo muốn biết mình,
tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thật sự dân chủ, để mọi người xung
quanh mạnh dạn, thẳng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo
thật sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được thật sự tôn trọng, thì khối đoàn kết nội bộ
được củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn
thành tốt đẹp. Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với
nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng
kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác
cũng học theo. Càng dân chủ thì càng có nhiều sáng kiến. Sáng kiến chỉ ra đời khi
người đó tâm huyết, hăng hái làm việc trong một môi trường dân chủ” [5, tr.23].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm tốt
công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [5,
tr.506].
Theo Người, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và
có phương pháp khoa học. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng
công tác cán bộ và nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo nội dung tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Về phẩm chất đạo đức, tư cách cán bộ


12

Sinh thời, Người từng nói đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ. Cán
bộ phải suốt đời phấn đấu hi sinh cho lý tưởng của Đảng, phải đặt quyền lợi của
Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Người nói: Đảng không phải là một tổ
chức “làm quan phát tài”. Cán bộ cách mạng không phải là “làm quan cách mạng”,
“không phải để thăng quan tiến chức”. Không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ
dân chúng như thời thực dân, phong kiến”. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp
cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, phải hết lòng hết sức phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng gắng sức làm,

việc gì có hại cho dân, dù nhỏ cũng hết sức tránh. Người cán bộ phải có một đời tư
trong sáng, phải là tấm gương sáng trong cuộc sống.
Trong cuốn “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ “tư cách một người cách
mệnh” là: Tự mình phải: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa chữa lỗi
mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Hay nghiên cứu xem xét.
Vị công vô tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa
cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật”. [2, tr.260].
Về năng lực chuyên môn
Cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Cán bộ đảng viên phải luôn
luôn học tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt. Đặc biệt, nâng cao lý
luận, nâng cao khả năng tổng kết thực tiễn, phải mổ xẻ, xem xét, so sánh thật kỹ
càng thực tế nước ta với nước khác. Kinh nghiệm cho thấy rằng, không có được
khả năng tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn thì không thể có lý luận chân
chính. Việc nâng cao trình độ lý luận phụ thuộc vào trình độ tổng kết thực tiễn.
Muốn nâng cao trình độ lý luận thì phải học chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi vì phân
tích và tổng kết thực tiễn cũng phải dựa trên phương pháp biện chứng duy vật và
chủ nghĩa Mác - Lênin. Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập


13

lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong
công tác cách mạng của chúng ta.
Về phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan
trọng, thậm chí là “công việc gốc của Đảng”, phải được tiến hành thường xuyên.
Phải xác định rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với các yếu tố cơ bản: học
thức, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác (như các yêu cầu đối với

cán bộ nêu trên). Nhưng tùy từng giai đoạn cách mạng, tùy vào tình hình cụ thể mà
Người đặt ra mục đích, nhiệm vụ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Người nhấn mạnh: Học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải là để
có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Việc giảng dạy, học tập, đào
tạo, huấn luyện phải gắn liền với nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực
tế, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”, “lý luận cùng thực hành phải luôn
luôn đi liền với nhau”. Người cho rằng: cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mác
- Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ
thuật nghiệp vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ
trách ở ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó.
1.2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của
nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước là một vấn đề quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, là một yêu cầu cấp thiết đối với
công cuộc cải cách hành chính nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà
nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã
xác định: “Xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định
chất lượng của bộ máy nhà nước”. Đối với công tác ĐTBD, Nghị quyết đã xác định


14

rõ: CBCC nhà nước “cần phải được ĐTBD kiến thức toàn diện, trước hết về đường
lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội”.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của công tác ĐTBD
cán bộ trong việc thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH. Báo
cáo Chính trị của Đại hội xác định: “Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế,
chính sách phát hiện, tuyển chọn, ĐTBD cán bộ; trọng dụng những người có đức,
có tài. Nâng cao chất lượng công tác ĐTBD cán bộ, khắc phục tình trạng chạy theo
bằng cấp.”[tr. 14].

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 12/8/2011, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 1374/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn
2011-2015 với mục tiêu xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, vững vàng về
chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hiện đại.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng đã xác định mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang
tầm nhiệm vụ. Trong đó, đặt ra yêu cầu kịp thời phát hiện các nhân tố mới, có triển
vọng, bồi dưỡng và đào tạo hợp lý, không để lãng phí cán bộ, không để chảy máu
chất xám, sao cho ngày càng có nhiều cán bộ chiến lược tốt, cán bộ chiến lược giỏi,
trung thực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có bản lĩnh sáng tạo, đổi
mới, bứt phá để phát triển. Cải cách căn bản chính sách tiền lương, bảo đảm đãi
ngộ xứng đáng với cống hiến của mỗi người, tạo cơ hội, môi trường, điều kiện cho
cán bộ phát triển.
1.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác


15

định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [tr.14].
Đại hội xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá
chiến lược trong sự phát triển đất nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Đội ngũ

CBCC là lực lượng tinh túy của nguồn nhân lực quốc gia. Trình độ, năng lực, phẩm
chất của đội ngũ này có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển nhanh hay chậm,
bền vững hay không bền vững của đất nước. Như vậy, Đảng và Nhà nước đặt công
tác ĐTBD CBCC vào vị trí có tầm quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong sự
thành công của sự nghiệp đổi mới, của công cuộc cải cách hành chính nhà nước.
Mục tiêu của ĐTBD CBCC là nhằm tăng cường, củng cố kiến thức và năng lực
công tác cho đội ngũ CBCC có đủ trình độ, phẩm chất để thực hiện nghĩa vụ và bổn
phận của CBCC. Chú trọng đến yếu tố con người, đầu tư vào giáo dục - đào tạo có
vai trò quan trọng, là con đường dẫn đến thành công đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Con người là yếu tố cách mạng nhất, năng động và
quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Con người không phải là con người trừu
tượng, mà phải là con người có tri thức khoa học, có kinh nghiệm sản xuất và kỹ
năng lao động. Con người như thế không thể tự nhiên sinh ra, mà phải qua quá
trình ĐTBD, rèn luyện lâu dài mới có được.
Công tác đào tạo – bồi dưỡng CBCC là một vấn đề quan trọng của công tác
cán bộ. Vấn đề này đã, đang và sẽ tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm, nhất là
khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao thì nó càng trở nên cần thiết.


16

Như vậy, công tác xây dựng một đội ngũ CBCC năng động, nhạy bén, linh
hoạt, có khả năng thích nghi với môi trường làm việc trong thời kỳ CNH, HĐH,
khả năng giải quyết công việc hiệu quả, nhanh gọn, là yếu tố quan trọng, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã Hoàng Mai.
1.3. Nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã và các
yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã
1.3.1. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã
1.3.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị

Đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị nhằm thường xuyên xây dựng đội
ngũ CBCC có lập trường chính trị vững vàng, thái độ chính trị đúng đắn, phẩm
chất tư tưởng tốt. Nội dung đào tạo bồi đưỡng lý luận chính trị bao gồm:
+ Trang bị các kiến thức về lý luận chính trị theo tiêu chuẩn quy định cho
các chức danh cán bộ, ngạch công chức và chức danh lãnh đạo quản lý.
+ Tổ chức phổ biến các văn kiện, nghị quyết của Đảng; bồi dưỡng cập nhật,
nâng cao trình độ lý luận theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan
trọng của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, góp phần khắc phục suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức
cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo là những người kiên định lập trường tư
tưởng chính trị, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần
chúng, có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn. nhằm thực hiện tốt các chủ trương
về công tác cán bộ. Trên thực tế, cán bộ, đảng viên sau khi được bồi dưỡng lý luận
chính trị khi trở về với vị trí công tác của mình đã nâng cao nhận thức, quan điểm
lập trường, nhất là việc vận dụng có hiệu quả kiến thức đã học vào thực tiễn công


17

tác. Biết phân tích, đánh giá tình hình một cách đúng đắn, sát thực, vận dụng và cụ
thể hóa đối với công việc đảm nhận... Từ đó tạo nên sự chuyển biến trong lãnh đạo,
chỉ đạo cũng như tuyên truyền, giáo dục, vận động và tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở
cơ sở một cách hợp lý, hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội; xây dựng hệ
thống chính trị của Đảng ngày càng vững mạnh.
1.3.1.2. Đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về hành chính nhà nước và quản lý nhà nước
(QLNN) trong nền kinh tế thị trường nhằm xây dựng đội ngũ công chức vững

mạnh, tăng cường khả năng thích ứng của công chức trước yêu cầu của nhiệm vụ
mới, trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về kinh tế thị trường và vai trò của
Nhà nước trong cơ chế mới. Nội dung đào tạo bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
QLNN bao gồm:
+ Trang bị kiến thức, kỹ năng QLNN theo chương trình quy định cho công
chức các ngạch và theo chức vụ lãnh đạo, quản lý;
+ Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng QLNN chuyên ngành và tương ứng với các
vị trí làm việc theo chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm;
+ Bồi dưỡng văn hóa công sở;
Chương tŕnh đào tạo, bồi dưỡng gồm: bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới;
bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng cho cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính,
chuyên viên cao cấp; đào tạo trung cấp, đại học, sau đại học.
Cán bộ cấp xã có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định, triển khai và
tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước; quyết định sự thành công hay
thất bại của đường lối, chính sách do cơ quan, tổ chức vạch ra. Đội ngũ cán bộ trực
tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ chức; các
mục tiêu quốc gia; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông tin,...) giữa các
cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, đội ngũ cán


18

bộ, công chức phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về năng lực công tác, kỹ
năng nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân. Đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là
một nhiệm vụ quan trọng được xác định trong Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng được đội
ngũ cán bộ, công chức thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao
trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa

quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực
công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; hướng
tới mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn.
Đào tạo, bồi dưỡng tập trung trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện
công việc cho cán bộ, công chức, viên chức; trong đó, cung cấp những kiến thức, lý
luận cơ bản, trang bị kỹ năng, cách thức hoạt động thực thi công việc, giáo dục thái
độ thực hiện công việc thể hiện sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người cán
bộ, công chức, viên chức.
1.3.1.3. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
năng nghề nghiệp.
Nhằm cập nhật kiến thức về pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao
trình độ và năng lực thực thi công việc; xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, có năng
lực xây dựng, hoạch định, triển khai và tổ chức thực hiện các chính sách, quản lý
các chương trình, dự án có hiệu quả, đáp ứng các mục tiêu phát triển. Gồm có các
chương trình bồi dưỡng những chính sách pháp luật chung, bồi dưỡng và kiến
thức về pháp luật chuyên ngành; các chương trình bồi dưỡng cập nhật, kỹ năng
hoạt động, sơ cấp, trung cấp, đại học, sau đại học thuộc các lĩnh vực chuyên môn;
các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh công chức, ngạch công chức.


19

Hiện nay, CBCC cấp xã khi trước khi được bầu bổ nhiệm vào ngạch hoặc
chức danh nào đó, họ đã được đào tạo ở một trình độ nhất định. Vì vậy, cần nắm
chắc trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đã được đào tạo để lựa chọn
đối tượng đi đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
1.3.1.4. Đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học, hội nhập kinh tế quốc tế
và các kiến thức bổ trợ khác
Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung, của hệ thống hành chính
nói riêng được quyết định bởi phẩm chất năng lực và kết quả công tác của đội ngũ

CB,CC nhà nước. Đối với cán bộ, công chức cơ sở, phẩm chất của đội ngũ CB,CC
nói chung, và đối với đội ngũ cán bộ nói riêng, ngoài khả năng và tinh thần tự học
tập, lại phụ thuộc rất nhiều vào công tác ĐT,BD thường xuyên kiến thức và kỹ
năng thực hành cho họ. Trong điều kiện đội ngũ CB,CC nhà nước ở nước ta hiện
nay đa số đã được đào tạo trong thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
chưa được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn chức danh, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu
cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa để hội nhập với khu vực và quốc tế, đặc biệt
là trong điều kiện khoa học công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão, thâm
nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc ứng dụng những thành tựu
khoa học công nghệ tin học vào hiện đại hoá nền hành chính, công tác ĐT,BD
CB,CC trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu hội
nhập, cán bộ, công chức cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ khả năng
giao tiếp về ngoại ngữ và thành thạo về tin học để đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính và xu thế phát triển, hội nhập của thị xã.
Xác định mục tiêu đào tạo là việc xác định các kết quả cần đạt được của
chương trình đào tạo. Các mục tiêu phải nêu một cách rõ ràng và chính xác. Điều


20

này có nghĩa là mục tiêu chung của một chương trình đào tạo phải nêu được cả kết
quả thực hiện công việc và các tiêu chuẩn thực hiện.
Mục tiêu đào tạo của CBCC cấp xã là góp phần xây dựng đội ngũ CBCC
cấp xã chuyên nghiệp, vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ có đủ năng
lực xây dựng hệ thống chính trị, nhà nước pháp quyền XHCN tiên tiến, hiện đại.
1.3.2. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã
1.3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã tại các cơ sở đào tạo
trong nước và nước ngoài
Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế được mở rộng trên

nhiều lĩnh vực, việc kết hợp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã tại các cơ sở
đào tạo trong nước và nước ngoài cần phải được nghiên cứu, triển khai, đánh giá
một cách nghiêm túc, rút kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả.
Việc hợp tác đào tạo cán bộ công chức nói chung và các bộ cấp xã nói riêng
là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, với nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không
ít khó khăn; nhất là khó khăn về ngôn ngữ (tiếng Anh) và cao hơn là sự không đồng
nhất về chính trị, ý thức hệ... Để triển khai có hiệu quả nội dung này, Đảng và Nhà
nước ta cần xây dựng một chiến lược hợp tác đào tạo phù hợp với mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đảm bảo quy mô ngành nghề,
lĩnh vực đào tạo với từng nước. Đồng thời, tăng cường đầu tư kinh phí đào tạo,
khắc phục rào cản về ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho đội ngũ cán bộ, công
chức; trong đó, chú trọng tập trung bồi dưỡng tạo nguồn dài hạn thông qua quy
hoạch vào lực lượng mũi nhọn là cán bộ trẻ. Kết hợp bồi dưỡng ngoại ngữ với bồi
dưỡng về trình độ lý luận chính trị, cũng như hiểu biết về truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán các nước mà cán bộ ta đến học.
Ngoài ra, cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng cho đội ngũ cán bộ
được cử đi học về ý thức, trách nhiệm trong việc học tập, nâng cao trình độ về mọi


21

mặt; xác định học tập ở nước ngoài là một nhiệm vụ nặng nề nhưng vinh dự, vì
được Đảng, Nhà nước tin cậy giao cho. Từ đó xây dựng động cơ học tập đúng đắn,
tập trung tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật, cách thức quản lý của nước bạn để về
ứng dụng trong thực tế. Đồng thời, đánh giá khách quan kết quả, chất lượng học tập
của cán bộ ở nước ngoài để có hướng sử dụng đúng với thực chất trình độ, năng lực
và kết quả đào tạo. Căn cứ vào từng ngành, nghề đào tạo để bố trí, sắp xếp cán bộ
hợp lý sau khi kết thúc khóa học. Có thể nói, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở
trong nước và ở nước ngoài là bộ phận không thể thiếu của công tác đào tạo cán bộ,
nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay.

1.3.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng trong thực tiễn
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời gian qua vẫn còn có những
hạn chế cần được quan tâm như việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở một số nơi chưa
đồng bộ giữa số lượng, chất lượng và cơ cấu chưa sát với quy hoạch, chưa gắn với
nhu cầu sử dụng cán bộ của cơ quan, đơn vị; trong đào tạo còn nặng nề về lý
thuyết, kiến thức thực tiễn chưa nhiều, nhất là kiến thức quản lý chuyên ngành, lĩnh
vực, các kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng hành chính, thái độ ứng xử, làm việc.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của một bộ phận cán bộ, nhất là cơ
sở vẫn còn gặp khó khăn, hạn chế, nhất là năng lực triển khai thực hiện nhiệm vụ
cụ thể; khả năng tập hợp, vận động quần chúng chưa đáp ứng được yêu cầu; kỹ
năng thực hành, xử lý tình huống ở một số đồng chí còn yếu…
Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã cần quan tâm gắn
giữa đào tạo lý luận và nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, quan tâm cải tiến nội dung
chương trình giảng dạy theo hướng thiết thực hơn, trong đó chú trọng bám sát yêu
cầu của thực tiễn đặt ra để trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết với phương
châm “học đi đôi với hành” phát huy năng lực tư duy, vận dụng sáng tạo những
kiến thức lý luận để giải quyết các vấn đề của thực tiễn đời sống đặt ra.


22

Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ, đưa cán bộ, nhất là cán bộ trẻ đi thực
tế ở cơ sở, địa phương để bồi dưỡng, rèn luyện. Đây là cách làm đem lại hiệu quả
cao, là phương pháp hữu hiệu để giáo dục, rèn luyện cán bộ. Thực tế thời gian qua,
Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác luân chuyển, đưa cán bộ, đảng
viên đi thực tế tại địa phương, cơ sở, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp trung ương
đến cán bộ ở các địa phương. Nhiều cán bộ ở Trung ương được luân chuyển về địa
phương và ngược lại, nhiều cán bộ địa phương được luân chuyển lên Trung ương.
Nhiều ban, bộ, ngành, các tỉnh, thành ủy cho đến cấp huyện đều thực hiện chủ
trương luân chuyển, đưa cán bộ đi thực tế cơ sở. Mặc dù quá trình luân chuyển cán

bộ, đưa đi thực tế tại cơ sở còn có nhiều ý kiến khác nhau và không phải ai, cán bộ
nào đi luân chuyển, thực tế cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên, cái được vẫn
nhiều hơn. Trong quá trình luân chuyển, cán bộ được trải nghiệm, rèn luyện thực tế.
Từ quá trình này, chúng ta đã phát hiện, đào tạo được nhiều cán bộ tốt cho Đảng.
Do vậy, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng
viên, gắn lý thuyết với thực tế, cần đẩy mạnh thực hiện chủ trương luân chuyển,
đưa cán bộ đi thực tế, làm việc tại cơ sở, địa phương.
Ngoài ra, việc đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên cơ sở quy hoạch, phải xác
định rõ nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của từng bộ phận, từng chức danh để tiến hành
các loại hình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Tăng cường các loại hình bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức, kĩ năng cho từng chức danh, từng loại hình cán bộ định kỳ hàng
năm. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ, công chức; chú ý bồi dưỡng kiến thức kỹ năng nghiệp vụ và
kinh nghiệm giải quyết tình huống cụ thể. Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học viên; tăng cường các hoạt động hội thảo, trao đổi kinh nghiệm, chọn mô
hình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở cơ sở.


23

1.3.2.3. Tự đào tạo để nâng cao trình độ và năng lực thực thi công việc
Tự đào tạo để nâng cao trình độ, kinh nghiệm và năng lực thực thi công vụ.
Tự đào tạo, bồi dưỡng có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hoạt động của
mỗi CBCC. Đây là quá trình cán bộ, công chức tự nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi,
đúc rút kinh nghiệm qua thực tế công việc để nhận thức, năng cao trình độ và năng
lực thực thi công việc của mình.
Có thể nói, quá trình tự đào tạo để nâng cao trình độ và năng lực công việc
là hình thức đào tạo quan trọng trong thời đại công nghệ số, sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Hiện

nay, xu thế phát triển của xã hội, nhiều chủ trương, chính sách của đảng và nhà
nước đã và đang được bổ sung, thay đổi, nhiều kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ
cần phải được cán bộ công chức cập nhật mới, hay xử lý các tình huống, công việc
cụ thể. Vì vậy, trong suốt quá trình tham gia công tác của mỗi CBCC cấp xã, đòi
hỏi mỗi cán bộ, công chức cấp xã phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ
quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, để giải quyết công việc hiệu quả, nếu không sẽ bị
tụt hậu, không đáp ứng yêu cầu công việc.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã
1.3.3.1. Nhiệm vụ, công vụ được giao, điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ
cấp xã
Hoạt động đào tạo CBCC cấp xã chịu ảnh hưởng bởi những yêu cầu của
ngành, địa phương. Tuy nhiên, mỗi ngành, mỗi địa phương lại có những yêu cầu,
đòi hỏi khác nhau đối với các đào tạo. Ở những địa phương mà trình độ CBCC
còn yếu, chưa đạt chuẩn theo các quy định của Nhà nước thì nhu cầu đào tạo cao.
Ở các ngành, các địa phương trình độ CBCC đã đạt chuẩn thì yêu cầu đào tạo bồi
dưỡng thấp hơn, chủ yếu là các hoạt động đào tạo mang tính nâng cao và chuyên


24

sâu. Vì vậy, yêu cầu của các ngành, các địa phương cũng là yếu tố tác động tới
đào tạo bồi dưỡng CBCC cấp xã.
1.3.3.2. Môi trường xã hội, điều kiện cơ sở vật chất
Những nguồn lực dành cho đào tạo bồi dưỡng CBCC cấp xã bao gồm: các
thể chế, chính sách của Đảng và Nhà nước; kinh phí; điều kiện về cơ sở vật chất...
Chế độ, chính sách đào tạo CBCC cấp xã là tổng thể các quan điểm, các
nguyên tắc và các quy định thể hiện trong các văn bản của Đảng, Nhà nước nhằm
điều chỉnh hoạt động đào tạo bồi dưỡng CBCC, những quyền lợi và nghĩa vụ của
CBCC khi tham gia đào tạo bồi dưỡng, phù hợp với hoàn cảnh khách quan và
những mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong mỗi thời kỳ lịch sử. Chính sách của

Đảng và Nhà nước, là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động đào tạo bồi
dưỡng CBCC. Các chính sách ưu tiên, động viên, khuyến khích sẽ thúc đẩy các
hoạt động đào tạo bồi dưỡng. Do đó, cũng thúc đẩy CBCC cấp xã tích cực tham
gia học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác.
Ngoài ra còn một số các chính sách mang tính chất bắt buộc phải tham gia các
chương trình đào tạo bồi dưỡng theo quy định. Trong Luật CBCC đã quy định:
CBCC phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ
và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao. Chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về đào tạo CBCC còn quy định về việc phải tham
gia các chương trình bồi dưỡng định kỳ hằng năm. Do đó, bắt buộc các cơ quan,
các địa phương phải tổ chức đào tạo bồi dưỡng và CBCC phải tham gia.
- Các chính sách hỗ trợ của cơ quan, đoàn thể đối với CBCC cấp xã tham

gia học tập, bồi dưỡng. Chúng ta đều biết con người với tư cách là một sinh vật
cao cấp có ý thức; mọi hoạt động đều có mục đích và bao giờ cũng có một động
lực tương ứng nhằm thúc đẩy hoạt động để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần.
Vì vậy, thường xuyên chăm lo tới lợi ích vật chất (hỗ trợ tiền ăn ở, tiền đi lại, tiền


25

học phí...) và lợi ích tinh thần (biểu dương, khen thưởng khi đạt được kết quả cao
trong quá trình học tập...), có chính sách đãi ngộ phù hợp.
- Nguồn ngân sách dành cho đào tạo, bồi dưỡng:

+ Ngân sách Nhà nước cấp: Nguồn ngân sách cấp trước đây thực hiện theo
Thông tư 79/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính. Từ năm 2010, việc quản lý và sử
dụng kinh phí đào tạo bồi dưỡng được thực hiện theo Thông tư 139/2010/TT-BTC
theo đó việc cấp ngân sách không tính theo định suất mà cấp theo khối lượng, kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng. Ở Nghệ An, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được

thực hiện theo Quyết định 51 QĐ - UBND ngày 13 tháng 9 năm 2013 của UBND
tỉnh Nghệ An.
+ Nguồn đóng góp của học viên: Thông thường ngân sách Nhà nước cấp chỉ
đủ trang trải những hoạt động chính của quá trình đào tạo, vì vậy để đảm bảo
nguồn tài chính cho đào tạo, các cơ sở đào tạo (là những đơn vị sự nghiệp công
tự chủ 1 phần tài chính) được phép thu thêm 1 khoản đóng góp của học viên.
+ Nguồn hỗ trợ của các chương trình, dự án: Các chương trình, dự án (nhất
là dự án nước ngoài) thường bao gồm hợp phần (tiểu hợp phần) đào tạo và theo đó
có một khoản kinh phí được chi cho đào tạo. Khoản kinh phí này sẽ do dự án chi
nếu dự án tự tổ chức các chương trình đào tạo, hoặc chuyển cho cơ sở đào tạo nếu
hợp phần đào tạo hợp đồng với các trường để thực hiện.
Điều kiện cơ sở vật chất (trường, lớp) là yếu tố cần thiết có tác động tích
cực hoặc hạn chế tới đào tạo CBCC. Cơ sở vật chất tốt là điều kiện thuận lợi cho
đào tạo, bồi dưỡng và ngược lại nếu trường, lớp không tốt, hoặc không có thì hạn
chế rất lớn đối với các hoạt động đào tạo. Thậm chí có thể không thực hiện được
các hoạt động đào tạo bồi dưỡng.
1.3.3.3. Vai trò đội ngũ giảng viên trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
cấp xã


×