Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

C c gi i ph p v ki n ngh nh m t ng s c nh tranh c a c c ng n h ng th ng m i Vi t Nam khi tham gia h i nh p kinh t qu c t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 37 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả mọi
người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp của quý
khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đề Tài:
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐỂ THAM GIA HỘI NHẬP KINH TẾ TÀI CHÍNH KHU
VỰC VÀ THẾ GIỚI.
--------------------------------------------LỜI MỞ ĐẦU
Các tổ chức Ngân hàng(NH) là những doanh nghiệp, nhưng là doanh nghiệp

"đặc biệt".

Chúng hoạt động trong lĩnh vực tìên tệ-Tín dụng. Đặc trưng hoạt động của các doanh nghịêp
NH là :
-Kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế xã hội.
-Hoạt động của các tổ chức ngân hàng đều liên quan hết thảy các tác nhân và thể nhân trong
nền kinh tế.
-Mỗi tổ chức ngân hàng là một đơn vị hữu cơ trong cả hệ thống;
Trước đây, trong suốt một thời gian dài, chúng ta đã không đánh giá đầy đủ vai trò các
quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Từ đó dẫn đến cách tiếp cận không đúng đối với vai trò của ngân
hàng trong nền kinh tế. Quan niệm mới về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện
nay đòi hỏi phải thực hiện những biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực NH, trong đó đổi mới mô
hình hệ thống tổ chức và chính sách tiền tệ là những vấn đề cốt lõi.
Hiện nay, sự phát triển của hệ thống tài chính đóng vai trò như một yếu tố đầu vào đối vứi


sự tăng trưởng kinh tế. Một hệ thống tài chính hoạt động có hiệu qủa thực hiện chức năng
kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người có tiết kịêm tới những người có nhu cầu
về vốn. Trong hệ thống tài chính, các NH là mạch máu vô cùng quan trọng. Không thể nói
đến một nền kinh tế mạnh với hệ thống NH yếu kém và ngược lại. Qua nhiều thập kỷ nhiều
nước công nghiệp, phát triển và đang phát triển đã từng vấp phải nhiều vấn đề liên quan đến
hệ thống NH. Những vấn đề này thường gắn với cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô, gần đây
nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, mà một trong những nguyên nhân
cơ bản là do hệ thống NH yếu kém và mắc nhiều sai lầm. Trong vòng xoáy đó, hệ thống NH
Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp song cũng bộc lộ những nhược điểm cần điều chỉnh.
Ngày 13 tháng 7 năm 2000 vừa qua hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ được ký
kết. Đặt dấu ấn cho mối quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt-Mỹ.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Theo lộ trình này : Sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực các NH Mỹ được phép lập NH
100% vốn Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm đó cho phép các NH Mỹ liên doanh đối
tác với Việt Nam, trong đó tỷ lệ góp vốn là 30% đến 40% vốn pháp định. Các NH Mỹ được
phép huy động vốn dần đến mức không hạn chế. Sau 3 năm các NH Mỹ còn được thực hiện
các nghiệp vụ NH về chiết khấu, mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như các NH trong nước, sau 8
năm được phép phát hành thẻ tín dụng, được caid đặt máy rút tiền tự động ATM..v.v...
Đứng trước những thực tế đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải cải cách hệ thống NH. Việt Nam
cần xem xét và giải quyết những vấn đề có liên quan để tạo lập một hệ thống NH vững
mạnh, có được khả năng huy động vốn cao và nhất là có sức cạnh tranh với hệ thống ngân
hàng các nước đặc biệt là Mỹ.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu môn học lý thuyết tiền tệ, và được sự hướng dẫn của
thầy giáo THS Nguyễn Văn Lộc. Từ đó mà em có cơ sở để tìm hiểu về vấn đề cạnh tranh
của các NHTM Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế-tài chính khu vực, và thế giớí thông
qua đề tài;"NHTM với quá trình hội nhập kinh tế- tài chính khu vực và thế giới".Tuy nhiên
do trình độ còn hạn chế, và cùng với sự biến đổi thường xuyên của nền kinh tế thị trường,
nên trong bài viết không tránh khỏỉ thiếu sót, về thông tin, số liệu ,cập nhật mới nhất cho bài
viết. Vì vậy em rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và bạn đọc để giúp em hoàn thiện

hơn. Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn!
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
-Chương I: NHTM với quá trình hội nhập kinh tế-tài chính quốc tế .
-ChươngII: Thực trạng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay.
-Chương III: Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng sự cạnh tranh của các NHTM Việt Nam
khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
-

CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ- TÀI CHÍNH
QUỐC TẾ
1. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệtín dụng.
Ngân hàng thương mại còn định nghĩa như là một trung gian tài chính đi vay để cho vay.
Như vậy, qua định nghĩa trên, NHTM đã thể hiện như là một doanh nghiệp thực sự. Song đó
là loại hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính. Dịch vụ được thể hiện ở chỗ NHTM đi vay tiền
của xã hội và rồi lại cho chính xã hội vay lại, qua đó mà thu lời.
1.2 Các loại hình NHTM.
Có thể phân chia ngân hàng (NH) theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của người
quản lý.
-Dựa trên tiêu thức sở hữu, người ta phân biệt NHTM công và ngân hàng thương mại tư
+NHTM công là loại NH do Nhà nước cấp toàn bộ vốn điều lệ và bộ máylãnh đạo do Nhà
nước bổ nhiệm.
+NHTM tư là loại hình NHTM do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân hoặc do sự hùn
vốn của các cá nhân dưới hình thức đóng góp cổ phần.
+NHTM liên doanh là NH hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên, thường là
giữa NH trong nước với NH nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau

-Căn cứ vào tiêu thức tính chất hoạt động người ta chia ra;
+Ngân hàng chuyên doanh ,ngân hàng đa năng, NH bán buôn, ngân hàng bán lẻ
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh: Loại ngân hàng này chỉ chuyên cung cấp
một số dich vụ ngân hàng ,ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với ngân
hàng nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...Tính chuyên môn hoá
cao cho phép NH có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ.Loại ngân
hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực mà ngân hàng phục vụ sa sút.
Ngân hàng đa năng :Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ NH cho mọi đối tượng
Ngân
hàng bán buôn là ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng, các công ty tài
chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn
-Căn cứ vào tiêu thức cơ cấu tổ chức,NHTM được chia ra:
+Ngân hàng thuộc sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty:
Ngân hàng sở hữu công ty là NH nắm giữ phần lớn vốn của công ty, cho phép NH được
tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty
+Các NH không sở hữu công ty có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật pháp không cho
phép
1.3 Các chức năng của ngân hàng thương mại:
1.3.1.Trung gian tài chính
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm
thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân trong nền kinh tế:(1) các cá nhân và tổ
chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và
vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và(2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi
tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do
vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu
là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia
tăng là động lực tạo mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm . Nếu dòng tiền di chuyển với điều

kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là
quan hệ tín dụng . Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát vốn hoặc hùn vốn. Lấy quan hệ tín
dụng làm ví dụ. Người có tiền tiết kiệm đòi 1% cho chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3%
là thu nhập ròng từ số tiền tiết kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng .
Tổng cộng anh ta đòi 6% trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% cho chi phí giao dịch,
6% trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn tín dụng là 7% . Nếu việc sử dụng tiền vay có
thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% (giả sử là 10%) thì quan hệ tín dụng sẽ
được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn
tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không phù hợp về quy mô, thời
gian ...Điều này cản trở quan hệ tài chính trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung
gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm chi phí giao dịch ví dụ từ
2% xuống còn 1% ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% xuống còn 1% . Trung gian có thể trả
cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro (lớn hơn 3% thu nhập trước đó).
Chênh lệc 6,5%- 3,5% =3% chính là thu nhập của trung gian. Như vậy trung gian tài chính
đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà làm khuyến khích tiết kiệm,đồng thời
giảm chi phí tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến
khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp những người tiết kiệm và đàu tư, vì vậy mà giải
quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và
giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng sự không hoàn
hảo trong hệ thống tài chính.Chẳng hạn những khoản tín dụng và chứng khoá không thể chia
thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có
giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi)
phục vụ chop hàng triệu người. Trong các ví dụ này,hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra
vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm.

Một đóng góp khác của ngân hàng là do họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều
rủi ro trong khi lại phát hành chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.Thực tế các ngân hàng
tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh toán của nhiều
khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng làkhả năng thẩm định thông tin.
Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng "
thông tin không cân xứng" làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra khả năng sinh
lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có
khả năng lựa chọn những công cụ với yếu tố rủi ro-lợi nhuận hấp dẫn.
1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Thay mặt khách hàng, ngân hàngthực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc
thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu các loại thẻ...
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và thanh toán tiền giấy khi khách
hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện việc thanh toán bù trừ cho nhau thông qua ngân hàng
trung ương hoặc cacs trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua NH càng đạt hiệu quả
cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán
hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức
thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm
thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả,phục vụ đắc lực cho nền kinh
tế toàn cầu.
1.3.3 Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Những hoạt động mà ngân hàng thương mại đã làm hình thành nên một cơ chế tạo tiền
trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.Ban đầu, các ngân hàng tạo các phương tiện thanh toán khi
phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm

nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như
vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên
số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã
thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền
giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy
nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực ophát hanh (in) tiền giấy vào một tổ chức
hoặc là Bộ Tài Chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng
thương mại taọ ra các giấy bạc riêng của mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có
được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán,họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch
vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại,đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất
là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách
hàng tại các ngân hàng, thứ ba lầ tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có
kỳ hạn....
Khi ngân hàng cho vay, số dư tren tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng
lên,khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín
dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán(tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi
được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại
một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu(tức làm tăng số dư
tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay
mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa,
toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán)
gấp bội thông qua hoật động cho vay (tạo tín dụng).
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác đọng
trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt
qua ngân hàng, tỷ kệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán....

Qua chức năng này,ngân hàng thương mại cũng đã góp phần giám sát kỷ luật tài chính,
giữ gìn kỷ cương phép nước trong toàn xã hội.
1.4 Một số hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
1.4.1 Hoạt động tạo lập nguồn vốn
-Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội: Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những
hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Nó tạo ra nguồn vốn chủ đạo trong kinh doanh
của bất kỳ ngân hàng thương mại nào . Ngân hàng thương mại thường huy động vốn nhàn
rỗi của xã hội qua các phương thức nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu ngân hàng.
Huy động tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại . Xã hội
ngày nay phát triển rất nhanh, các nguồn vốn tiền gửi ngày càng phong phú và phức tạp.
Song về mặt kỹ thuật ngân hàng, các khoản tiền gửi có thể được chia thành các khoản tiển
gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào, nó có thể là tiền gửi thanh
toán hoặc tiền gửi thuần tuý. Đặc trưng của loại nguồn vốn này đối với ngân hàng thương
mại là biến động thường xuyên. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn quan trọng đối với kinh doanh
ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng mà có sự thoả thuận về thời
gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy về mặt nguyên tắc, khách hàng gửi tiền
chỉ được rút ra khi đén hạn thoả thuận. Do đó, đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp
với yêu cầu cho vay của ngân hàng thương mại.
Huy động vốn thông qua các chứng từ có giá là việc các ngân hàng thương mại phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động . Trong hình
thức huy động này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội nhằm bổ sung
nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
-Nguồn vốn đi vay của ngân hàng khác.
Nguồn vốn đi vay bởi các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan
hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng trung
ương.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Phương thức huy động vốn này thường chỉ mang tính tạm thời, hơn nữa có thể làm cho các
ngân hàng thương mại phải chịu chi phí lớn . Vì vậy hiệu quả kinh tế mang lại từ nguồn vốn
này không cao.Trong thực tế nguồn vốn này cũng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại.
-Vốn tự có:
Vốn tự có của ngân hàng bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số
tài sản nợ khác theo quy định của ngân hàng trung ương.
Xét về đặc điểm, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số `nguồn vốn kinh doanh
của một ngân hàng, vì nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín
với khách hàng . Đồng thời vốn tự có còn là cơ sở xác định hệ số an toàn trong kinh doanh
ngân hàng.
1.4.2 Sử dụng và khai thác các nguồn vốn
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng
thương maị.
Hướng cơ bản trong sư dụng và khai thác các nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm có
cho vay ngắn hạn , trung hạn và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay dưới 12 tháng. Đây là loại cho vay chủ yếu nhất của ngân
hàng thương mại, nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của doanh nghiệp và dân cư.
Cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại là loại cho vay được thực hiện đối với
những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội từ 12 tháng trở lên. Loại cho vay này
ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vốn
trung và dài hạn của xã hội để mở mang ngành nghề sản xuất- kinh doanh, đầu tư xây dựng
cơ bản...Mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một nhiều của các
ngân hàng thương mại.
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán, giúp ngân hàng thương mại sử
dụng và khai thác tối đa nguồn vốn đã huy động. Tăng cường khả năng thanh khoản cho dự
trữ của ngân hàng thương mại.Đồng thời nó cũng mang lại nguồn thu nhập ngân hàng
thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chứng khoán ở mức độ nào còn tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức
ngân hàng thương mại ở mỗi nước. Nhưng xu thế chung đều không có sự cách biệt giữa hoạt

động kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chưng khoán.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />-Hoạt động ngân quỹ là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng, nó bao gồm
nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các nngân hàng khác và ngân hàng trung ương , tiền trong
quá trình thu nhận.
Mặc dù hoạt động ngân quỹ là hoạt động không sinh lời, nhưng lại rất quan trọng đối với các
ngân hàng thương mại bởi nó góp phần tăng cường khả năng thanh toán và chi trả đối vơ
khách hàng.
1.4.3 Các hoạt động uỷ thác:
Đây là những hoạt động được thực hiện theo sự uỉy thác của khách hàng:Thanh toán hộ
tiền hàng , dịch vụ quản lý tài sản, cung cấp thống tin và tư vấn về kinh doanh, đầu tư và
quản trị doanh nghiệp. Những hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt
động tạo lập nguồn vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc khai thác và sử dụng vốn.
1.5 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
+Ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,
nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường để mở rộng được quy mô sản suất đòi hỏi doanh nghiệp phải có
lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu, áp dụng những tiến bộ khoa học hiện
đại. Trong điều kiện đó, NHTM một mặt đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn thiếu hụt,
cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt
kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán ,tiền tệ, các NHTM hỗ trợ các doanh
nghiệp nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
+Các NHTM góp phần phân bổ hợp lý cácnguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều
kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị ,các ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành
duy trì và phát triển theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp
phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự
thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.

+NHTM tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NH trung Ương.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về NH trung Ương. Để thực thi chính sách tiền tệ
phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dữ trữ bắt buộc, thị trường mở vv...chính các NHTM
là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối
trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />kinh doanh của NHTM gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ
chức và các chủ thể kinh tế. Mặt khác cũng qua NHTM và các định chế tài chính trung gian
khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá vv...của
nền kinh tế được phản hồi về cho NH trung ương, để Chính Phủ và NH trung ương có những
chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể.
+NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
Với xu hướng phát triển của nền kinh tế là hướng hội nhập vào cộng đồng và nền kinh tế thế
giới, nên việc mở rộng giao lưu kinh tế là một tất yếu, nó giúp cho mỗi quốc gia phát huy
được lợi thế của mình, giữa các nước có sự giúp đỡ thân thiện với nhau để hỗ trợ đắc lực cho
các hoạt động kinh tếnày đạt được hiệu quả cao, góp phần khẳng địnhvị trí và tăng sức cạnh
tranh cho các doanh nghiệp trên trường quốc tế thì vai trò của NHTM là không thể thiếu
được thông qua các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các tổ chức tài
chính, NH và doanh nghiệp quốc tế, giúp cho việc thanh toán trao đổi mua bán được diễn ra
nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và có hiệu quả.
2.Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của các NHTM trong
quá trình hội nhập.
2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế.
Những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế. Thực chất hội nhập
kinh tế quốc tế là các nước tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được
với nhau kể cả dành cho nhau những ưu đãi, tạo ra sự công bằng cho nhau trong sự hợp tác
kinh tế nhằm khai thác các khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. ở
phạm vi một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát
triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia ngày càng nhiều

vào các hoạt động kinh tế quốc tế, vào hệ thống thương mại đa phương.
2.2 Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của các NHTM khi tham gia hội nhập kinh tếtài chính quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là quá trình phát triển tất yếu trong thời đại
hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm rõ ràng về vấn đề này khi thực hịện chính
sách "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
kinh tế đối ngoại"; đã gia nhập ASEAN, gia nhập APEC, có quan hệ tốt với WB, IMF, ADB,
đã phê chuẩn hiệp định thưong mại Việt-Mỹ (có hiệu lực từ 10/12/2001) và đang đàm phán
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />để có thể gia nhập WTO trong khoảng thời gian hai năm tới vv...những đổi mới trong đường
lối phát triển kinh tế trên đã góp phần làm cho Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc
gia có độ tăng trưởng kinh tế cao trên toàn cầu ở suất thập niên 90.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập không phải là một con đường bằng phẳng, ít rủi ro tổn thất
mà là một quá trình cạnh tranh gay gắt xâm nhập thị trường lẫn nhau giữa các nền kinh tế,
các công ty đa quốc gia các tập đoàn tài chính quốc vv...vì thế để chủ động hội nhập, và phát
triển đang là một vấn đề bức thiết hiện nay đối với mọi doanh nghiệp, trong đó có các
NHTM Việt Nam (NHTMVN).
2.2.1 Những cơ hội và thách thức:
Những lợi thế cơ bản mà NHTM có được trong quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam đối với nền kinh tế thế giới là:
-Hội nhập sẽ mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính, tiền tệ, qua đó
nâng cao được uy tín của NHTM trên thị trường tài chính quốc tế. NHTM thuận lợi trong
việc thiết lập, các quan hệ song phương và đa phương với các NH nước ngoài, từ đó sử dụng
tốt hơn nguồn tiền gửi ngoại tệ đang có ở nước ngoài cũng như hỗ trợ một cách có hiệu quả
hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào các thị trường mới. (VD: Thị trường
Mỹ).
-Có điều kiện chia sẻ thông tin, trao đổi nghiệp vụ, tiếp cận thị trường mới cũng như tranh
thủ được công nghệ NH, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
-Thông qua việc hợp tác mà dành cho nhau những ưu đãi trong tín dụng, trong mức phí dịch
vụ NH, trong đào tạo nguồn nhân lực.

-NHTM sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn quốc tế nhất là các nguồn vốn dài
hạn và các trợ giúp kỹ thuật quốc tế cần thiết khác.
-Hội nhập quốc tế còn là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống NHTM
phải tiến hành nhanh hơn, quyết liệt hơn,từ đó nâng cao được sức cạnh tranh và hiệu quả
hoạt động, nâng cao được năng lực quản trị điều hành tương xứng với chuẩn mực của hệ
thống NH quốc tế.
Bên cạnh những thuận lợi trên NHTM cũng đang phải đối mặt với những thách thức hết
sức lớn cần phải giải quyết cấp bách như:
-Thực trạng tài chính yếu kém thể hịên ở vốn tự có thấp, vốn tự có trên tài sản có có điều
chỉnh theo tỷ lệ rủi ro trong giai đoạn 1996-2001 thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế là
8% nên hạn chế khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh-đầu tư, nợ xấu phát sinh từ thời
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />bao cấp và những năm đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường đã lên tới hàng ngàn tỷ đồng
mà NHTM không thể tự bản thân mình giải quyết xong trong một thời gian ngắn; trong khi
đó lộ trình mở cửa trị trường tài chính-tiền tệ theo các hiệp định quốc tế đã đựoc Chính Phủ
thông qua và theo thời gian, các "rào cản"trong lĩnh vực tài chính-NH sẽ dần được dỡ bỏ.
Tiềm lực tài chính yếu kém là đặc điểm chung của hệ thống NHTM Việt Nam nhưng đây lại
là thế mạnh của hệ thống NH nước ngoài nhất là với các NH Mỹ.
-Nguồn vốn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nên hạn chế việc tham
gia đầu tư vào các công trình trọng điểm của quốc gia, của ngành và địa phương; trong khi
thực tiễn cho thấy rằng việc đầu tư vào các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thì rủỉ ro
sẽ thấp hơn đầu tư thông thường, bởi lẽ các dự án đầu tư này thường có sự hỗ trợ và ưu đãi
của Chính Phủ về thuế và vốn, về kỹ thuật, tiền thuê đất,vv..
-NHTM có nguồn vốn tiền gửi ngoại tệ lớn và chủ yếu bằng USD, nhưng vốn để đầu tư
trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ, còn đa số là gửi ở NH nước ngoài nên dễ bị tác động bởi các
yếu tố về chính sách tiền tệ tỷ giá hối đoái của nước ngoài mà đặc biệt là của Mỹ. Nguồn tiền
gửi ngoại tệ lớn nhưng chưa linh hoạt trong chuyển đổi sử dụng nên đã có nhiều lúc xảy ra
nghịch lý"vốn ngoại tệ thừa" trong khi "tiền đồng Việt Nam " đã làm hạn chế hoạt động kinh
doanh.

-Trình độ công nghệ NH còn thấp, việc ứng dụng còn nhiều bất cập, cơ cấu sản phẩm dịch
vụ NH chưa đa dạng.
-Trình độ quản trị điều hành chung về các mặt chỉ mới ở mức trung bình nếu so với hệ thống
NH quốc tế.
-NHTM chưa có chi nhánh ở nước ngoài trong khi đó nhiều NH nước ngoài đã có chi nhánh
và đang ngày một mở rộng hoạt động tại Việt Nam.
2.3 Những nội dung chủ yếu trong cạnh tranh của các NHTM khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12 năm 1986 Đảng ta có chủ trương đổi
mới kinh tế ,phát triển kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta động viên toàn dân cố gắng phát riển sức mạnh nội lực sẵn có trong nước và đẩy
mạnh các quan hệ hợp tác kinh tế với bên ngoài , tham gia quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Từ đó nền kinh tế nước ta đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong thập niên 90.
Đại hội ần thứ chín vừa qua lại một lần nữakhẳng định và nhấn mạnh hơn là phải chủ động
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế không phải là mục tiêu mà là phương tiện
chúng ta lợi dụng các nguồn lực bên ngoài để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp
ứng yêu cầu của nước ta trong quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa
nước ta thàh nước công nghiệp hiện đại giàu mạnh. Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội
trong 10 năm tới của nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
XHCN, xây dựng nền tảng để năm 2010 nứoc ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với
mục tiêu là đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất và văn hóa tinh thần của nhân dân ta.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế phù hợp với ý tưởng của Đảng, với công
cuộc đổi mới kinh tế của nước ta, toàn bộ hệ thống NH Việt Nam đã được đổi mới cơ cấu lại
mạnh mẽ, chuyển từ hệ thống NH một cấp sang hệ thống NH hai cấp, mọi hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ NH phải tuân thủ luật NH và luật các tổ chức tín dụng cũng như các
quy định khác của quốc tế..
Vậy nên hiểu những nội dung chủ yếu trong cạnh tranh của các ngân hàng thương mại là

gì?
Việc đầu cần làm là: Cơ cấu lại hệ thống NH Việt Nam nhằm mục đích nâng cao hiệu
quả hoạt động của NH. Đó là việc khôi phục lại khả năng trả nợ và khả năng thu lợi nhuận,
nâng cao chức năng trung gian tài chính giữa các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Nói
một cách đơn giản, việc cải cách hệ thống NH là cố gấng khôi phục tính cân đối giữa các
danh mục của bảng cân đối tái sản của NH. Cố gắng từ nay đến năm 2005 giải quyết dứt
điểm các khoản nợ bị rủi ro không đòi được và lhông để phát sinh nợ quá hạn.Bằng mọi
phương pháp để nâng cao vốn điều lệ lên ngang tầm mức của ngân hàng khu vực và toàn
cầu, muốn vậy phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.Nâng cao năng lực tài chính, phấn đấu nâng
chỉ số CAR đạy 6- 8% tổng tích sản vào năm 2005, với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình
quân trên 18% năm.
Việc thứ hai là: Sắp xếp cơ cấu lại bộ máy tổ chức và nâng cao năng lực bộ máy quản trị
điều hành ngân hàng. Phải đổi mới cơ chế điều hành tổ chức, các phòng ban bộ phận cho phù
hợp với ý tưởng một ngân hàng hiện đại. Tiến hành từ hội sở chính đến các chi nhánh, nói
một cách khác là kiện toàn cả hệ thống. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu kinh doanh
và hội nhập. Xây dựng mô hình quản lý từ trung ương đến cơ sở thoáng do phân cấp quản lý
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhưng lại chặt chẽ theo các quy chế và pháp luật. Bên cạnh đó mở rộng các mạng lưới đến
các tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế để cân đối được giữa hai nguồn vốn nội tệ và ngoại
lệ.
Việc thứ ba là: châm lo đội ngũ cán bộ, đào tạo cán bộ đủ trình độ một ncách kịp thời để
hoàn thành các yêu cầu của nhiệm vụ. Bên cạnh những cán bộ đã có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng đáp ứng được yêu cầu, cần tiếp tục đào tạo mới và bổ trợ các kiến thức,
kỹ năng vận hành, nghệ thuật kinh doanh nghiệp vụ kinh doanh, sáng tạo các sản phẩm mới
để khi hội nhập quốc tế không bị động.
Việc thứ tư là: Hoàn thiện khuân khổ pháp lý, quản lý và giám sát; các quy chế an toàn
cùng vơi sự giám sát hiệu quả phù hợp với các quy định đó là rất cần thiết để đảm bảo vận
hành hệ thống NH hoạt động một cách có hiệu quả trong tương lai. có rất nhiều các quy định
về việc gửi tiền, giao dịch ngoại tệ, bảo hiểm tiền gửi, về các điều kiện cho phép can thiệp

vào các NH( bao gồm việc xác định phạm vi và trách nhiệm của ban thanh tra của NH Nhà
nước đã được ban hành tuy nhiên còn nhiều việc cần làm, như về lĩnh vực phân loại các
khỏan vay trích lập rủi ro để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và tính công khai, chính xác của báo
cáo tài chính tại các NH. tăng cường khả năng giám sát của các NHTƯ là yếu tố quan trọng
đẩy mạnh các NH hoạt động hiệu quả. Các tiêu chuẩn kế toán phản ánh trung thực tình hình
tài chính của NH là điều kiện tiên quyết để giám sát mọi cách có hiệu quả. Việc giám sát cần
dựa trên các rủi ro và thanh tra tại chỗ cũng như kiểm tra gián tiếp thông qua hệ thống kế
toán và kiểm toán. Để đảm bảo việc này các tiêu chuẩn kế toán Việt Nam cần phù hợp với
các tiêu chuẩn kế toán quoóc tế (IAS) để đảm bảo thông tin trung thực và chính xác về tình
hình tài chính của NH. Đặc biệt, việc phân loại các khoản vay và trích lập quỹ dự phòng rủi
ro của các NH cần phản ánh rủi ro Tín dụng cho các khoản vay nhưng quy định về kế toán
hiện hành không cho phép đìêu đó. Việc cải thiện hơn nữa khung pháp lý cũng lên kế hoạch
để giải quyết các khoản nợ có vấn đề.
Việc thứ tư là tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các NH: các chương trình cải
cách của chính Phủ nhằm tăng khả năng cạnh tranh giữa các NH, nhưng dự kiến sẽ tiến hành
từ từ và có quản lý điều tíêt. các NH đã thực hiện được phép cạnh tranh qua giá cho vay bởi
lãi suất đã được thả nổi trong thời gian cho phép.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Qua thực tế cần khẳng định rằng: Việt Nam đẫ đứng vững trước những ảnh hưởng của các
cuộc khủng hoảng khu vực. Điều đó có được là nhờ Việt Nam trong tiến trình thực hiện cơ
cấu lại hệ thống NH đã luôn thận trọng, xây dựng được kế hoạch ngắn hạn và dài hạn cho
cuộc cải cách, phát huy mọi chính sách kinh tế tầm vi và vĩ mô, không mạo hiểm để đạt được
mức tăng trưởng cao nên đã tránh được khủng hoảng về cán cân thanh toán, ngân sách và
NH. Nó là điều kịên thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình cải cách hệ thống NH, là bài học
kinh nghiệm quá báu để chúng ta có thể vạch ra được hướng đi tốt cho hệ thống NH quốc
gia.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Hệ thống NH Việt Nam đã được đổi mới một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi
từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Từ mô hình hệ thống NH của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang mô hình
NH của nền kinh tế thị trường, mô hình tổ chức có sự thay đổi căn bản đó là cách biệt chức
năng quản lý hoạt động tiền tệ, Tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các
loại hình NH, từng bước xoá bỏ độc quyền chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà
nước. Kể từ đầu năm 90 hệ thông các NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và
nghiệp vụ, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Bên cạnh hai NH Ngoại thương và NH Đầu tư phát triển được hình thành từ trước đã có
thêm hai NH chuyên doanh NH Nông nghiệp và Ngân hàng công thương Việt Nam, có bốn
NHTM quốc doanh; ngan hàng Ngoại thương, Ngân hàng công thương, NH Đầu tư và phát
triển, NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây là những NHTM lớn của VIệt Nam.
Trong giai đoạn đầu, các NHTM quốc doanh phải hoạt động trong môi trường khó khăn:
gánhchịu việc xử lý các tồn đọng nặng nề của cơ chế cũ, tình hình tài chính mất cân đối nợ
quá hạn, khê đọng khó đòi cao do các tổ chức kinh tế làm ăn thua lỗ, lạm phát cao, lãi suất
thực âm, tỷ giá ngoại tệ còn bao cấp.
Đến đầu năm 1990, cả nước đã có tới 15 NHTM cổ phần và các hợp tác xã Tín dụng do các
cấp chính quyền thành lập ở cả thành thị và nông thôn. Trong môi trường chưa ổn định, các
tổi chức tín dụng này đều còn non nớt, tình trạng mất khả năng chi trả của nhiều tổ chức tín
dụng đã làm mất lòng tin của dân chúng. Đến quý I 1990 với 791 tỷ đồng đã cho vay thì 510
tỷ đồng quá hạn và đến quy III năm 1990 hầu hết các tổc chức tín dụng lâm vào tình trạng
mất khả năng chi trả.
Tháng 5 năm 1990, hai pháp lệnh NH( phấp lệnh NHNN, pháp lệnh NH hợp tác xã Tín dụng
và công ty tài chính) ra đời là bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của hệ thống NH.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hai pháp lệnh NH đã khẳng định hệ thống NH là NH hai cấp bao gồm NH NN và NHTM,
hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính...vv... pháp lệnh đã khẳng định tính đa hình thức sở
hữu, đa loại hình đa thành phần và kinh doanh đa năng của hệ thống NHTM. Pháp lệnh đã
mở đường cho quả trình phát triển các loại hình NH tại Việt Nam, bao gồm NH quốc doanh,
NHTM cổ phần, NH liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, chi nhánh NH nước ngoài tại
Việt Nam.
Được xây dựng từ năm đầu chuyển đổi cơ chế, pháp lệnh đã không thể đáp ứng yêu cầu
phát triển của hệ thống tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn nửa sau của những năm 90.
Trước tình hình đó, Quốc hội đã thông qua luật về NHNN và luật về các tổ chức tín dụng.
Luật các tổ chức tín dụng đã tạo mội trường pháp lý mới cho sự phát triển của các NH.
Các NHTM mở rộng đối tượng phục vụ cho mọi thành phần kinh tế, mở rông thị trường.
Nhiều nghiệp vụ NH mới bước đầu được thực hiện như nghiệp vụ cầm đồ, chiết khấu các
giấy tờ có giá , tài trợ bán hàng trả góp, Tín dụng thuê mua, đấu thầu tín phiếu kho bạc, hùn
vốn mua cổ phần các doanh nghiệp vv....
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, các NHTM bỏ giần các cấp trung gian, tách biệt giàn
các hoạt động chính sách và hoạt động thương mại, tăng tính độc lập tương đối cho các chi
nhánh, mạnh giạn đổi mới công nghệ phù hợp với yêu cầu quản lý kinh doanh nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng, bước đầu tạo lập các công ty con triển khai nhiệm vụ mới.
Từ năm 1994 trở về trước, NHTM vừa làm nhiệm vụ kinh doanh, vừa làm công tác cấp
phát , cho vay ưu đãi vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là không hợp lý.
Bắt đầu từ năm 2000, thực hiện nghị định43/1999/NĐ-CP, để đảm bảo thống nhất về cơ chế
cho vay, đầu mối cho vay được tập truntg tại Qỹu hỗ trợ phát triển. Nhưng thực tế, hiện nay
vẫn tồn tại 5 đầu mối cho vay là: Quỹ hỗ trợ phát triển và 4 ngân hàng thương mại Nhà nước.
Điều này đã làm cho cơ chế vay trả không hoàn toàn giống nhau, dẫn đến việc không có một
đầu mối nào tổng hợp, phân tích, định hướng phát triển trong quá trìng thực hiện. bên cạnh
đó hệ thống NHTM Việt Nam cũng có một số mặt hạn chế khác nữa:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.1 Quy mô vốn của các NHTM Việt Nam.
Một cách khái quát có thể đánh giá về tình hình tài chính của các NHTM Việt Nam như
sau:
Thứ nhất: Năng lực tài chính bị hạn chế.
Năng lực tài chính của các NHTM trước hết phải thể hiện ở các điều lệ của các ngân hàng.
Nhưng ở các NHTM Việt Nam ,kể cả ở các ngân hàng NHTM quốc doanh, vốn này còn quá
nhỏ so với tổng tài sản của từng ngân hàng so với" thông lệ quốc tế" . Tính đến năm 1999,
NHTM quốc doanh kớn nhất của Việt Nam là ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn, vốn điều lệ chỉ có 2200 tỷ VND, còn các NHTM QD khác chỉ kà 1100 tỷ VND. Nếu
lấy tỷ giátại thời điểm này 1USD = 14000VND thì vốn điều lệ của NHTM trên chỉ tương
đương với 157,14 triệu USD và 78,57 USD, còn các NHTMCP thì vốn điều lệ chỉ tương
đương 3 triệu USD. Dó là một số vốn qua nhỏ so với một vài NHTM trung bình của các
nước trong khu vực và thế giới. Vốn tự có của một số NHTM trung bình trên thế giới: Public
Bank Malayxia
964 triệu USD ; Hôngkông Shanghai Banking Corporation 25,78 tỷ USD Citibank 21 tỷ
USD...(Nguồn :NHVN qua các giai đoạn lịch sử-TL hội thảo khoa học- viện
NCKHNH/2001).
Theo thông lệ quốc tế, để đánh giá sự an toàn về tài chính của NH, người ta so sánh giữa vốn
tự có với tổng tài sản có. Tỷ trọng này phải đạt tối thiểu là 8%. Nhưng ổ Việt Nam tỷ trọng
này là rất thấp.
TT

Các Ngân Hàng Thương Mại Quốc %Vốn tự có/tổng TS

1

doanh

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển 5,5


2

nông thôn
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

2,6

3

Ngân hàng Công thương

2,4

4

Ngân hàng Ngoại thương

2,2

(Nguồn: báo cáo của NHNNVN năm 1999)
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Như vậy với nhiệm vụ kinh doanh tên phạm vi cả nước với yêu cầu của sự phát triển và
hội nhập, thì năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam còn quá nhỏ bé. Khản năng về an
toàn Tài chính là chưa cao.
Thứ hai: chất lượng tài sản có còn thấp.
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản có.Nhưng chỉ tiêu trực quan nhất là "dư
nợ tín dụng". Trong những năm vừa qua, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế "dư nợ tín
dụng" của các NHTM cũng tăng lên đáng kể. Đó là một biểu hiện khích lệ.
Tuy nhiên phân tích thực trạng "dư nợ tín dụng", thì có thể thấy ngay những cảnh báo

đáng lo ngại, đó là:
-Tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay còn lớn. Tổng dư nợ của cả hệ thống
NHTM hiện nay có khoảng 140 000 tỷ VND, trong đó nợ quá hạn khoảng 20.000 tỷ VND
chiếm trên 14%. Trong số này nợ khó đòi và không có khả năng thanh toán khoảng trên
9.000 tỷ VND, chiếm 45% tổng dư nợ quá hạn. Khả năng sinh lời của các khoản tín dụng
trên là tháp, nhuq vậy chất lượng tín dụng của các NHTM là chưa cao.
-Các NHTM chủ yếu là NHTMQD, bị các DNNH chiếm dụng vốn nhiều. Hiện tại tổng
số vốn của DNNH vốn vay ngân hàng chiếm 85%. Nhưng trong tổng số dư nợ nêu trên, thì
nợ quá hạn của DNNH chiếm 68%. Như
vậy các DNNH sử dụng vốn của các NHTMQD kinh doanh, nhưng lại không trả được
nợ, như vậy sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế là chưa có hiệu quả.
-Chính phủ còn can thiệp quá sâu vào hoạt động tín dụng của các NHTMQD. Vì vậy
mà có nhiều khoản mà ngân hàng phải cho vay "không đảm bảo", phục vụ các chính sách
của Nhà nước, như cho vay người nghèo, cho vay tôn nền, làm nhà trên cọc( Đồng bằng
sông Cửu long ), cho vay khắc phục hậu quả lũ lụt, cho vay sinh viên nghèo, cho vay giảm
lãi suất với vùng núi, hải đảo...Tổng số các đối tượng cho vay nêu trên, tính đến 31/12/1999
của NHNo đã phải dùng vốn kinh doanh để cho vay chính sách, thực chất là mang tính cấp
phát tài chính. Khoản dư nợ này chắc chắn còn "treo" tương đối dài tên bảng cân đối tài sản
của NHNo.
Chất lượng tín dụng đơn cử như trên, rõ ràng đã góp một phần không tích cực vào tình
trạng ANTC trong hoạt động của các tổ chức TDNH

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.2. Các dịch vụ ngân hàng;
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp.
Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội
có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
1.2.1. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện đó là trao đổi (mua bán)

ngoại tệ- một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng
phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay, mua bán ngoại tệ thường do các ngân hàng
lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thừi yêu cầu phải
có chuyên môn cao.
1.2.2Nhận tìên gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các NH đã tìm mọi cách để huy
động được tiền. Một trong nhuẽng nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi(thanh toàn và tiết
kiệm của khách hàng ). NH mở dịch nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền vay với cam
kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các
NH đã trả lãi cho tiền như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu
tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã
có những kỷ lục về lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiếtư kiệm nhằm mục đích
cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
1.2.3 Cho vay.
+ Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối
với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước ). Sau
đó là chuyển tiếp từ triết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng
( là người mua ) , giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ sản xuất kinh doanh.
+Cho vay tiêu dùng.
Trong giai đoạn đầu hầu hết các NH không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia
đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng
thu nhập của người tiêu dùng và cạnh tranh trong cho vay đã buộc các NH phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín
dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các
nước có nền kinh tế phát triển.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên

năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công
nghệ cao. Độ rủi ro trong loại hình Tín dụng này nói chung là cao song lãi suất lại lớn. Một
số ngân hàng còn cho vay đầu tư vào đất.
1.2.4 Bảo quản vật có giá.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận( giấy chứng nhận
do NH phát hành ). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chưng nhận, nên giấy chứng
nhận đã được sử dụng như tiền-dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng
của NH phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng
kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tìn vào NH để đổi lấy giấy chứng nhận của NH.
Đó là hình tbhức đầu tiên của giấy bạc NH. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và
khách hàng phải trả chi phí bảo quản.
1.2.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hịên thanh toán.
Khi các doanh nhân gửi tiền vào NH, họ nhận thấy NH không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả cho khách hnàg của họ. Thanh toán qua NH đẫ mổ đầu cho thanh
toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến NH để lấy tiền mà chỉ
phải viết giấy chi trả cho khách hàng (còn gọi là SEC), khách hàng mang giấy đến NH để
nhận được tìên. Các tiện ích của than toán không dùng tiền mặt( an toàn, nhanh chóng chính
xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho
doanh nhân. Khi NH mở chi nhánh thanh toán qua NH được mở rông phạm vi, càng tạo
nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích cho các doanh nhân gửi tiền
vào NH để nhờ thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó
là tài khoản tiền gửi để giao dịch (demand deposit), cho phép người gửi tiền viết SEC thanh
toán cho việc mua hàng hoá và dịch v. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem
là một trong những bước đi quan trọng nhất trong nghiệp NH. Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu,
L/C, thanh toán bằng điện, vv...
1.2.6 Quản lý ngân quỹ.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các NH mở tài khoản và dữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, NH thường

hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việ

nhiều NH đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó NH đồng ý quản lý việc thu

một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sin

dung ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của NH đã trở thành trọng tâm chú ý của các

do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn

các khoản cho vay của NH. Trong điều kiện các NH tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro

phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của những NH lớn. Khi NH trung ươn

Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được những khoản tín dụng lớn. Ngà

phủ dành quyền cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát các NH. Các NH được cấp giấy phép thành lập v

là họ cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. C

mua trái phiêú Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà NH huy động được; ho
văy với điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính Phủ.
1.2.8 Bảo lãnh.
Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển
mạnh.NH thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị,
phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác vv...

1.2.9 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn.
Nhằm dể bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn nhiều hãng sản
xuất và thương mại đã cho thuê(thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có
thể mua (do vậy còn gọi là hợp đông thuê mua). Rất nhiều NH tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,
trong đó NH mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bẩo
yêu cầu khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của NH cũng có
nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.2.10 Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các NH có rất nhiều chuên gia về quản lý tài
chính. Vì vậy , nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ NH quản lý tài sản và quản lý hoạt
động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thác phát hành, uỷ thác đầu tưvv...thậm chí, các NH đóng vai trò là người dược uỷ thác trong
di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các
tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi NH như một chuyên gia tư vấn tài chiónh. NH sẵn
sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.2.11 Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khóan.
Nhiều NH đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng
thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các NH bắt đầu bán các
dịch vụ mộ giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán khác. Trong
môt vài trường hợp, các NH tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng
khoán.
1.2.12 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiềunăm nay, các NH đã bán bảo hiểm cho khách hàng điều đó bảo đảm việc
hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất
khả năng thanh toán.
2.13 Cung cấp dịch vụ đại lý.

Nhiều NH trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở
khắp mọi nơi. Nhiều NH(thường NH lơn) cung cấp dịch vụ NH đại lý cho các NH khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm NH đầu mối trong đồng tài trợ vv...
1.3 Công Nghệ Ngân Hàng.
Trong thời gian qua ,các ngân hàng thương mại đều nhận thức được vai trò hết sức
quan trọng của công nghệ thông tin đối với kịnh doanh ngân hàng. Công nghệ ảnh hưởng
quyết định tới việc phát triển sản phẩm, chất lượng sản phẩm và phương thức phân phối sản
phẩm đến khách hàng. Khả năng quản lý ngân hàng, khả năng quản lý rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ công nghệ cuả ngân hàng. Chính vì thế các
NHTM đã không ngừng củng cố và hoàn thiện để thích ứng vứi nền kinh tế thị trươngf, đều
nỗ lực đổi mới công nghệ, cung cấp các dịch vụ ngân hàng mới và đào tạo đội ngũ nhân
viên. Đặc biệt nhận thức được rằng cung cấp dịch vụ NH sẽ là hoạt động kinh doanh then
chốt của các NHTM trong bối cảnh hội nhập các NHTM Việt Nam ngày càng chú trọng đến
việc cung cấp dịch vụ ngân hàng. Trong đó một số hình thức dịch vụ ngân hàng tiến có khả
năng được áp dụng và phát triển mạnh trong thời gian tới là dịch vụ ngân hàng trụn góicá
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhân( còn gọi là ngân hàng bán lẻ), dịch vụ ngân hàng điện tử(E-Banking) bao gồm một số
sản phẩm đặc trưng như tín dụng kinh doanh nhỏ, tín dụng tiêu dùng, thẻ tín dụng rút tiền tự
động, dịch vụ thanh toán chuyển tiền dịch vụ ghi có/ nợ báo trước(trả lương , thanh toán tiền
điện thoại, tiềnn nước...) tưvấn và đầu tư về dịch vụ khách. Tuy có nhiều dịch vụ tương đồng
nhưng dịch vụ ngân hàng điện tử chủ yếu hướng vào đối tượng khách hàng là doanh nghiệp,
các tổng công ty lớn. Đây cũng là yếu điểm cơ bản của hệ thống NHTM Việt Nam vốn dựa
chủ yếu vào tín dụng doanh nghiệp(bán buôn) kinh nghiệm của các nước trên thế giới là lợi
nhuận từ hoạt động của dịch vụ bán lẻ thường lớn hơn và khó kiểm soát hơn(lãi suất, doanh
số,lệ phí) so với bán buôn.
Ngoài ra, loại dịch vụ bán lẻ gắn chặt với cuộc sống hàng ngày của dân cư, chính vì
vậy dần tạo nên uy tín tốt về mặt kinh tế-xã hội của các NHTM. Tuy nhiên, có thể khẳng
định rằng đó mới chỉ là mục tiêu phấn đấu mà các NHTM Việt Nam cần phải nỗ lực cố gắng
để đạt tới thông qua việc khắc phục những hạn chế về: Quy mô vốn, dịch vụ NH, công nghệ

NH..vv..
1.4. Trình độ quản trị ngân hàng:
Có thể khẳng định rằng, trình độ quản trị có vai trò rất quan trọng đến kết quả hoạt
đọng kinh doanh của các NH. Tuy nhiên, đây vẫn luôn là yếu điểm của hệ thống NHTM của
Việy Nam. qua số liệu khảo sát của hai thời điểm 31/12/90 và 31/12/'97 cho thấy đang có sự
giảm mạnh về tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo giảm từ 39% xuống còn 22% năm 1997. Tong
khin đó, tỷ lệ lao động được đoà tạo trên đại học toàn ngành tăng đáng kể từ 20% lên 39%.
Tuy nhiên ,nếu so sánh với hệ thống ngân hàng của các nước khác thì tỷ lệ đại học và trên
đại học trong tổng số lao động của Việt Nam vẫn còn thýp hơn rất nhiều. Cuj thể, tỷ lệ này ở
Thái Lan là 65% .
Một trong những điểm yếu về trình độ của cán bộ ngân hàng xuất phát từ đặc thù hình
thành và phát triển, nguồn nhân lực do chuyển từ hệ thống cũ nên rất đông người chịu ảnh
hưởng khá nặng của tư tưởng kinh doanh bao cấp . Phần đông trình độ của cán bộ còn bất
cập, nhiều cán bộ chưa qua đào tạo cơ bản và trong số đó không ít người khó có khả năng
đào tạo lại, số khác tuy được đào toạ song hiểu biết rất hạn chế về kinh tế thị trường . Theo
đánh giá chung thì ngay cả trong số cán bộ có trình đọ cao vẫn còn một số bất cập như:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×