Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

X c nh gi tr doanh nghi p Nh n c trong c ph n h a C ng ty c ph n D ng c c kh xu t kh u

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 75 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất
cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng
góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu
xin quý khách gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ
khí xuất khẩu

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương được đề ra từ đầu những năm 90,
tính đến nay, quá trình cổ phần hóa đã thực hiện được trên 10 năm. Trong hơn 10 năm thực
hiện cổ phần hóa, vấn đề được nhắc đến nhiều nhất và cũng gặp nhiều vướng mắc nhất là
xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa.
Đây là một vấn đề còn khá mới mẻ ở nước ta và là điểm mấu chốt để tiến hành cổ phần hóa
thành công. Chính vì vậy, tất cả các đối tượng tham gia cổ phần hóa phải được trang bị
kiến thức cơ bản về định giá doanh nghiệp, không chỉ có vậy, còn cần một hệ thống các
phương pháp định giá hoàn chỉnh, trong một quy trình định giá chặt chẽ.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tại Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu,
cùng với sự giúp đỡ tận tình của thày giáo PGS-TS Nguyễn Thành Độ và cơ quan thực tập,
tôi xin chọn đề tài luận văn tốt nghiệp:
“Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua trường hợp
Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu”.
Nội dung của luận văn gồm 3 phần:
- Phần I: Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa.
- Phần II: Xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong cổ phần hóa ở Công ty cổ phần
Dụng cụ cơ khí xuất khẩu.
- Phần III: Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua thực
tế Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu.


Mục đích của luận văn:
- Nghiên cứu về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa và cách thức tổ chức
thực hiện.
- Tìm hiểu thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nói chung và xác định giá trị doanh
nghiệp trong cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu nói riêng.
- Trên cơ sở đó, rút ra một số kinh nghiệm, đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do khuôn khổ luận văn cũng như những hạn chế của
người viết nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Vậy tác giả luận văn rất nhận mong
được sự đóng góp ý kiến của các thày giáo, cô giáo, của cơ quan thực tập và của các bạn để
luận văn được hoàn thiện hơn.
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC CỔ PHẦN HÓA
I- TỔNG QUAN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CỔ PHẦN HÓA
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
1. Khái niệm, thực chất và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt Nam.
1.1. Khái niệm và thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về cổ phần hóa do các nhà nghiên cứu xem xét nội dung
cổ phần hóa trên những góc độ khác nhau. Xin đưa ra một số khái niệm được dùng trong
các bài viết của một số tác giả về cổ phần hóa để cùng xem xét và đưa ra một khái niệm
chính xác nhất.
Trong bài viết "Khía cạnh kinh tế-chính trị của vấn đề cổ phần hóa" trên tạp chí những vấn
đề kinh tế thế giới tháng 2/1993, ông Bùi Tất Thắng - Viện Kinh tế học đã đưa ra định
nghĩa: Cổ phần hóa là sự thay đổi hình thức xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng kinh tế
Nhà nước sang công ty cổ phần. Định nghĩa này dựa trên quan điểm cho rằng kinh tế Nhà

nước là một xã hội hóa của lực lượng sản xuất.
Trong sách "Hỏi và đáp về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam", tác giả
Hoàng Công Thi cho rằng: Cổ phần hóa là chuyển sở hữu tài sản và lĩnh vực mà lâu nay
Nhà nước nắm giữ vào tay các thành phần kinh tế, trong đó có thành phần tư nhân và thành
phần quốc doanh. Quan điểm chủ đạo thể hiện trong khái niệm này là trong một nền kinh
tế luôn có nhiều thành phần kinh tế cùng hoạt động.
Theo tác giả Nguyễn Thiết - Viện kinh tế thế giới, Cổ phần hóa là quá trình chuyển sở hữu
Nhà nước thành sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp Nhà nước-tư nhân.
Như vậy có thể thấy việc đưa ra một định nghĩa chính xác về cổ phần hóa là rất khó khăn.
Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm tương đối bao trùm:
Cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu thành doanh nghiệp
nhiều chủ sở hữu.
Từ đây có thể phát biểu khái niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp như sau:
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà
nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần.
Từ các khái niệm về cổ phần hóa và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cùng với thực
tiễn cổ phần hóa trong thời gian qua, có thể nhận thấy thực chất của quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam là quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu doanh
nghiệp, trong đó doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng chủ công, kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Ngoài ra, có thể thấy một số đặc điểm của cổ phần hóa ở nước ta, đó là:
Thứ nhất, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp Nhà
nước sang công ty cổ phần.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Một doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành một công ty cổ phần, chịu sự
điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Công ty cổ phần này sẽ có những đặc điểm chính sau:
- Trách nhiêm vật chất của từng thành viên (cổ đông) là rất rõ ràng, có sự phân phối theo tỷ
lệ góp vốn của mỗi thành viên.
- Quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách bạch rõ ràng, không bị sự can thiệp trực

tiếp có tính chất hành chính của chính quyền các cấp, các địa phương vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty.
- Do khắc phục được tính "vô chủ", vô trách nhiệm, phân phối theo lối bình quan... nên
hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, thu nhập của người lao động theo đó cũng
tăng lên.
- Cơ chế quản lý của công ty cổ phần (đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính) vừa thông
thoáng, vừa rõ ràng theo luật định sẽ giảm bớt rất nhiều sự trói buộc đối với doanh nghiệp
và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nâng cao rất nhiều.
Thứ hai, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là Nhà nước
sang nhiều chủ sở hữu.
Trước khi cổ phần hóa, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp Nhà nước thuộc một chủ sở hữu
là Nhà nước và doanh nghiệp chỉ là người quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước để sản xuất
kinh doanh thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Khi cổ phần hóa, các
cổ đông sẽ trở thành chủ sở hữu một phần doanh nghiệp theo tỷ lệ vốn góp của mình, tức là
doanh nghiệp sẽ trở thành đa sở hữu. Các thành phần sở hữu của doanh nghiệp khi đó có
thể là thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản Nhà
nước.
Thứ ba, cổ phần hóa là biện pháp duy trì và nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà
nước.
Chúng ta chủ trương cổ phần hóa nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đều
cổ phần hóa mà Nhà nước chủ trương giữ lại một số doanh nghiệp, là các doanh nghiệp
hoạt động công ích, các doanh nghiệp mà Nhà nước độc quyền kinh doanh. Cùng với một
số biện pháp đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước khác (giao bán khoán, cho
thuê...), cổ phần hóa là một biện pháp để giảm bớt, loại bỏ dần các doanh nghiệp làm ăn
yếu kém, không có hiệu quả. Giảm bớt không có nghĩa là làm giảm vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế Nhà nước mà ngược lại bởi vì khi đó quy mô của các doanh nghiệp Nhà
nước còn lại (tập trung vào các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh
nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng) sẽ tăng lên, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng
lên làm cho kinh tế Nhà nước thực sự giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Có một vấn đề cần làm rõ trong quá trình cổ phần hóa là cổ phần hóa có đồng nhất với tư

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhân hóa hay không? Theo quan điểm cá nhân thì cổ phần hóa và tư nhân hóa không phải
là một, bởi vì về thực chất, cổ phần hóa và tư nhân hóa có sự khác biệt: cổ phần hóa là
chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, trong đó có thể
vẫn tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước với tư cách là đồng sở hữu; còn tư nhân hóa là
chuyển toàn bộ quyền sở hữu cho khu vực tư nhân nắm giữ. Điểm mấu chốt để phân định
giữa cổ phần hóa và tư nhân hóa chính là mức độ cổ phần hóa một doanh nghiệp Nhà
nước:
- Thứ nhất, nếu khi cổ phần hóa, Nhà nước vẫn nắm giữ một số cổ phần nhất định thì cổ
phần hóa hoàn toàn không phải là tư nhân hóa.
- Thứ hai, nếu Nhà nước bán toàn bộ cổ phần cho các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp,
tức là quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước sang cá nhân hoặc các
chủ thể kinh tế khác thì cổ phần hóa là tư nhân hóa.
Như vậy có thể thấy: cổ phần hóa hẹp hơn tư nhân hóa và cổ phần hóa chắc chắn không thể
đồng nhất với tư nhân hóa.
1.2. Sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta là một tất yếu khách quan xuất phát từ các
nguyên nhân sau:
1.2.1. Vai trò và thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước.
Trên thế giới, không có nước nào xóa bỏ hoàn toàn khu vực kinh tế Nhà nước và vai trò
của khu vực này được xác định và thay đổi tùy theo thể chế chính trị, trình độ phát triển và
mục tiêu của nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ nhất định. Ở nước ta, thành phần kinh
tế Nhà nước mà đại diện là các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vô cùng quan
trọng, được coi như mạch máu của nền kinh tế, có tác dụng định hướng, mở đường, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Mặc dù vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước là rất quan trọng nhưng trong một thời
gian dài, hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chưa thực sự tương ứng với vai
trò của mình. Trong khu vực kinh tế Nhà nước vẫn tồn tai 3 mâu thuẫn lớn, rất gay gắt cần
phải giải quyết để đưa các doanh nghiệp Nhà nước về đúng vị trí xứng đáng của mình.

Một là, mâu thuẫn giữa việc phải mở rộng hơn nữa quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho
doanh nghiệp với việc vẫn chưa xác định được "ông chủ" đích thực, cụ thể của doanh
nghiệp Nhà nước là ai.
Tính chất "vô chủ" này đã dẫn đến những tác hại nghiêm trọng như:
- Quyền hạn không tương xứng với trách nhiệm và thiếu rõ ràng. Giám đóc có quyền hạn
rất lớn nhưng không quy định cụ thể trách nhiệm của người đứnh đầu doanh nghiệp như
thế nào (đặc biệt là trách nhiệm vật chất) khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tài sản Nhà nước bị thất thoát.
- Quyền sở hữu và hành chính với quyền sử dụng và kinh doanh của doanh nghiệp không
được tách bạch rõ ràng. điều này dẫn đến tình trạng giám đốc vừa là người đại diện duy
nhất của một pháp nhân trong sản xuất kinh doanh, lại vừa là "thủ trưởng" của một đơn vị
hành chính, nên không thể có điều kiện để chuyên lo nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, mag thường phải nghĩ để đối phó, "ăn ở" như thế nào cho vừa lòng cấp trên để tồn
tại. Còn nhiều cấp trên doanh nghiệp thì luôn luôn có quyền can thiệp, chỉ bảo doanh
nghiệp song lại không có trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp.
- Nhiều doanh nghiệp lưọi dụng tình trạng "vô chủ" và quyền hạn và trách nhiệm không rõ
ràng đó để đục khoét của Nhà nước, thu lợi cá nhân.
Hai là, mâu thuẫn giữa việc Nhà nước đang thiếu vốn trầm trọng với việc các doanh nghiệp
Nhà nước chỉ trông chờ vào vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước, trong khi đó, vốn trong
khu vực kinh tế Nhà nước thì ứ đọng rất lớn, sử dụng vô cùng lãng phí, hiệu quả thấp, thất
thoát nghiêm trọng.
Theo số liệu thống kê của Bộ tài chính, tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà
nước là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng, chỉ tương với vốn
của một doanh nghiệp loại nhỏ của các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonexia,
Malayxia. Đến nay vẫn còn 46,1% số doanh nghiệp Nhà nước có số lao động dưới 100
người, 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa có vốn
dưới 500 triệu đồng. Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chỉ bằng 80% vốn
hiện có do kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát kém phẩm chất, hàng hóa

sản xuất ra không tiêu thụ được...Riêng vốn lưu động có 14.239 tỷ đồng và chỉ có 50% là
được huy đô.ng vào sản xuất kinh doanh, 50% còn lại thì ứ đọng, không thể giải ngân.
Như vậy có thể thấy rằng trong khu vực kinh tế Nhà nước xảy ra tình trạng vừa thiếu vốn
vừa thừa vốn, đó là một nghịch lý cần được giải quyết kịp thời, càng sớm càng tốt.
Ba là, mâu thuẫn giữa vai trò chủ đạo và đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước với việc
làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, chứa đựng nhiều vấn đề tiêu cực.
Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, mặt khác, ngân
sách Nhà nước và nền tài chính quốc gia vẫn dựa vào nguồn thu từ kinh tế Nhà nước là
chính. Trong khi đó, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước lại
không cao. Cụ thể, ở thời điểm 1/6/1995 chỉ có 47,6% hoạt động có lãi ở mức dưới 8%,
khoảng 30% các doanh nghiệp lãi trên 8%, số doanh nghiệp thua lỗ chiếm 11%, bình quân
mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ đồng mỗi năm, 12% doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, không
lỗ cũng không lãi.
Từ thực trạng đó, có thể rút ra 2 kết luận quan trọng:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Thứ nhất, nếu tiếp tục duy trì thành phần kinh tế Nhà nước như hiện tại thì sẽ có lúc ngân
sách Nhà nước, nền tài chính quốc gia sẽ sụp đổ và chế độ chính trị cũng khó đứng vững
(thực tế ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh điều đó).
- Thứ hai, nếu nóng vội, chủ quan xóa bỏ toàn bộ thành phần kinh tế này, tức là xóa bỏ
hoàn toàn các doanh nghiệp Nhà nước thì cũng sẽ đem lại những hậu quả tương tự như
trên.
Tóm lại, cả hai cách xử lý như trên đều không khả thi mà chỉ có câu trả lời duy nhất là tiến
hành cải cách khu vực kinh tế Nhà nước vốn đang còn nhiều tồn tại để nó trở nên vững
mạnh, xứng đáng với vị thế và vai trò đáng có của nó. Một trong những biện pháp cải tạo
này là thực hiện cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước.
1.2.2. Tác dụng của cổ phần hóa.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Khi
xác định chủ trương cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước đã định ra các mục tiêu cần phải đạt
được. Nghị định 44-CP ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty

cổ phần đã ghi rõ: Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục
tiêu sau:
1. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh
nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
2. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp
vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao
động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Các mục tiêu được đặt ra mang tính khả thi cao do cổ phần hóa có tác dụng rất lớn:
- Cổ phần hóa tạo ra sự đan xen quyền sở hữu của Nhà nước, của người lao động trong
doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau.
- Giúp thực hiện dân chủ hóa và xã hội hóa trong hoạt động kinh tế, thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần - một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới.
- Cho phép duy trì các quan hệ kinh tế đã có, đồng thời cho phép thu hút thêm các nguồn
vốn trong và ngoài nước với các hình thức đầu tư khác nhau (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián
tiếp), thông qua các "kênh" khác nhau.
- Cổ phần hóa sẽ chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nên nâng cao khả
năng huy động vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp; xác lập và nâng cao quyền làm chủ
thực sự của doanh nghiệp và người lao động; góp phần chống tiêu cực, lãng phí, thiếu trách
nhiệm trong hoạt động của doanh nghiệp; tạo điều kiện để Nhà nước tập trung nguồn lực
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />vào các lĩnh vực chủ yếu, xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước chủ lực đủ sức chủ đạo,
điều khiển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với những tác dụng rất to lớn như vậy, cổ phần hóa đã trở thành một giải pháp cơ bản của
quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước và là một tất yếu khách quan.
2. Khái niệm giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần
hóa.

2.1. Giá trị doanh nghiệp.
Theo C.Mác, hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Doanh nghiệp cũng có giá trị và giá trị
sử dụng, vì doanh nghiệp trong bất kỳ nền kinh tế nào, thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào
khi đem bán dưới hình thức nào cũng được xem như hàng hóa. Nhưng doanh nghiệp có
một đặc điểm cơ bản: đây là hàng hóa đơn chiếc, cá biệt, không một doanh nghiệp nào
giống một doanh nghiệp nào, vì thế giá trị của nó cũng là giá trị cá biệt của một hàng hóa
cá biệt.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, là một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố có liên hệ
mật thiết với nhau. Hoạt động của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều mối liên hệ bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả những cái đó trong một thể thống nhất tạo nên giá
trị doanh nghiệp.
Để có thể đưa ra khái niệm giá trị doanh nghiệp một cách chính xác, khi nghiên cứu cần
chú ý tới các đặc điểm của doanh nghiệp và phải trên cơ sở một phương pháp luận đúng
đắn, được xác lập trên các căn cứ căn cứ khoa học và thực tiễn..
Nghị định 44/1998/CP-NĐ ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công
ty cổ phần có quy định:
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời
điểm cổ phần hóa mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được.
Tuy nhiên, để có thể hiểu khái niệm này cần phải tiếp cận giá trị doanh nghiệp dưới những
góc độ cụ thể.
2.1.1. Giá trị thanh lý.
Tài sản là một trong những yếu tố cấu thành doanh nghiệp. Khi xem xét như một tập hợp
các tài sản thì giá trị thành lý của doanh nghiệp sẽ được ước lượng bằng số tiền thu được từ
việc bán tài sản-các khoản nợ. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động, giá trị thanh lý
thường nhỏ hơn giá trị thực của doanh nghiệp, bởi vì giá trị doanh nghiệp còn phụ thuộc
yếu tố tổ chức của doanh nghiệp. Nói cách khác, tổng giá trị của tài sản riêng sẽ thường
nhỏ hơn giá trị của tất cả các tài sản được kết hợp theo một cách tổ chức hiệu quả. Giá
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thanh lý thường có vai trò quan trọng trong mặc cả giá - nó đai diện cho giá khởi điểm –

mức giá tối thiểu mà người bán sẵn sàng chấp nhận bán tài sản được đấu giá. Vì vậy, chủ
doanh nghiệp sẽ không bán doanh nghiệp của mình với giá thấp hơn giá trị thanh lý.
2.2.2. Giá trị kiểm kê.
Hoạt động kiểm kê của doanh nghiệp gồm có việc nêu đích danh, đếm số và đánh giá toàn
bộ các tài sản của doanh nghiệp, một mặt để xác định các giá trị kế toán là đúng, mặt khác
để đánh giá lại giá trị tài sản thực tế. Giá trị kiểm kê được gọi là giá trị tài sản có ròng đã
được đánh giá lại. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có một số nhược điểm:
- Một là, các tính toán đều dựa trên giá ban đầu của tài sản được thực hiện trên sổ sách kế
toán của doanh nghiệp. Mặc dù có sự điều chỉnh các giá trị sổ sách theo giá thị trường
nhưng cá giá trị mới này vẫn mang tính chủ quan cao.
- Hai là, phương pháp tính khấu hao. Vì có nhiều cách phân bổ chi phí khấu hao được sử
dụng nên có thể có tình trạng hai doanh nghiệp cùng hoạt động tai cùng một thời điểm với
những tài sản giống hệt nhau nhưng giá trị ròng của hai doanh nghiệp lại khác nhau.
- Ba là, giá trị kiểm kê không đề cập đến giá trị thực của doanh nghiệp, một giá trị được
đánh giá dựa trên giá trị sử dụng của nó.
Vì vậy cũng chỉ nên lấy giá trị kiểm kê để làm cơ sở cho giá trị thực tế cũng như giá bán
của doanh nghiệp.
2.2.3. Giá trị tài chính.
Giá trị kiểm kê của doanh nghiệp chỉ tương ứng với giá trị doanh nghiệp tại một thời điểm
nhất định. Nó không tính đến điều kiện đã hình thành nên tài sản của doanh nghiệp qua quá
trình hoạt động và vì vậy cũng không tính đến khả năng sinh lời hoặc các rủi ro có thể gặp
trong tương lai.
Người mua chỉ tiến hành mua doanh nghiệp với hy vọng kiếm được lợi nhuận và lợi nhuận
siêu ngạch khi bán lại doanh nghiệp. Giá trị tài chính bắt nguồn từ đó. Nó thường xuyên
dựa vào các tài liệu tham khảo, đặc biệt là của các quản lý chứng khoán, dựa trên sự định
giá của thị trường chứng khoán.
Giá trị thường bắt nguồn từ bên ngoài doanh nghiệp và các chuyển dịch trên chứng khoán
được thực hiện mà không có ý đồ làm thay đổi việc quản lý cũng như kiểm soát doanh
nghiệp.
2.2.4. Giá trị kinh tế.

Trong một số trường hợp, khi yêu cầu định giá doanh nghiệp là bắt buộc thì giá trị tài chính
bộc lộ những hạn chế vì thể hiện sự dánh giá không toàn diện về giá trị doanh nghiệp. Vì
vậy một quan niệm khác về giá trị đã được thay vào: giá trị kinh tế.
Giá trị kinh tế hay giá trị thực của doanh nghiệp được xác định bởi quy mô và mức độ chắc
chắn của luồng thu nhập hàng năm trong tương lai do sự kết hợp các tài sản của doanh
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nghiệp trong một cơ cấu tổ chức mang lại.
Giá trị kinh tế giả thiết một cuộc chẩn đoán tổng thể của doanh nghiệp, diễn ra bằng các
yếu tố thặng dư hoặc thiếu hụt của tài sản bằng việc lượng định các yếu tố rủi ro hoặc
thành công mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong một tương lai xác định. Theo nghĩa này,
doanh nghiệp được tiếp cận như một dự án, ở đó giá trị doanh nghiệp tương ứng với mức
vốn đầu tư ban đầu có thể chấp nhận khi dự đoán được luồng thu nhập trong tương lai của
dự án cùng với mức độ chắc chắn của luồng thu nhập đó.
Giá trị kinh tế cũng phản ánh một cái nhìn toàn diện về các nghiệp vụ và cấu trúc của
doanh nghiệp, tức là xem xét giá trị doanh nghiệp dưới cả góc độ của người bán và người
mua.
2.2. Xác định giá trị doanh nghiệp.
Ở nước ta trước đây xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng với vai trò của
nó, vấn đề này chỉ mới được thực sự đề cập đến từ khi Nhà nước có chủ trương cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư. trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động tài chính, mọi chiến lược, mọi quyết định khi đưa ra đều hết sức chú ý
đến giá trị doanh nghiệp và vấn đề tăng giá trị doanh nghiệp. Chính vì vậy xác định giá trị
doanh nghiệp trở thành vấn đề thường nhật của nền kinh tế. Giá trị xác định được là cơ sở
để đánh giá chất lượng quản lý, để thương lượng trong mua-bán, sáp nhập doanh nghiệp...
Thực chất của xác định giá trị doanh nghiệp chính là các hoạt động đi tìm giá trị kinh tế
hay giá trị thực của doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp của bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng là tổng hợp của 3 yếu tố: tài sản, tổ chức và lợi nhuận. Trong đó tài sản và lợi nhuận

có thể lượng hóa thông qua các phương pháp kỹ thuật, dự báo trong khi yếu tố tổ chức là
yếu tố rất khó có thể lượng hóa chính xác. Ngay cả khi lượng hóa được thì cũng không thể
xác định giá trị doanh nghiệp bằng cách cộng đại số đối với 3 đại lượng này. Vì vậy, có thể
thấy định giá là một công việc rất khó khăn vì phải tính đến nhiều yếu tố tác động lên
doanh nghiệp, đồng thời phải đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau.
Có rất nhiều khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp do các tác giả đứng trên những góc
độ khác nhau để xem xét:
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì: “Xác định giá trị doanh nghiệp là việc xác định tổng giá trị
thực tế tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm
xác định giá trị doanh nghiệp”.
Theo giáo sư W.Seabrooke và N.Walker, Viện đại học Portsmouth, Vương quốc Anh thì :
“Định giá là một sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tiền tệ cho một mục đích xác định rõ”.
Một khái niệm khác cũng được nhiều người thừa nhận của giáo sư Lim Lam Yuan, Đại học
quốc gia Singapore: “Định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một
mục đich cụ thể của một tài sản cụ thể tại một thời điểm của tài sản và cũng xem xét các
yếu tố kinh tế cơ bản của thị trường, bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”.
Trong kinh tế học, giá trị được hiểu theo nhiều cách khác nhau. C.Mác định nghĩa giá trị là
sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong hàng hóa; một số nhà kinh tế học phương tây
lại định nghĩa giá trị dưới góc độ chủ quan, dựa trên giá trị sử dụng, mức độ khan hiếm, ích
lợi của hàng hóa. Hiện nay, ở các nước phát triển cho rằng: giá trị gắn liền với lợi ích thực
sự của tài sản.
Từ đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì: Xác định giá trị doanh nghiệp là đánh giá lợi ích thực
sự của doanh nghiệp trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về nó trong một môi trường xác định.

3. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong
nền kinh tế thị trường.
3.1. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp và các yếu tố cấu thành giá trị

doanh nghiệp.
3.1.1. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp được đem trao đổi, mua bán dưới bất kỳ hình thức nào thì giá trị của nó
được biểu hiện bằng tiền là giá cả. Để xác định giá cả trao đổi trên thị trường thì không thể
duy ý chí bằng cách thêm bớt, ước lượng giá trị doanh nghiệp mà cần phải tính toán một
cách chính xác trên cơ sở các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Tức là phải xuất
phát từ quy luật sản xuất lưu thông hàng hóa (quy luật giá trị và quy luật cung cầu), quy
luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, đặc biệt là quy luật lợi nhuận của nền kinh tế
nhiều thành phần. Phải nghiên cứu sự vận động, tác dụng của các quy luật này. Trên cơ sở
đó, mới có các căn cứ để xác định giá trị.
Theo quy luật giá trị thì giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội cần thiết kết tinh trong
đó quyết định. Vì thế, người ta thường khái quát rất đơn giản và khá chính xác là “theo chất
định giá”.
Nhưng theo quy luật cung cầu hàng hóa và dịch vụ thì khi cung cầu không cân bằng, không
thể "theo chất định giá". Trái lại, một hàng hóa giá trị xã hội cao nhưng không mấy ai cần
thì giá cả trao đổi phải thấp mới bán được. Ngược lại, một số hàng hóa khác, giá trị xã hội
thấp nhưng cung không đủ cầu thì giá cả lên cao, người ta vẫn mua. điều kiện ở đay là tiền
tệ ổn định. nhưng nếu tiền tệ lưu thông rối loạn, phá vỡ quan hệ cung cầu thì lại khác,
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />không một hàng hóa nào mà giá cả thể hiện đúng giá trị của nó. Thiếu sức mua trên thị
trường, tức thiếu tiền để lưu thông. Thiếu tiền thì giá cả phải hạ xuống cho phù hợp và
ngược lại sức mua lớn, có nhiều tiền được đưa vào lưu thông. Khi cung giảm thì giá tăng.
Chỉ chừng đó cũng thấy rõ các quy luật phát huy tác dụng trong kinh tế thị trường có lúc
vân động phù hợp với nhau dù rất hiếm, nhưng lại luôn tồn tại các mặt đối lập của chúng
với nhau. Tuy vậy, các quy luật này không loại bỏ, triệt tiêu nhau mà ngược lại chúng đều
tồn tại trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường, nói các khác chúng là những
mặt đối lập trong một nền kinh tế thị trường thống nhất.
Theo quy luật cạnh tranh, thì doanh nghiệp nào có thế lợi, có thực lực về công nghệ, về
vốn, về đội ngũ lao động lành nghề, về thị trường tiêu thụ, uy tín với khách hàng sẽ đánh

bại được các đối thủ cạnh tranh yếu hơn và khi đem bán sẽ dễ dàng bán được với giá cao.
Trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì quy luật lợi nhuận luôn được các
nhà đầu tư quan tâm. Theo quy luật này thì môi trường nào, lĩnh vực nào mang lại lợi
nhuận cao thì sẽ được quan tâm đầu tư vốn và ngược lại môi trường, lĩnh vực đầu tư nào
kém, không mang lại lợi nhuận hay lợi nhuận thấp thì sẽ không thu hút được các nhà đầ tư,
thậm chí không được quan tâm đến. Trình bày các vấn đề này để thấy rằng, trong nền kinh
tế thị trường thì quy luật lợi nhuận chi phối các hoạt động kinh tế và có tác dụng định
hướng cho các quy luật kinh tế khác hoạt động.
Việc xác lập một phương pháp luận cho việc xác định giá trị doanh nghiệp không thể
không quan tâm đến các quy luật khách quan đó và phải lấy đó làm cơ sở cho việc xác định
giá trị doanh nghiệp.
3.1.2. Các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp là một tổng hợp của các yếu tố cấu thành nên nó. Các yếu tố này gồm
rất nhiều thành phần nhưng có thể phân loại các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp như
sau:
a) Giá trị tài sản hiện có, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động.
- Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là các tư liệu lao động có giá trị lớn, được sử
dụng lâu dài tại doanh nghiệp, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản cố
định gồm có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
+ Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất như văn phòng,
nhà kho, phương tiện vận tải...
+ Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp như: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa...
Tuy nhiên, tham gia cấu thành nên giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chỉ gồm các loại tài
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />sản cố định mà doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng và được định giá trên cơ sở giá trị ban
đầu trừ khấu hao và điều chỉnh theo giá hiện hành.
- Tài sản lưu động bao gồm vốn bằng tiền, vật tư hàng hóa, các khoản phải thu, giá trị tài

sản lưu động khác (các khỏan thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn)...
Tài sản lưu động tham gia cấu thành nên giá trị doanh nghiệp cũng chỉ gồm các tài sản mà
doanh nghiệp đang dùng mà không tính đến các loại tài sản lưu động mà doanh nghiệp
không cần dùng.
b) Giá đất nơi doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh và đất được giao quyền
sử dụng nhưng chưa dùng vào sản xuất kinh doanh.
Theo quy định hiện hành thì giá trị đất không được tính vào giá trị doanh nghiệp mà Nhà
nước chỉ tính giá cho thuê đất đối với các doanh nghiệp, tức là hàng năm các doanh nghiệp
phải nộp tiền thuê đất cho Nhà nước. Giá thuê đất được Nhà nước quy định căn cứ vào vị
trí, diện tích đất được giao, bao gồm cả phần đất dùng vào sản xuất kinh doanh và phần
được giao nhưng chưa sử dụng vào kinh doanh.
c) Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần giá trị này là giá trị tăng thêm do các yếu tố lợi thế tạo ra như: vị trí địa lý, uy tín mặt
hàng. Lợi thế này thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân
3 năm trước khi tiến hành cổ phần hóa và chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh
nghiệp.
Tổng hợp các yếu tố trên sẽ hình thành nên giá trị doanh nghiệp để từ đó hình thành nên
giá bán doanh nghiệp trong cổ phần hóa.
3.2. Mục đích, yêu cầu của việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Ở nước ta, trong thời gian trước đây các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong cơ chế
cũ, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quan tâm. Chỉ đến khi Đảng và Nhà
nước có chủ trương cổ phần hoá thì vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp mới được thực sự
quan tâm.
Nếu căn cứ vào chu kỳ sống của doanh nghiệp thì xác định giá trị doanh nghiệp nhằm các
mục đích sau:
- Khi doanh nghiệp mới thành lập: xác định giá trị doanh nghiệp giúp xác định giá trị của
cổ phiếu bán ra (đối với các doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu), giúp các định
phần vốn của nhà đầu tư làm cơ sở cho việc đánh giá hoạt động đầu tư sau này.
- Khi doanh nghiệp đang hoạt động mà xuất hiện các hoạt động làm thay đổi sở hữu doanh
nghiệp như chuyển nhượng, mua bán, sáp nhập thôn tính doanh nghiệp thì cần xác định giá

trị doanh nghiệp để làm cơ sở cho sự thoả thuận mua-bán giữa các bên tham gia.
- Khi kết thúc vòng đời của doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp được thanh lý thì xác định giá
trị doanh nghiệp giúp đưa ra mức giá rao bán, giá khởi điểm để đấu thầu; nếu doanh nghiệp
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />giải thể hoặc phá sản xác định giá trị doanh nghiệp đẻ giải quyết quyền lợi về tài sản cho
các chủ sở hữu (cổ đông).
Nếu lấy mục đích của doanh nghiệp làm vị trí trung tâm để xem xét thì việc xác định gíá trị
doanh nghiệp nhằm một trong các mục đích sau:
- Mục đích chuyển nhượng quyền sở hữu:
+ Nhằm hỗ trợ người mua đặt giá chào hàng.
+ Hỗ trợ người bán quyết định giá bán chấp nhận được.
+ Thiết lập cơ sở cho sự trao đổi hàng hóa thực sự.
+ Thiết lập cơ sở cho sự công nhận hoặc hợp nhất quyền sở hữu của nhiều doanh nghiệp.
+ Xác định giá bán cho mỗi doanh vụ dự tính.
- Mục đích tài chính và tín dụng:
+ Để ước tính giá trị doanh nghiệp trong trường hợp sử dụng doanh nghiệp làm vật đảm
bảo thế chấp đã được đưa vào một đề nghị vay.
+ Cung cấp cho nhà đầu tư cơ sở pháp lý quyết định mua thế chấp doanh nghiệp.
+ Đặt ra các điều khoản cho thuê.
+ Phục vụ nhu cầu của người bảo hiểm.
- Các mục đích của quản lý Nhà nước.
+ Giúp đánh giá chất lượng thực hiện các quy định của Nhà nước về tài chính kế toán.
+ Để ước tính các giá trị định mức thuế.
+ Giúp đưa ra các kế hoạch, chính sách, chiến lược mới.
Xác định giá trị doanh nghiệp cho dù nhằm mục đích gì chăng nữa cũng phải đảm bảo yêu
cầu: giá trị doanh nghiệp xác định phải đảm bảo chính xác với giá trị thực tế của doanh
nghiệp (trong đó có xem xét tới các yếu tố thị trường và các mối quan hệ khác của doanh
nghiệp), có như vậy mới đảm bảo cả người bán và người mua cùng chấp nhận được.
Trong khuôn khổ luận văn này, chỉ xin đề cập đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp

trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
Trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, xác định giá trị doanh nghiệp là
một quá trình, trong đó gồm rất nhiều công đoạn có liên quan mật thiết với nhau. Để cho
giá trị doanh nghiệp xác định được chính xác thì mỗi công đoạn phải đảm bảo những yêu
cầu riêng, đồng thời đảm bảo các bước thực hiện nhịp nhàng, hợp lý.
+ Kiểm kê tài sản trên sổ kế toán: phải phản ánh đầy đủ các tài sản có, đang dùng của
doanh nghiệp trên sổ tại thời điểm định giá.
+ Kiểm kê tài sản thực tế: xác định tổng số tài sản cố định, tài sản lưu động trong thực tế,
các tài sản chưa thể hiện trong sổ kế toán.
+ Tổ chức kiểm kê, đánh giá giá trị tài sản thực tế: hội đồng xác định phải đảm bảo đầy đủ
các thành viên theo quy định của pháp luật, thực hiện đánh giá % còn lại chính xác, theo
giá thị trường.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+ Thẩm định giá trị doanh nghiệp: các cơ quan có trách nhiệm phải nhanh chóng đưa ra các
kết luận về giá trị của doanh nghiệp để không làm chậm quá trình cổ phần hóa.
3.3. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa.
Để giá trị doanh nghiệp xác định đảm bảo được các yêu cầu cũng như mục đích thực hiện
thì khi xác định giá trị doanh nghiệp, chủ thể xác định phải thực hiện theo các nguyên tắc
nhất định. Theo quy định tại Nghị định 44-CP, các nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp
gồm có:
- Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp cổ phần
hóa mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Quy định này được hiểu là: giá
trị doanh nghiệp xác định phải chính xác, vừa không làm giảm phần vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp vừa đảm bảo giá bán doanh nghiệp hấp dẫn người mua là các cổ động tương
lai.
- Các yếu tố xác định giá trị thực tế doanh nghiệp:
+ Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa.
+ Giá trị thực tế tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính
năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm xác

định giá trị doanh nghiệp.
+ Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng thể hiện ở tỷ suất
lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hóa. Giá
trị lợi thế này chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế doanh nghiệp.
Ngoài ra, để tiến kiệm chi phí cổ phần hóa, doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm
toán độc lập.
4. Mối quan hệ giữa giá trị xác định và giá bán doanh nghiệp.
Sau khi xác định được giá trị doanh nghiệp thì giá trị này là cơ sở quan trọng cho việc định
giá bán doanh nghiệp, bởi vì giá trị xác định chưa thể dùng để làn giá bán ngay. Bởi vì, khi
doanh nghiệp được mua bán dù dưới hình thức nào cũng phụ thuộc vào các quy luật của thị
trường như quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ và đặc biệt là quy luật lợi nhuậnmột quy luật chi phối hầu hết các hoạt động trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy, giá trị
doanh nghiệp xác định được, về mặt nào đó có thể coi như giá thành sản phẩm và giá bán
doanh nghiệp sẽ xoay quanh giá thành này.
Khi một nước có thị trường chứng khoán phát triển với đầy đủ các chức năng của nó, các
doanh nghiệp tham gia trên thị trường nhiều, “hàng hóa” được trao đổi nhiều thì giá trị và
giá bán doanh nghiệp được xác định một cách rất chính xác trên thị trường. Tuy nhiên ở
nước ta, thị trường chứng khóan mới ở vào giai đoạn sơ khai nên việc xác định giá trị và
giá cả gặp nhiều khó khăn, giá bán đôi khi mang tính áp đặt, chưa thực sự khuyến khích
được người mua. Tuy nhiên giá trị và giá bán doanh nghiệp cho dù xác định trên thị trường
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />chứng khoán hay không cũng có mối quan hệ mật thiết và với lợi ích của các bên tham gia
mua bán.
- Giá bán thấp hơn giá trị xác định. Có thể lý giải trường hợp này là doanh nghiệp mặc dù
có giá trị hữu hình lớn song lại lám ăn thua lỗ nên khó có thể bán cao hơn hoặc doanh
nghiệp khuyến khích các nhà đầu tư bằng cách bán với giá rẻ.
- Giá bán bằng giá trị xác định. Đây là một điều lý tưởng cho cả phía người mua lẫn doanh
nghiệp vì người mua được mua "hàng" đúng giá, trong khi đối với doanh nghiệp, nó thể
hiện mức độ đáp ứng của doanh nghiệp về nhiều mặt trên thị trường và được người mua
chấp nhận. Tuy nhiên đây là trường hợp rất hiếm khi xảy ra, nhất là ở Việt Nam.

- Giá bán cao hơn giá trị xác định. Có nghĩa là doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao, triển
vọng tương lai tốt, do vậy doanh nghiệp sẽ là nơi đầu tư có thể đem lại hiệu quả cao, do đó,
các nhà đầu tư cạnh tranh nhau mua nên lại càng đẩy giá bán lên cao hơn giá trị thực tế của
nó.
Từ việc phân tích mối quan hệ giữa giá trị xác định và giá bán doanh nghiệp có thể thấy
ngoài yêu cầu xác định chính xác giá bán của doanh nghiệp thì một nhu cầu cấp thiết khác
đối với chúng ta hiện nay là phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường chứng khoán
đủ mạnh để giá bán doanh nghiệp thực sự phản ánh được các quy luật khách quan của kinh
tế thị trường.
II- Một số phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
1. Nguyên tắc của phương pháp định giá.
Xác định giá trị doanh nghiệp là một công việc khó khăn, phức tạp, gồm nhiều bước khác
nhau. Hơn nữa, giá trị doanh nghiệp được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau nên để xác
định giá trị doanh nghiệp cuĩng có nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên tất cả các
phương pháp này đều tuân theo các nguyên tắc thực hiện sau:
1.1. Giá trị doanh nghiệp xác định phải theo giá trị hiện hành của thị trường mới phù hợp
với cơ chế và các quy luật của thị trường. Các yếu tố đều phải quy về giá cả hiện hành là
giá mà thị trường mua và bán ở thời điểm diễn ra hoạt động mua bán, chuyển dịch sở hữu
tài sản. Bất cứ một sự đánh giá không theo quy luật của thực tế khách quan, của yêu cầu thị
trường sẽ rơi vào duy ý chí. Tất nhiên khi đó doanh nghiệp sẽ khó bán hoặc thậm chí
không bán được.
1.2. Phải tiến hành định giá cho các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau theo giá
hiện hành, không rập khuôn việc xác định từ doanh nghiệp sang doanh nghiệp khác bởi vì
không có bất cứ hai doanh nghiệp nào giống nhau mà mỗi doanh nghiệp là một "sản phẩm"
đặc thù, đơn chiếc.
1.3. Xác định giá trị doanh nghiệp theo quy luật cung cầu của thị trường và phải chú trọng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />vận dụng yếu tố chính sách cơ cấu, ngành nghề mà chiến lược kinh tế đặt ra. Có những
doanh nghiệp muốn bán nhưng không có cầu thì cần thiết phải giảm giá đến mức đủ tạo ra

và kích thích cầu, để thu hút vốn thực hiện nhu cầu của chiến lược. Ngược lại, với những
doanh nghiệp cung có ít nhưng cầu lớn có thể điều chỉnh giá lên cao đến mức thích hợp để
tạo ra cân bằng giữa cung và cầu. Xác định giá trị theo quy luật cung cầu và theo ngành sẽ
phản ánh một cách rõ ràng triển vọng tương lai của cá doanh nghiệp mà các chủ thể đầu tư
bỏ vốn đã cso sự cân nhắc về mức sinh lời tương lai khi bỏ vốn vào. Ngoài ra áp dụng giá
thị trường theo quan hệ cung-cầu sẽ nhanh chóng đạt được sự thỏa thuận giữa bên bán và
bên mua.
2. Phương pháp giá trị nội tại.
Phương pháp giá trị nội tại là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên cở sở
chính là tài sản và vốn hiện có trong thời gian hiện tại của một doanh nghiệp có điều chỉnh
theo giá thị trường.
Cơ sở khoa học: tài sản là một yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, giá trị doanh
nghiệp là tổng giá trị ròng của các tài sản bộ phận trong doanh nghiệp.
Phương pháp tiến hành: để xác định giá trị ròng của tài sản có của doanh nghiệp, không chỉ
căn cứ vào sổ sách kế toán mà phải tiến hành điều chỉnh đánh giá lại các tài sản của doanh
nghiệp dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về nguyên tắc kế toán, về tính chất, công dụng của các
tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, về môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp gồm hai phần:
- Giá trị tài sản hữu hình: giá trị này do các tài sản đã và đang được theo dõi trên sổ kế toán
của doanh nghiệp tạo nên và được tính trực tiếp thông qua đánh giá tài sản này.
- Giá trị tài sản vô hình: phần giá trị do các yếu tố không được hạch toán trên sổ sách kế
toán của doanh nghiệp như khả năng nghề nghiệp của người lao động, uy tín doanh nghiệp,
các mối liên hệ với khách hàng... được tính gián tiếp qua giá trị tài sản ròng của doanh
nghiệp.
2.1. Để xác định giá trị tài sản hữu hình có thể sử dụng các cách tính toán sau:
a) Dựa vào giá thị trường.
Giá thị trường của từng tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp là giá bán tài sản đó trên thị
trường vào thời điểm đánh giá giá trị doanh nghiệp hay nói cách khác, giá thị trường của
tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp của doanh nghiệp đơn giản là giá trị hiện tại của nguồn
thu nhập mà nó có thể đưa lại cho chủ doanh nghiệp.

Công thức tính:
Trong đó:
n

V1 =∑
Gi

Tài liệu này được tải miễn phí từ website />và />i=
1


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
V1 : Là tổng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp theo giá thị trường tại thời điểm xác
định.
G i : Giá trị thị trường của từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm bán.
n: Số lượng thực tế tài sản của doanh nghiệp.
Phương pháp xác định giá trị tài sản hữu hình dựa vào giá thị trường không tính đến tính
chất hệ thống quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giữa các tài sản của doanh nghiệp. Do đó,
phương pháp này chỉ có giá trị thực tế lớn khi áp dụng đối với doanh nghiệp giải thể.
b) Dựa vào giá trị ban đầu.
Giá trị ban đầu tài sản của doanh nghiệp là tổng chi phí bằng tiền để mua sắm, lắp ráp, xây
dựng các tài sản đó.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Công thức tính:

V1 =

N


∑ (G i − H i )k n

i =1

Trong đó:
V1 : Tổng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp theo giá trị ban đầu.
G i : Giá trị ban đầu của loại tài sản i.
H i : Giá trị hao mòn của loại tài sản i.
k: Hệ số lạm phát trung bình.
N: Số loại tài sản.
n: Thời gian sử dụng tài sản.
Cách xác định giá trị tài sản cố định dựa vào giá trị ban đầu thường chịu ảnh hưởng của
nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ và lạm phát. khi khoa học công nghệ ngày càng phát
triển, máy móc mới sản xuât ra khiến cho máy móc cũ chịu cả hao mòn vô hình rất lớn, dẫn
đến giá trị xác định không chính xác. Ngoài ra, khi chỉ số giá cả tăng cũng ảnh hưởng đến
kết quả tính toán.
2.2. Xác định giá trị tài sản vô hình.
a) Xác định dựa trên khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp do phần giá trị này
tạo nên.
Để xác định giá trị vô hình của doanh nghiệp ( V1 ), ta giả sử lợi nhuận trong tương lai của
doanh nghiệp gồm hai phần: phần thứ nhất ( P1 ) do giá trị hữu hình ( V1 ) mang lại, phần
thứ hai ( P2 ) do V2 mang lại.

P1 = V1 × m
m: Giá trị lợi tức trung bình của thị trường vốn.
Từ đó, giá trị vô hình được tính là giá trị vốn hóa phần thứ hai của lợi nhuận theo tỷ suất
sinh lời của V2 (m’).

V2 =


P − P1 P − V1 × m
=
m'
m'

Trong đó:
P2 : Lợi nhuận ước tính của V2 .
m’: tỷ suất sinh lời của V2 .
Để đơn giản, ta cho m’=2m thì khi đó giá trị vô hình cua doanh nghiệp là:

P và />Tài liệu này được tải miễn phí từ website
V2 = m

− V1
2


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Và như vậy, giá trị doanh nghiệp sẽ là:
b) Cách tính khác.

P
P
− V1
+ V1
m
m
V0 = V1 + V2 = V1 +
=
2

2
Lập luận cơ bản của cách tính này là: doanh nghiệp đầu tư một tổng thể các tài sản có hữu
hình vào hoạt động sản xuất kinh doanh là vì mục tiêu sinh lời. Mặt khác, các tài sản có
nếu không đầu tư vào doanh nghiệp này thì cũng sẽ được hưởng một mức lợi nhuận trung
bình để chứng minh giá trị kinh tế hay tính hữu ích của nó. Trên cơ sơ đó, phân tích sự
khác biệt giữa khả năng thu lợi nhuận của tài sản đó với lợi nhuận trung bình của nó. Nếu
chênh lệch dương, không những giá trị tài sản của doanh nghiệp được công nhận mà nó
còn làm xuất hiện lợi nhuận siêu ngạch thông qua sự hiện hữu của một tài sản có khác là tài
sản vô hình (lợi thế thương mại-GW). Còn nếu chênh lệch âm, thì giá trị của tài sản có
không được công nhận, đồng thời xảy ra sự mất giá của tài sản có. Trong trường hợp này
gọi là bất lợi thương mại (BW).
Các giá trị chênh lệch này được tính theo công thức sau:
Trong đó:
n R − r ×S
t
GW(BW ) = ∑ t
t
i =1 (1 + i )

S t : tài sản có hữu hình được đưa vào sản xuất kinh doanh năm t.
R t : khả năng thu lợi ròng năm t.
r: tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản.
i: tỷ suất hiện tại hóa.
N: thời kì vốn hóa của tiền lời.
Giá trị tổng thể của doanh nghiệp được tính bằng cách lấy GW hay BW cộng với giá trị tài
sản hữu hình V1.
2.2.3. Nhận xét về phương pháp xác định bằng giá trị nội tại.

V0 = GW(BW ) + V1
a) Điều kiện áp dụng.

Để áp dụng phương pháp này doanh nghiệp cần có hệ thống sổ sách kế toán chính xác, đầy
đủ, trên thị trường có các loại tài sản tương tự để có thể xác định giá trị tài sản của mình
theo giá thị trường. Khi xác định theo phwong pháp này cần chú ý:
- Tài sản dù cùng mục đích sử dụng nhưng nếu có đặc tính kỹ thuật khác nhau thì giá trị
cũng khác nhau, khi đánh giá phải tính đến giá trị sử dụng của tài sản đó.
- Việc đánh giá sẽ gặp khó khăn nếu không sử dụng chi phí thay thế tài sản giữa giá trị hiện
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tại và giá trị tài sản trong tương lai, vì vậy cần chú ý đến chi phí thay thế.
- Đối với các loại tài sản không cần thiết phải mang tính đồng bộ có thể tách riêng để tiện
cho việc tính toán.
b) Ưu điểm.
- Tính toán dễ dàng, đơn giản do giá trị tài sản của doanh nghiệp là chỉ tiêu có thể lượng
hoá.
- Giá trị doanh nghiệp được theo dõi và kiểm chứng bằng sổ kế toán.
c) Nhược điểm.
- Xác định giá trị tài sản vô hình không có tính chính xác cao do phụ thuộc chủ quan của
người đánh giá.
- Giá trị doanh nghiệp chưa được xem xét một cách đầy đủ, chưa đề cập tới yếu tố lợi
nhuận trong tương lai của doanh nghiệp.
- Giá trị doanh nghiệp chỉ mới được đánh giá trên quan điểm của chủ doanh nghiệp mà
chưa tính đến đánh giá của các nhà đầu tư và các yếu tố cung cầu thị trường.
- Giá trị dn tính theo phương pháp này bị tách rời khỏi khả năng sinh lời của doanh nghiệp
trong tương lai.
3. Phương pháp giá trị lợi nhuận.
Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp giá trị lợi nhuận là phương pháp đánh giá
một cách tổng quát toàn bộ giá trị của doanh nghiệp. Giá trị đó không đơn thuần là tổng đại
số của các tài sản trong doanh nghiệp mà có tính đến tính hệ thống của các tài sản đó.
Cơ sở khoa học: khả năng sinh lời trong tương lai chính là thước đo giá trị của doanh
nghiệp.

3.1. Đánh giá qua vốn hóa lợi nhuận.
Phương pháp này có nguồn gốc từ một trong các phương pháp tính hiệu quả vốn đầu tư. Để
tính toán giá trị doanh nghiệp, người ta thực hiện dự báo luồng thu nhập trong tương lai
của doanh nghiệp rồi chiết khấu chúng về thời điểm hiện tại theo một tỷ lệ vốn hóa nhất
định.
Công thức chung:

V0 =

n

∑(

Ft

t
t =1 (1 + i )

+

Vn

(1 + i )n

) (1)

Trong đó:
V0 : Giá trị doanh nghiệp.
Ft : Thu nhập dự kiến năm t.
i: Hệ số hiện tại hóa.

n: Số năm hoạt động của doanh nghiệp.
Vn : Giá trị thanh lý của doanh nghiệp cuối năm n.
Đến đây có hai quan điểm về xác định n:
* Quan điểm thứ nhất: cho n → ∞ thì thay vì dự đoán giá trị Ft cho từng năm, người ta chỉ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tiến hành ước lượng giá trị lợi nhuận bình quân trong tương lai F
Khi đó, công thức (1) có dạng như sau:
Nếu theo quan điểm này thì việc thực hiện gặp nhiều trở ngại do xác định hệ số hiện tại hóa

V0 =

F
i

là rất khó khăn. Hệ số này liên quan trực tiếp đến mức độ rủi ro tồn tại cố hữu trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường kinh
doanh, đối thủ cạnh tranh, uy tín doanh nghiệp...
Vì vậy, để đơn giản hoá, có thể chọn hệ số hiện tại hóa từ:
- Chi phí vốn của doanh nghiệp: đó là chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để được sử dụng
lượng vốn nào đó. Thường các doanh nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau (lợi
nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu, đi vay...). Khi đó, chi phí vốn của doanh nghiệp là
f i : tỷ trọng của loại vốn i trong tổng vốn huy động.

WACC = ∑ f i × k i
k i : chi phí vốn của loại vốn i (tính bằng %).
- Lãi suất không rủi ro của thị trường cộng tỷ lệ rủi ro đối với các nước có thị trường chứng
khoán phát triển. Lãi suất không có rủi ro thường được lấy từ lãi suất trái phiếu kho bạc
hoặc trái phiếu ngân hàng đầu tư phát triển.
- Tỷ suất lợi nhuận trung bình ngành.

Nhận xét: phương pháp có ưu điểm là đã dùng giả thiết cho n→∞ để loại bỏ giá trị Vn ra
khỏi công thức. Việc xác định Vn thực chất là xác định giá trị doanh nghiệp tại một thời
điểm trong tương lai (năm thứ n). Tuy nhiên giả thiết này lại không có ý nghĩa thực tế. Ta
không thể thuyết phục nhà đầu tư là doanh nghiệp sẽ tồn tại mãi (n→∞) hoặc n đủ lớn để
giá trị thanh lý của doanh nghiệp (sau khi đã dược hiện tại hóa) là không đáng kể so với

V0 .
* Quan điểm thứ hai: quan điểm này cho rằng, n là một số hữu hạn, cụ thể do đó có thể xác
định được Vn . Vì vậy, mấu chốt của quan điểm này là phải có sự thống nhất giữa người
mua và người bán về giá trị của n.
Để xác định n cần có các thông tin về chu kỳ đầu tư, chu kỳ sống của doanh nghiệp. Cụ thể
là thời gian khấu hao trung bình của tài sản cố định. Đó là khoảng thời gian cần thiết để
hình thành một chu kỳ đầu tư, nó thích ứng với sự tính toán một cách chi tiết khi lựa chọn
phương án đầu tư thông thường.
Để xác định V0 , người ta cho rằng không cần tính Vn vì làm như vậy tức là một lần nữa
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đi tìm giá trị doanh nghiệp vào thời đỉểm năm n. Giá trị V0 gồm hai thành phần: vốn sản
xuất kinh doanh bỏ ra tại thời điểm hiện tại để tạo ra lợi nhuận và lợi thế kinh doanh (GW
hay BW)

Vèn SXKD =

n (R + KH ) VL§
+

t
(1+ i)t
t =1 (1 + i )


R: Lợi nhuận không có rủi ro.
KH: Khấu hao hàng năm.
VLĐ: vốn lưu động thu hồi.
Giá trị doanh nghiệp theo quan điểm này sẽ là: V0 = Vốn SXKD + GW(BW)
Nhận xét: quan điểm này mang tính thực tiễn cao nhưng kỹ thuật tính toán phức tạp.
* Quan điểm thứ ba: cho rằng có thể dự đoán được tốc độ tăng bình quân lợi nhuận trong
tương lai của công ty. Qua đó có thể xác định giá trị doanh nghiệp.
k: tốc độ tăng lợi nhuận bình quân hàng năm.

V 0 = F1 × (1 + k )− n ×

Vn
(1 + k )n − (1 + i )n
+
k −i
(1 + i )n

F1 : Lợi nhuận năm đầu tiên tính từ thời điểm định giá.
Nhận xét: quan điểm này mang tính linh hoạt hơn so với hai quan điểm trên bởi vì có thể
vận dụng vào từng trường hợp cụ thể mà có thể tính hoặc loại bỏ giá trị Vn .
3.2. Đánh giá qua lợi tức cổ phần hiện tại hóa.
Cơ sở của phương pháp này là giá trị lý thuyết cổ phiếu bằng tổng các giá trị hiện tại hóa
các khoản lợi tức thu được trong tương lai.
Giá trị doanh nghiệp (cũng là giá trị lý thuyết tổng các cổ phiếu của doanh nghiệp) tính
theo công thức:
Trong đó:

A=

dt

d1
d2
+
+ ⋅⋅⋅ +
(1 + i ) (1 + i )2
(1 + i )t

A: Giá trị doanh nghiệp (giá trị lý thuyết tổng cá cổ phiếu của doanh nghiệp).
d t : Lợi tức cổ phiếu năm t.
i: Tỷ suất hiện tại hóa.
t: Năm thứ t.
Thời điểm hiện tại hóa giả định là đầu năm thứ nhất. Tuỳ theo sự biến đổi của lợi tức d t có
thể phân ra các trường hợp sau:
a) Giá trị d t là ổn định.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Khi đó giá trị doanh nghiệp sẽ là;
b) Giá trị d t tăng đều hàng năm theo tỷ lệ k < i.


A = d× ∑

1

d
(1 + i )t
d t = dt 1=(11 + k )t −1 ⇒ A = 1 khichot → ∞
i−k
d
Chot → ∞ : A =

i
c) Giá trị d t tăng theo tỷ lệ k > i.
Trong trường hợp này phải coi sự tăng lên theo tỷ lệ k > i chỉ diễn ra trong một khoảng thời
gian hạn định là n năm còn từ năm (n+1) tỷ lệ tăng hàng năm là k’< i. Khi đó giá trị doanh
nghiệp xác định được khi cho t→∞ là:

 (1 + k )n − (1 + i )n (1 + k )n −1 − (1 + k' )


A=
+
n

k

i
i

k
'
(1 + i ) 

d1

Nhận xét: giá trị doanh nghiệp đánh giá theo các cách này phản ánh được quan hệ giữa
hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện được phương pháp này thì
đòi hỏi doanh nghiệp phải có cổ phiếu niêm yết trên một thị trường chứng khoán mạnh.
3.3. Nhận xét chung.
a) Điều kiện áp dụng.
- Đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển.

- Phải có cơ quan kiểm toán.
- Các doanh nghiệp thực hiện chính xác ghi chép trên sổ kế toán và theo cùng một nguyên
tắc thống nhất.
- Doanh nghiệp thực hiện đánh giá giá trị phải làm ăn có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng khá.
b) Ưu điểm.
- Phương pháp này xem xét doanh nghiệp với tư cách là tổng thể.
- Phản ánh tương đối đầy đủ các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp.
c) Nhược điểm.
- Việc lựa chọn tỷ suất lợi nhuận chưa có căn cứ rõ ràng, mang tính chủ quan cao, trong khi
chỉ tiêu này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tính toán.
- Kỹ thuật tính toán dựa vào dự báo là chủ yếu kết quả khó đạt tính chính xác cao.
4. Phương pháp đấu giá trực tiếp.
Đây là phương pháp khá được ưa chuộng ở các nước phát triển vì nó đề cao vai trò của các
yếu tố thị trường và dung hoà được các xung đột về lợi ích.
Cơ sở khoa học: dựa trên cung cầu thị trường về loại hình doanh nghiệp cần định giá.
Phương pháp tiến hành: đấu giá doanh nghiệp tổ chức vào thời gian và địa điểm xác định
theo quy định của pháp luật. Hai bên thông qua thoả thuận giá cả và đồng thời xác định giá
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />trị doanh nghiệp. Nói cách khác, theo phương pháp này, người mua và người bán trực tiếp
thương lượng giá trị doanh nghiệp trên cơ sở giá mời thầu.
Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là không phải lúc nào giá cả cũng phản ánh
đúng giá trị doanh nghiệp đặc biệt có hại trong trường hợp doanh nghiệp đang gặp khó
khăn hay bị thôn tính. Hơn nữa, việc tổ chức đấu giá thường phải tuân thủ một số quy định
về bảo mật thông tin khá phức tạp.
Nhận xét chung về các phương pháp định giá:
Định giá doanh nghiệp là một khoa học dự đoán, vì vậy nó mang tính chủ quan cao. Mỗi phương
pháp có những ưu điểm cũng như nhược điểm riêng và không có phương pháp nào hoàn toàn chính
xác. Trên thực tế, việc xây dựng một phương pháp đánh giá tuyệt đối chính xác cũng là điều không
tưởng. Vì vậy, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà vận dụng phương pháp nào cho hợp lý, mang lại hiệu

quả cao.
PHẦN II
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG TY CỔ
PHẦN DỤNG CỤ CƠ KHÍ XUẤT KHẨU.
I- TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN DỤNG CỤ CƠ KHÍ XUẤT KHẨU.
A. Sự hình thành và phát triển Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu.
1. Lịch sử phát triển Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu trước khi tiến hành cổ phần hóa.
Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội là một công ty có bề dày lịch sử hơn 40 năm
trưởng thành và phát triển. Mặc dù được thành lập trong thời kỳ bao cấp nhưng ngay từ
buổi sơ khai, Công ty đã xác định phải vận dụng những phương pháp làm việc có hiệu quả
phát huy tính năng động trong sản xuất kinh doanh để Công ty ngày càng lớn mạnh.
Ngày 18/11/1960, Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập Xưởng y cụ tiền thân của Công ty cổ
phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội hiện nay. Xưởng khi đó có trụ sở tại phố Phủ Doãn
và trong cơ cấu của xưởng chỉ có 2 tổ là tổ sửa chữa thiết bị và tổ cơ. Sản phẩm chính của
xưởng là panh kéo, máy bơm, thuốc diệt muỗi, nồi nước cất...
Để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất mới, tăng khả năng phát triển và tạo điều kiện thuận lợi
trong quản lý, ngày 27/12/1962, Bộ Y tế quyết định sáp nhập Xưởng y cụ và chân tay giả,
đặt tại phố Minh Khai, do đồng chí Bạch Đăng Nghĩa làm giám đốc.
Ngày 14/7/1964, Bộ lại tách và thành lập Nhà máy y cụ với nhiệm vụ sản xuất dụng cụ y
tế, thiết bị bệnh viện, thiết bị dược phẩm và sửa chữa dụng cụ y tế. Tự chủ trong kinh
doanh cùng đội ngũ công nhân lành nghề, Nhà máy đã có bước phát triển nhanh, lượng cán
bộ công nhân tăng lên tới 700 người, diện tích đất được mở rộng thêm, nhiều nhà xưởng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×