Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.75 KB, 16 trang )

I. phÇn MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI, là thế kỉ có nhiều biến đổi to lớn về
khoa học- công nghệ, bước tiến nhảy vọt về kinh tế. Tri thức có vai trò ngày
càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Phát huy trí tuệ, sức
mạnh của người Việt Nam: coi phát triển GD-ĐT và khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đáp
ứng yêu cầu quốc sách của Đảng, ngành GD đã thực sự đổi mới trên mọi mặt,
đặc biệt đổi mới về phương pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Đất nước ta đang bước vào kĩ nguyên mới: “Kĩ nguyên hội nhập kinh tế
quốc tế” đầu tư vào chất xám sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất, đòi hỏi con người
phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động. Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT
đã và đang thực hiện phong trào: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà chúng ta rất cần
những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Vậy làm thế nào để có được những con người lao
động “hiện đại” này ? Chắc hẳn chỉ có giáo dục đào tạo mới trả lời được điều
này. Vì vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã xác định vai trò giáo dục đào tạo
là “Quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội”.Tuy nhiên, để
đạt được điều đó nền giáo dục Việt Nam phải có một hệ thống giáo dục quốc dân
hoàn chỉnh và một cơ sở vững chắc là bậc giáo dục Tiểu học.
Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng - bậc học đặt nền móng cho sự
hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu
về tự nhiên xã hội, phát triển các năng lực nhận thức. Trong chương trình môn
học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò quan trọng.Toán học là môn
thể thao của trí tuệ, giúp ta trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, rèn luyện tính thông minh, sáng


tạo.... điều này thể hiện rõ nét qua qua việc giải toán.

1


Giải toán là thước đo của việc nắm lý thuyết , trình độ tư duy, tính linh hoạt
sáng tạo của học sinh. Giải toán có lời văn giúp học sinh tư duy một cách tích
cực, linh hoạt để huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình
huống khác nhau, cũng có trường hợp yêu cầu học sinh phải biết phát hiện
những dự kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong
một chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ sáng tạo. Vì thế có thể coi giải toán là
một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh, tiếp
tục giúp các em phát triển tư duy, rèn tính cẩn thận chính xác, kiên trì vượt khó
chủ động sáng tạo để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển.
Kĩ năng giải toán có lời văn đã được các em làm quen ngay từ khi mới vào
lớp một, từ đó hình thành khả năng tính toán cơ bản cho các lớp sau. Nhờ giải
toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy. Rèn luyện
phương pháp suy luận, kỹ năng tính toán và những phẩm chất của người lao
động mới. Vì khi giải bài tập toán là một hoạt động bao gồm những thao tác mà
không thể thiếu đó là: xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và
cái cần tìm, thực hiện phân tích thích hợp, rút ra những kết luận và trả lời đúng
câu hỏi của bài toán. Giải quyết được một vấn đề đặt ra của một bài toán đòi hỏi
tư duy phải huy động tÝch cực. Bởi hình thành kỹ năng giải toán khó h¬n
nhiều so với kỹ năng tính, vì bài toán là kết hợp nhiều khái niệm, nhiều quan hệ
toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu giải rồi áp dụng mà đòi hỏi phải nắm
chắc khái niệm quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả
năng độc lập suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng, tính nhanh, khuyến
khích những học sinh có cách giải khoa học, ngắn gọn, chính xác. Dạy học giải
toán giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân

tích, tổng hợp rồi rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định.
Ở lớp 3, ngoài kiến thức tiếp nối các dạng toán đã học ở lớp 1, lớp 2. Các
em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp có từ hai phép tính trở lên. Mỗi
bước tính thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ giữa cái đã cho và cái
phải tìm. Kết quả phép tính ở bước thứ nhất sẽ là một thành phần của phép tính
ở bước giải thứ hai. Học sinh phải biết lựa chọn phép tính thích hợp với lời giải
đặc biệt các phép tính có lời giải còn ẩn.
Qua thực tế khi dạy giải toán có lời văn ở lớp tôi một số em vẫn còn hạn
chế. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn, trăn trở muốn tìm ra
một số biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong
2


phần giải toán có lời văn nhằm nâng cao trình độ nhận thức, góp phần nâng cao
chất lượng toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện
nay của ngành và của nhà trường.
Từ những lí do thực tế trên, tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu đề tài kinh
nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn
lớp 3”.
1.2 Điểm mới của đề tài.
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời
văn lớp 3” là một đề tài đã được rất nhiều tài liệu nói đến nhưng riêng ở Trường
TH tôi đang công tác thì đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết thành
đề tài kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn trình bày đề tài nghiên cứu
này.
Điểm mới trong đề tài là tôi đã thực hiện vận dụng điểm mới của mô hình
lớp học VNEN về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay đổi không
gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo cơ hội cho học sinh có sự
trao đổi, tự tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở
giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành.

1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Vì điều kiện thời gian và sự phân công công tác nên phạm vi của đề tài
chỉ nghiên cứu trong lớp học tôi đang chủ nhiệm (lớp 3D).
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3D.
Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp
nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn
chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán về
nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn” nhưng
phải thực hiện phép tính trừ; với đề toán dùng từ “ít hơn” lại thực hiện bằng
phép tính cộng. Đối với các dạng toán như vậy các em nắm chưa thành thạo, tìm
phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang cuối đợt một, các em
bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng toán có hai phép tính trở
lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời giải thứ hai còn lời giải thứ
nhất đòi hỏi các em phải tư duy để tìm. Vì vậy nếu lời giải thứ nhất sai dẫn đến
3


cả bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng môn toán với 23 học sinh của
lớp 3D, qua một số đề toán với kiến thức tổng hợp. Kết quả điểm của bài kiểm
tra đều đạt theo yêu cầu song điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải
toán có lời văn tỉ lệ các học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán
trên lớp đến phần “ giải toán có lời văn” đa số các em đều hoạt động cá nhân
nên kĩ năng phân tích đề còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn
đề bài toán cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để tìm các bước giải.Vì vậy
mà khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán.
Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả đem lại chưa
cao. Bên cạnh đó, nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan tâm đến
việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học vấn của đa
số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong việc dạy con

học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng.
Sau đó, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của lớp cụ
thể là:
Qua thực tế khảo sát, kết quả điều tra:
Lớp

Chất
lượng

3D

Giỏi
Khá
T.bình
Chưa
đạt

Tóm tắt bài toán
Số lượng
%

2
8
7
6

8.7
34,8
30,4
26,1


Phân tích bài toán
Số lượng
%

2
6
10
5

8,7
26,1
43,5
21,7

Giải bài toán
Số lượng
%

2
6
10
5

8,7
26,1
43,5
21,7

Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát cho thấy: Tỉ lệ học sinh nắm và

giải được bài toán còn thấp, tỉ lệ học sinh phân tích bài toán và chưa giải đúng
còn nhiều. Trong quá trình dạy học trên lớp tôi nhận thấy những hạn chế của học
sinh trong qua trình học và làm bài là: Ngôn ngữ toán học còn hạn chế. Khả
năng nhận dạng các dạng toán của học sinh còn lúng túng, chưa tìm đúng lời
giải thứ nhất, dẫn tới làm sai bài. Chưa chịu khó học tập, chưa mạnh dạn nêu ra
những thắc mắc với thầy cô giáo. Luôn có thái độ che dấu những điều chưa biết
của mình. Ý thức học tập chưa cao, tinh thần trao đổi với bạn bè, thầy cô còn
hạn chế.

4


Xuất phát từ thực trạng đó, là một giáo viên đứng lớp tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu và tìm một số biện pháp nhằm “Phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh khi dạy giải toán có lời văn lớp 3”.
2.2. Các biện pháp.
2.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng nhóm học tập thân thiện.
Hình thức tổ chức dạy học này có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học
sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết
được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học. Tạo thái độ học tập tích
cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác,
đề xuất với giáo viên những vấn đề vướng mắc cần giải đáp.
Giáo viên lập các nhóm học tập dựa vào năng lực học của từng học sinh,
sao cho mỗi nhóm đều có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu tham gia số lượng
từ 4 - 6 em. Hình thức hoạt động: Lần đầu giáo viên tổ chức, hướng dẫn các em
cách thức sinh hoạt, cách thức phân tích bài toán, cách thức kiểm tra các thành
viên trong nhóm để nhóm tự kiểm tra, thảo luận, giúp nhau trong việc giải toán
như: phân tích bài toán; tìm Các bước giải; lựa chọn phép tính phù hợp; sửa
chữa sai sót cho nhau trong quá trình giải toán. Giáo viên“Tập huấn” cho trưởng
nhóm về cách điều khiển các hoạt động của nhóm (như một giáo viên). Nhóm

trưởng biết cách phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao
cho các bạn đều được tham gia, đều phải thể hiện. Biết thay đổi linh hoạt vai trò
của các thành viên trong nhóm: là thư kí; là đại diện báo cáo kết quả. Biết động
viên khích lệ bạn còn chưa thực nhanh tay, nhanh mắt trong nhóm, tạo tính
mạnh dạn cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán “Một cửa hàng buổi sáng bán được 62 kg gạo, buổi
sáng bán được nhiều hơn buổi chiều là 18 kg gạo. Hỏi cả hai buổi cửa hàng đó
bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Bạn trưởng nhóm điều khiển nhóm mình như giáo viên đã hướng dẫn.
+ Cho các bạn đọc đề toán, nêu dự kiện của bài toán: bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?.
+ Tóm tắt bài toán: các bạn tự trao đổi để tìm xem tóm tắt bằng hình thức
nào cho phù hợp( sơ đồ hay ngôn ngữ...)
5


+ Thảo luận lập kế hoạch giải, cuối cùng là thống nhất cách thực hiện quá
trình giải. Các thành viên trong nhóm tự đưa ra câu hỏi và trả lời cho thích
hợp.
Như vậy, tất cả các bạn trong nhóm đều phải thực hiện tất cả các bước
theo trình tự. Từ đó nhắc nhở các bạn trong bài toán đã có dùng từ “nhiều hơn”
nhưng không phải hễ cứ thấy “nhiều hơn” là làm tính cộng, tránh quan niệm sai
lầm đó. Tiếp theo bạn nhóm trưởng yêu cầu các bạn tự giải bài vào vở. Huy
động kết quả ở trong nhóm bằng việc lần lượt các bạn đọc bài giải của mình để
cả nhóm đối chiếu, các bạn khác được nhiều lần kiểm tra lại câu lời giải, phép
tính và kết quả, khuyến khích các bạn có cách giải hay hơn ( lời giải khác), sau
đó báo cáo với giáo viên về kết quả sinh hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết.
Việc học nhóm đã giúp các em tự tin hơn bởi vì : “Học thầy không tày
học bạn”. Qua học nhóm đã giúp các em không bị gò bó, nâng cao kỹ năng giải
toán hơn - tạo cho các em có niềmvui trong học toán. Ích lợi của biện pháp này

là giáo viên đỡ tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế của học sinh
để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với nhau hơn, mạnh
dạn trong giao tiếp, hình thành thói quen và kỹ năng phân tích, kỹ năng giải
toán, điều quan trọng là tạo cơ hội để các em tự nói lên những suy nghĩ của
mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ đó các em có niềm say mê,
hứng thú khi học toán hơn.
2.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường, không gian lớp học.
Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẫm mĩ,
sư phạm, các em sẽ tự giác tích cực hơn khi được sống trong môi trường thân
thiện. Học sinh tiểu học với tâm lý lứa tuổi hiếu động, thích sự thay đổi nên
thường có cảm giác bị áp lực học tập trong một môi trường: Thầy giảng trò
nghe; thầy đọc trò chép. Trong những năm học gần đây, tất cả các trường đang
thi đua xây dựng mô hình : “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Hình
thành môi trường bạn hữu thân thiện, học sinh biết giúp đỡ nhau, yêu quý trường
lớp, giữ gìn môi trường xanh-sạch-đẹp.
Lớp học là nơi các em học tập cũng là nơi các em tự do thể hiện sự sáng
tạo của mình qua việc sắp xếp các dụng cụ học tập, sản phẩm do chính bàn tay
các em cũng như cha mẹ hay thầy, cô giáo tạo ra. Từ đó giúp các em hào hứng
hơn trong mỗi hoạt động học đường. Các em sẽ tự giác và tích cực học tập hơn
6


khi được sống trong môi trường thân thiện. Đổi mới không gian lớp học, xây
dựng không gian lớp học thân thiện bằng cách xây dựng các góc học tập, góc
thư viện, góc môi trường, góc hỗ trợ các hoạt động giáo dục.......phù hợp với
khoảng không gian lớp học, thuận tiện trong sử dụng. Đối với môn toán, góc học
tập là nơi trưng bày trang thiết bị đồ dùng dạy học, các sản phẩm học tập của
học sinh. Trong góc đó là những đồ vật, thiết bị gần gũi với các em như êke,
compa, những mô hình, những vật thật và cả những thiết bị, đồ dùng do các em
tự làm...… Chính những đồ vật đó đã giúp học sinh lĩnh hội được những kiến

thức trừu tượng trong hoạt động học tập. Khi nhìn những đồ dùng học tập đó,
học sinh thấy tái hiện lại quá trình sử dụng đồ dùng học tập, thấy chúng trở nên
thân thiện thú vị hơn vì đấy chính là những đồ vật đã đồng hành trong việc giúp
các em học tập.
Thay đổi không gian lớp học ở đây còn thể hiện ở việc thay đổi tư thế
ngồi học. Lớp học bây giờ được thay thế bằng các nhóm học tập. Bàn ghế được
sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được ngồi đối
diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các em trong
học tập. Vị trí ngồi trong nhóm cũng được thay đổi thường xuyên theo từng tiết
học, buổi học. Không gian này có thể thay đổi từng tuần tùy theo đặc trưng của
từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi vị trí, tránh trường hợp
ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài.
2.2.3. Biện pháp 3: Đổi mới phương pháp dạy học.
Trong dạy học “Không có phương pháp nào là vạn năng” song người giáo
viên phải biết lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng tiết học giúp học sinh
tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tạo nên tiết học sinh động, giải
quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm
được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác nhau
giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để nâng cao hiệu quả dạy học,
người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp với
khả năng tiếp nhận của học sinh mình.
Thông thường khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán giáo viên cho học
sinh đọc đề, phân tích bài toán và gợi ý cách giải, sau đó cho học sinh giải bài
vào vở.
7


Để học sinh chủ động trong việc tìm cách giải bài toán, giáo viên cho học
sinh đọc đề toán sau đó giao việc cho học sinh thảo luận theo nhóm để phân tích

bài toán, tìm cách giải bài toán và trình bày ý kiến trước lớp, giáo viên cho các
nhóm bổ sung và thống nhất cách giải.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán: “Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng
thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu
lít dầu?”.
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo
luận phân tích bài toán, học sinh trình bày ý kiến phân tích của nhóm theo hình
thức đàm thoại:
- Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng
nhiều hơn 6 lít dầu).
- Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu).
- Các nhóm tự thảo luận tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng
cách:
+ Đặt câu hỏi phụ để lập bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực
hiện phép tính đó.
+ Sau đó lập bài toán đơn thứ hai bằng cách sử dụng kết quả của phép tính ở
bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
Dựa vào phân tích bài toán như trên học sinh tiếp tục trình bày cách giải bài
toán:
Bài giải:
Thùng thứ hai đựng được :
18 + 6 = 24 ( l).
Cả hai thùng đựng được :
18 + 24 = 42 ( l).
Đáp số: 42l dầu.
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên cho các nhóm nhận xét cách trình
bày lời giải trong mỗi phép tính để chọn lời văn chính xác cho mỗi phép tính của
bài giải.
8



Giáo viên có thể cho học sinh trình bày nhiều lời giải khác và chú ý lời
văn trong mỗi cách nêu lời giải để hình thành kỹ năng diễn đạt các bài
toán có lời văn.
Đối với những bài toán khó giáo viên cần giành thời gian nhiều hơn
hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ bài toán. Gợi mở để học sinh hiểu đề bài và gợi
ý cho học sinh khá giỏi làm không nên bắt buộc học sinh yếu làm.
Để giúp học sinh học tốt nâng cao chất lượng giải toán có lời văn, giáo
viên không nên tự xem vốn kiến thức của mình là thoả mãn, giáo viên phải phát
huy vai trò tự học, tự rèn học những phương pháp giải toán, thường xuyên giải
bài toán khó, đọc tạp chí tiểu học, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh lớp 3 nhằm
trang bị cho mình những kiến thức toán học bổ ích. Tham gia các lớp nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người giáo
viên trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh giáo
viên đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu hỏi
khác nhau. Đó là những câu hỏi về hiện tượng, sự kiện, câu hỏi đòi hỏi nhớ lại,
đòi hỏi nhận thức cao hơn và biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó đặc biệt là trong
các tiết luyện tập thực hành.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán
“Một hình vuông có chu vi 2m 4dm. Hỏi hình vuông đó có diện tích bằng
bao nhiêu xăng – ti – mét – vuông?”
- Đề toán này nhằm nâng cao một bước năng lực của học sinh trong hoạt
động giải toán.
- Bằng hệ thống câu hỏi phát vấn dẫn dắt học sinh đến với đề toán.
Bài toán cho biết gì? (Câu hỏi tìm dữ kiện).
Bài toán yêu cầu ta phải làm gì? (Tìm ẩn số).
Học sinh muốn giải bài toán này cần phải chuyển hai đơn vị đo về một
đơn vị đo nhỏ hơn, giáo viên phải đặt câu hỏi:
Hai đơn vị đo liền nhau hơn kém nhau bao nhiêu lần? (Đòi hỏi học sinh

nhớ lại).

9


Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào? (Câu hỏi đòi hỏi học sinh suy
luận).
Giáo viên cần chọn những bài toán có nội dung thực tế để giúp học sinh
nắm vững kiến thức và tăng cường khả năng vận dụng kiến thức cho học sinh.
2.2.4 Biện pháp 4: Dạy học theo hướng phân hóa.
Trong một lớp học thường có tất cả 4 đối tương (giỏi, khá, trung bình, yếu)
vì vậy đòi hỏi người giáo viên hết sức linh hoạt, sáng tạo để thiết kế bài dạy phù
hợp với các đối tượng, tránh học sinh giỏi cảm thấy nhàm chán khi bài quá dễ,
còn học sinh yếu lại thấy mệt mỏi, chán học khi bài quá khó, không thể làm
được. Trong một tiết học chúng ta phải tạo cho tất cả các em hoạt động dù học
sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào hoạt động học.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán:
Hình chữ nhật có chiều dài 12cm,chiều rộng 6cm. Hình vuông có cạnh là
9cm.
a. Tính chu vi mỗi hình. So sánh chu vi hai hình đó.
b. Tính diện tích mỗi hình. So sánh diện tích hai hình đó.
Trước hết tôi cũng hướng dẫn các em phân tích bài toán theo các bước.
Các nhóm đi vào thảo luận để tìm các bước giải. Phần giải bài toán tôi yêu cầu
các em trung bình, yếu dựa vào các quy tắc để giải được ý thứ nhất của câu a và
b, còn học sinh khá, giỏi giải bài toán hoàn chỉnh. Với cách giao việc như trên
nhằm giúp tất cả học sinh đều có thời gian làm bài bằng nhau, học sinh khá, giỏi
đủ thơi gian kèm cặp kiểm tra bạn yếu.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho các em các phong trào thi đua học tập
như: “ Xóa điểm yếu”; Phong trào “Đôi bạn cùng tiến”; Phong trào “ Hoa điểm
mười”. hướng dẫn các em thực hiện phong trào “Đi truy về xào” để các em giúp

nhau củng cố bài học.
2.2.5 Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi kết quả học tập
của học sinh.
10


Bất kể hoạt động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là công việc cần
thiết trong công tác giảng dạy của giáo viên. Các em ở lứa tuổi này còn ham
chơi, nếu giáo viên không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ lơ là
trong học tập. Bởi vậy giáo viên cần kiểm tra để động viên khuyến khích kịp
thời, tạo động lực học tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng năng,
biết phấn đấu vươn lên trong học tập, thấy được những thiếu sót của mình để
sữa chữa, khắc phục.
Ví dụ như ngoài những bài tập trong chương trình giáo viên có thể ra
thêm một vài bài toán có nhiều cách giải yêu cầu các em tìm ra nhiều cách giải
hay nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú thêm cho các em.
Ví dụ: có bài toán “Một cửa hàng có 950kg gạo. Ngày thứ nhất bán
116kg gạo, ngày thứ hai bán gấp 3 lần ngày thứ nhất. Hỏi sau hai ngày bán,
cửa hàng còn bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Với bài toán như vậy giáo viên hướng dẫn các em hướng dẫn giải rồi yêu
cầu các em tìm nhiều cách giải khác nhau.
* Hướng dẫn các em:
- Đọc kĩ bài toán: Đọc đề bài xem bài toán cho biết gì? hỏi gì?
- Lập kế hoạch giải:
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của ngày thứ hai.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của hai ngày bán.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo còn lại sau hai ngày bán.
- Sau khi hướng dẫn xong, yêu cầu các em về nhà giải bằng nhiều cách.
Giáo viên kiểm tra kết quả sau.
Cách giải 1:


Bài giải
Số ki-lô-gam gạo ngày thứ hai bán được:
116 x 3 = 348 (kg)
Số ki-lô-gam gạo cả hai ngày bán được:
11


116+ 348 = 464(kg)
Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại:
950 - 464 = 486(kg)
Đáp số: 486 kg gạo
Cách giải 2:

Bài giải
Ngày thứ hai bán được số ki-lô=gam gạo:
116 x 3 = 348 (kg)

Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại số ki-lô-gam gạo:
950 – ( 116 + 348 ) = 486 ( kg)
Đáp số: 486 kg gạo
Với bài toán trên, đối với những em tiếp thu nhanh thì có thể tìm ra nhiều
cách giải, Nhưng đối với những em tiếp thu bài còn non, các em giải được bài
toán quả là khó lắm rồi. Vì vậy giáo viên phải thường kiểm tra, theo dõi để
hướng dẫn thêm cho các em, kịp thời động viên các em tiến bộ, gần gũi, yêu
thương các em, tạo cho các em niềm tin để vươn lên trong học tập.
Thường đối với những em tiếp thu chậm khi giải đúng được một bài toán
các em rất phấn khởi, nếu các em được động viên kịp thời sẽ phấn khởi và tiến
bộ rất nhanh.
2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng mối quan hệ thầy trò bền chặt.

Tạo sự gắn kết, tin tưởng của học sinh đối với giáo viên. Tạo cho học sinh
lòng kính trọng, say mê học tập.
Để làm được vấn đề này giáo viên cần gương mẫu, xử sự công bằng yêu
thương, tôn trọng với các em. Giáo viên chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
Bằng những giờ dạy nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn dễ lôi cuốn các em tích cực
tham gia vào hoạt động học tập. Sẵn sàng chia sẽ những giải đáp, thắc mắc với
các em. Xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách hợp lý.
Biết động viên khích lệ HS bằng những lời khen ngợi khi các em có sự tiến bộ
dù là rất nhỏ để học sinh có được tự tin mà phấn đấu vươn lên.

12


Giáo viên phải nắm chắc được mặt yếu, mặt mạnh của từng học sinh, tạo
cho học sinh có điều kiện để giao lưu với bạn bè, với thầy cô. Khi học sinh bị
hỏng kiến thức ở đâu giáo viên không nóng vội mà cần có kế hoạch ôn tập bổ
sung ở đó. Tôi luôn thực hiện phương châm “Mưa dầm thấm lâu” đối với những
đối tượng học sinh chậm tiến bộ. Cho nên không chỉ cho các em kết quả bài toán
mà chủ yếu cho các em con đường để tìm ra kết quả - hay nói cách khác, dạy
cách học, cách suy luận cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán:
Để ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch men, mỗi viên
gạch hình vuông cạnh 10cm. Hỏi tính diện tích mảng tường được ốp thêm là
bao nhiêu xăng-ti-mét vuông?
* Từ ví dụ trên thầy - trò cùng thảo luận đưa ra một cách giải chung cho
dạng toán tương tự như vậy. Đây là một dạng toán khó trong chương trình Toán
3. Đa số học sinh nắm bài non, hoặc yếu rất lúng túng. Vì vậy giáo viên phải dẫn
dắt học sinh đi vào tìm từng bước giải một. Trong khi học sinh luyện tập, tôi
luôn theo dõi sát sao và giúp đỡ kịp thời, chấm bài, chữa ngay tại lớp và khen
ngợi động viên, đặc biệt là các em thiếu mạnh dạn. Một khi mối quan hệ bền

chặt thì niềm tin học sinh sẽ được nâng cao, ý thức tự học sẽ ngày càng được
củng cố, các em sẽ chăm học, trao đổi mạnh dạn với thầy cô giáo về bài tập mà
mình chưa hiểu từ đó thầy mới biết mình cần làm gì để giúp các em giải toán tốt
hơn.
2.2.7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học
sinh.
- Để nâng cao chất lượng, giáo viên chủ động gặp gỡ và trao đổi tình hình
học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình học tập
của con em mình để cùng hợp tác khắc phục. Có thể giới thiệu với phụ huynh
phương pháp giáo dục, cách hướng dẫn các em cách học ở nhà, tránh tình trạng
bắt các em học quá tải, hoặc xỉ mắng khi các em chưa làm được bài tập gây tổn
thương tinh thần cho các em, làm các em thiếu tự tin trong học tập
- Tế nhị với phụ huynh, tránh những lời chỉ trích con em họ.
- Cuối học kì, cuối năm học cần có đánh giá tổng kết, thông báo kết quả
tiến bộ của con em họ giúp học sinh cũng có nguồn động viên từ phía gia đình.

13


- Các em được thầy cô khen, cha mẹ động viên, khuyến khích thì sẽ có
niềm tin, sẽ có hứng thú hơn. Có như vậy kết quả dạy và học sẽ cao hơn.
Ngoài ra giáo viên phải chủ động, tích cực phối kết hợp để nhận được sự
hợp tác, ủng hộ của ban lãnh đạo, của tổ, khối chuyên môn. Phải tổ chức những
buổi sinh hoạt chuyên môn để bàn về biện pháp khắc phục cách giải toán. Kết
hợp với Hội khuyến học địa phương để làm tốt công tác kiểm tra đôn đốc việc
học bài ở nhà. Kết hợp với Hội phụ nữ để tuyên truyền cho các bà mẹ thấy được
tầm quan trọng của việc học để họ quan tâm hơn việc học của con em mình. Có
như vậy mới phát huy toàn diện tính tích cực của học sinh trong học tập và mọi
hoạt động.
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của

học sinh thông qua giải toán có lời văn lớp 3D.Tôi nhận thấy các em nắm được
yêu cầu bài toán, biết dùng câu hỏi để ghi tóm tắt bài toán. Biết phân tích tổng
hợp để tìm ra các bước giải bài toán, từ đó chất lượng giải toán đã được nâng
lên rõ rệt. Qua vận dụng các giải pháp trên, tại thời điểm khảo sát kĩ năng giải
toán của lớp tôi như sau.
Kết quả :
Lớp

Chất
lượng

Tóm tắt bài toán
Số lượng
%

Phân tích bài toán
Số lượng
%

Giải bài toán
Số lượng
%

Giỏi
8
34,8
7
30,4
7
30,4

Khá
9
39,1
11
47,9
11
47,9
3D
T.bình
6
26,1
5
21,7
5
21,7
Chưa
0
0
0
0
0
0
đạt
Kết quả khảo sát thấy các em tiến bộ rất nhiều. Các em nắm được ba yếu
tố của bài toán. Biết giải các bài toán có lời văn.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa.
3.1.1. Ý nghĩa: Qua thực hiện đề tài đưa ra các giải pháp đã làm cho giáo
viên nắm chắc hơn phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tư duy tổng
hợp cho học sinh.

Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã phát huy được tính độc lập sáng
tạo, khả năng phân tích nhanh chóng, sử dụng đúng những tri thức, kỹ năng và
14


vận dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó có những kinh nghiệm trong chuyên
môn và công tác giảng dạy.
Về phương pháp dạy học thực sự đổi mới cho học sinh hoạt động học tập
đã tổ chức cho học sinh tự làm việc cá nhân và kiểm soát quá trình làm bài. Tích
cực hoá việc học tập của học sinh.
Gây hứng thú trong học tập, phát huy lòng say mê học tập cho các em để
các em học tốt môn toán, học tốt các môn khác.
3.2 Kiến nghị, đề xuất.
Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Chính vì vậy,
trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không
được gây ức chế cho học sinh. Mỗi giáo viên phải có ý thức chăm lo bồi dưỡng
về mọi mặt nhằm có đủ trình độ năng lực nâng cao chất lượng dạy và học trong
nhà trường.
Việc phát huy tư duy phân tích tổng hợp qua việc giải toán có lời văn lớp
3 là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Góp phần đổi mới phương pháp
dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong tiết dạy giáo viên phải phối hợp nhiều
phương pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả, làm cho lớp
học sôi nổi giờ học sinh động. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục dạy chữ dạy
người, dạy nghề nhằm tiến tới một bậc học tốt nhất bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Có nhiệm vụ xây dựng tình cảm, đạo đức trí tuệ, thẩm
mĩ, thể chất, hình thành cơ sở ban đầu về sự phát triển toàn diện nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục, một số biện pháp nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn ở
Tiểu học được sử dụng có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau:

*Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải xây dựng cho học sinh lòng yêu thích học toán, làm cho học
sinh thấy được tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn để phát huy hơn nữa
năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
- Người giáo viên phải kiên trì dạy, không nôn nóng, không nóng vội, không
đòi hỏi quá cao ở học sinh mà phải bám vào chuẩn kiến thức của từng lớp.

15


- Bồi dưỡng cho các em phương pháp học toán và tổ chức tự học ở gia đình,
phối kết hợp với gia đình trong việc học bài và làm bài ở nhà.
- Tạo hứng thú, niềm say mê, tính tích cực học tập của học sinh cũng là một
trong những nhiệm vụ cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả
học tập trong nhà trường. Tập cho các em có thói quen tóm tắt bài trước khi giải.
Đây là yếu tố giúp học sinh có kỹ năng tìm hiểu đề toán.
- Không nên cho học sinh “học vẹt” các bài giải mẫu mà cần cho học sinh
nắm chắc chắn phương pháp, cách giải của từng dạng toán.
- Cần có biện pháp khen thưởng, trách phạt kịp thời để các em có thái độ và
phương pháp đúng đắn khi học toán. Nhằm khơi gợi được tinh thần, lòng ham
thích học toán ở các em. Đồng thời có sự điều chỉnh kịp thời những sai sót,
vướng mắc khi học toán.
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường thường xuyên tổ chức các đợt hội thảo, chuyên đề bồi
dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học để giúp phát huy hơn nữa
tính tích cực của học sinh trong học tập
- Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, mua sắm đồ dùng nhằm
phục vụ cho việc dạy học của giáo viên được tốt hơn
- Cung cấp các tài liệu liên quan để giáo viên có điều kiện nghiên cứu,
trau dồi và nâng cao kiến thức của mình.

Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao trình độ.
Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời
văn lớp 3 ở trường Tiểu học mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng. Kính mong nhận
được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để đề tài được đưa
vào thực hiện có hiệu quả cao./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

16



×