Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Thực trạng và một số giải pháp thu hút vốn ODA tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.72 KB, 46 trang )

Lời mở đầu
Đất nước ta đang ngày một hòa nhập với nền kinh tế toàn cầu, mục tiêu
phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
đã đi được một chặng đường khá dài. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta
có thể thấy rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 7%, đời sống của nhân dân
ngày càng được nâng cao và không những đạt được những thành tựu về mặt
kinh tế mà các mặt của đời sống văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế cũng được
nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị ổn định, an ninh- quốc phòng được giữ
vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng. Để đạt được
những thành công đó bên cạnh sự khai thác hiệu quả các nguồn lực trong
nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng và trong đó
viện trợ phát triển chính thức(ODA) của các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ
vai trò chủ đạo. Thực tế tiếp nhận, sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA
thời gian qua cho thấy ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với
phát triển đất nước, ODA đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân nhân lực, điều chỉnh cơ
cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội tươg đối hiện đại.
Tuy vậy, để, đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020
chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho
phát triển, trong đó ODA có một vai trò quan trọng.
Trong bài thuyết trình này, dưới góc nhìn là một sinh viên và bằng một
số tài liệu tham khảo, chúng em xin trình bày một vài ý kiến về nguồn vốn
ODA vào Việt Nam. Do thời gian có hạn cũng như trình độ còn hạn chế, bài
thuyết trình sẽ khó tránh khỏi thiếu sót, nhiều ý kiến chủ quan, bởi vậy nhóm
chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến cũng của cô giáo cùng toàn
thể các bạn.
1
I. Khái quát về ODA
1. Các khái niệm về nguồn vốn ODA
1.1 định nghĩa về nguồn vốn ODA


ODA là chữ viết tắt của cụm từ “Official Development Assistance”
được OECD coi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền
nhà nước hay địa phương) của một nước viện trợ cho các nước đang phát
triển và các tổ chức nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi của các
nước.
Các hình thức cung cấp ODA bao gồm:
1.ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn trả
lại cho nhà tài trợ. Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các
dạng như hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật…;
2.ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các
điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu
tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các
khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc;
3.ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các
khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương
mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với
các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
1.2. ODA – một nguồn vốn cần thiết
Trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn
trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể
vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn
qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng quy mô
2
doanh nghiệp.
Ngoài ra, ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu
máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, từ các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA, nước nhận

viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế
giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ các nước đang phát triển xây dựng và
hoàn thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn
bản dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh
nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc
biệt trong bối cảnh các nước đang phát triển chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
2.Vai trò, ý nghĩa của nguồn vốn ODA
Để có chiến lược đúng đắn trong quá trình quản lý nguồn vốn ODA, vấn
đề xem xét tính 2 mặt của nguồn vốn ODA là hết sức cần thiết, không những
đối với các nhà hoạch định chính sách, mà còn đối với những người sử dụng
lại nguồn vốn này. Chỉ có như vậy, quá trình quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức mới đạt được các yêu cầu đề ra đó là: giải ngân nhanh nguồn
vốn ODA, tăng thành tố hỗ trợ, sử dụng vốn có hiệu quả, và không ngừng
nâng cao năng lực trả nợ quốc gia.
-Ưu điểm của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
+Một là: bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển
Các khoản vay ODA thường có thời hạn vay dài bình quân từ 30 năm
đến 40 năm, bên cạnh đó là thời gian ân hạn cao bình quân từ 8 đến 10 năm
(tức trong khoảng thời gian này nước tiếp nhận ODA chưa phải trả gốc, chỉ
trả một khoản phí sử dụng vốn), lãi suất thấp hay nói đúng hơn là nước đi vay
ODA không phải trả lãi cho khoản vay mà chỉ trả một khoản phí cam kết và
phí dịch vụ chuyển tiền mà cả hai khoản phí này cộng lại chỉ giao động trong
3
khoản từ 0,75%/năm đến tối đa là 2%/năm. Nhờ các ưu điểm này mà các
khoản vay ODA thường có “yếu tố cho không” từ 25% đến 100% cấu thành
ngay trong khoản vay đó nếu ta đem so sánh khoản vay này với các khoản
vay khác theo các điều khoản thương mại. Chính những đặc điểm hết sức ưu
đãi của nguồn vốn này mà nó trở thành nguồn vốn quan trọng ổn định và dài

hạn bổ sung cho lĩnh vực đầu tư phát triển ở các nước đang phát triển, đặc
biệt là đầu tư vào các Dự án cơ sở hạ tầng kinh tế lớn trọng điểm của quốc gia
như: Giao thông, năng lượng, thủy điện, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc,
các cơ sở hạ tầng khu công nghiệp lớn ... và các cơ sở hạ tầng xã hội như các
công trình phúc lợi như công cộng, y tế, giáo dục, cấp thoát nước, bảo vệ môi
trường,... và các chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và
miền núi,... Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển khi mà hệ thống ngân
hàng thương mại hoạt động còn nhiều yếu kém, chưa đủ năng lực để huy
động một khối lượng lớn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư và phát
triển hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội, cũng như trái phiếu Chính phủ chưa đủ
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thị trường vốn quốc tế, và sự yếu kém
của thị trường chứng khoán trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát
triển trong những năm tới thì nguồn vốn ODA đã trở thành nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho các dự án đầu tư hạ tầng cơ sở và xã hội trọng yếu của
các quốc gia đang phát triển.
Kinh nghiệm cho thấy, không một quốc gia nào có thể phát triển liên tục
nếu không phát triển hạ tầng cơ sở một cách tương ứng. Do vậy, đầu tư vào
hạ tầng cơ sở đóng vai trò hết sức quan trọng để đạt được các mục tiêu về
tăng trưởng kinh tế mà các quốc gia đang phát triển đề ra. Để làm được điều
này trong bối cảnh hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân sách nhà
nước không đủ năng lực đảm nhận thì nguồn ODA sẽ đóng một vai trò quan
trọng và trở thành nhu cầu tất yếu khách quan đối với các nước đang phát
triển.
4
+Hai là: Thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khi hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội được cải thiện mạnh mẽ thì
ODA lại tiếp tục đóng vai trò như một “nam châm” hút đầu tư tư nhân đổ vốn
vào đầu tư sản xuất kinh doanh tại nước đó. Điều đó có nghĩa là đối với
những nước đã cam kết cải cách chính sách kinh tế theo hướng mở cửa thông
qua việc tiếp nhận các chương trình/dự án thì cuộc cải cách đó sẽ góp phần

củng cố niềm tin và thúc đẩy cho khu vực tư nhân đầu tư vào nước đó.
+Ba là: Hỗ trợ tăng cường năng lực thể chế và đẩy mạnh các hoạt động
cải cách chính sách kinh tế
Trong mỗi một khoản vay, dù đó là khoản vay theo Chương trình hay
theo Dự án, vay ưu đãi hay hỗ trợ kỹ thuật thì phía nhà tài trợ đều đưa ra các
điều kiện đi kèm khoản vay buộc các nước tiếp nhận phải thực hiện. Điều
kiện đó chính là việc các nước tiếp nhận viện trợ phải dành một phần tiền của
khoản vay để tiến hành các hoạt động về tăng cường năng lực thể chế và cải
cách chính sách kinh tế. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo khả năng cho
việc chuyển giao nguồn vốn và công nghệ từ các nước phát triển tới các nước
đang phát triển một cách dễ dàng hơn thông qua các hình thức đào tạo, thực
nghiệm và ứng dụng các công nghệ mới, tuyển chọn các chuyên gia tư vấn
quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực có liên quan đến mục tiêu của từng chương
trình/ hay dự án vào giúp nước tiếp nhận khoản vay triển khai chương trình/
dự án đó. Thông qua các hoạt động này, sẽ giúp các nước tiếp nhận ODA
nâng cao khả năng hoạch định chiến lược, chính sách chương trình và kế
hoạch phát triển kinh tế để phân bổ tốt hơn, hiệu quả hơn các nguồn vốn nước
ngoài nói chung và ODA nói riêng. Đặc biệt, các hoạt động hỗ trợ này thể
hiện rõ nét nhất thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại, toàn bộ số tiền
viện trợ đều được các nhà tài trợ sử dụng vào mục đích thuê chuyên gia tư
vấn vào giúp nước tiếp nhận viện trợ tiến hành các hoạt động cải cách chính
sách kinh tế.
5
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) thì Việt Nam là một trong
những ví dụ điển hình, đó là vào những năm 80, Việt Nam là một trong những
nước nghèo nhất thế giới, phải kêu gọi viện trợ lương thực, bên cạnh đó là cơ
chế quản lý kinh tế yếu kém, chế độ thương mại đóng cửa, nền kinh tế không
có chỗ cho kinh tế khu vực tư nhân phát triển, thâm hụt ngân sách trầm trọng
và được bù đắp bằng việc in tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách dẫn đến tình
trạng siêu lạm phát. Cuối năm 1980 viện trợ của Liên Xô chấm dứt, Việt Nam

chỉ còn tiếp nhận một nguồn viện trợ nhỏ của Chương trình phát triển liên hợp
quốc (UNDP) và tổ chức SIDA (Thụy Điển) với giá trị chưa đầy 1% GDP
trong khi đó Việt Nam phải vật lộn với các điều chỉnh cơ cấu kinh tế, và
không nhận được bất cứ hỗ trợ nào từ phía IMF, WB, ADB ... do còn bất
đồng về chính trị giữa Việt Nam với các cổ đông chính của các tổ chức tài
chính tiền tệ khổng lồ này. Hai tổ chức UNDP và SIDA nói trên đã đóng góp
bằng thời gian làm việc của các chuyên gia tư vấn nước ngoài để giúp chính
phủ Việt Nam tiến hành cải cách một số lĩnh vực quan trọng, mở đầu bằng
việc UNDP và SIDA đã mời các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) và
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và giúp quản lý một số dự án giúp kỹ thuật cho
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và ủy ban kế hoạch nhà nước (nay là bộ Kế
hoạch và Đầu tư) và sự đóng góp này đã giúp Việt Nam bước đầu giải quyết
được vấn đề chống lạm phát do cải cách hệ thống ngân hàng ...
Theo đánh giá của WB thì: “ Trọng tâm của viện trợ trong thời kỳ 1989-
1992 dành cho Việt Nam chính là các ý tưởng cải cách, chứ không phải là
tiền. Vì các lý do về chính trị mà các nhà tài trợ lớn như WB không thể cung
cấp bằng tiền (cho vay trực tiếp) đối với Việt Nam, và cho đến tận cuối năm
1993 hoạt động cho vay mới được nối lại. Do vậy họ đã phải làm những việc
khác có ích cho Việt Nam. Việc đóng góp cong sức của chuyên gia của các tổ
chức này chỉ đòi hỏi một lượng chi phí rất nhỏ, nhưng ngược lại nó đã đóng
góp rất lớn cho quá trình cải cách và phát triển kinh tế của Việt Nam trong
6
giai đoạn đó”. Vì vậy, tại lễ ký kết Hiệp định vay vốn ADB ngày 18/2/2003
dành cho khoản vay trị giá 45 triệu USD cho giai đoạn 1 của khoản vay
chương trình hỗ trợ triển khai chương trình tổng thể về cải cách hành chính
giai đoạn 2001- 2010 của Chính phủ Việt Nam, Ông John Samy- Trưởng đại
diện ADB tại Việt Nam khẳng định: “Các thể chế vững mạnh và nền quản lý
hiện đại đóng một vai trò thiết yếu trong việc giúp Việt Nam thu được những
kết quả lớn lao từ việc tăng cường năng lực hội nhập khu vực và thế giới, duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững”.

+Bốn là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là một trong những
nguồn bổ sung ngoại tệ quan trọng cho các quốc gia đang phát triển và bù đắp
thiếu hụt trong các cân thanh toán
Để mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, các nước
đang phát triển thường có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ. Trong khi đó nguồn
ngoại tệ trong nước luôn thiếu hụt do hệ thống tài chính yếu kém, các công cụ
huy động ngoại tệ của Chính phủ chưa phát triển và nếu phát triển thì cũng
chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, do chỉ số tín nhiệm quốc gia của
các nước đang phát triển thường ở mức thấp ... vì vậy, để bù đắp thiếu hụt
này, nguồn vốn ODA là một tròng những nguồn ngoại tệ quan trong góp phần
bù đắp cho những thiếu hụt này. Bên cạnh đó, đi kèm nguồn ngoại tệ mạnh
này là các loại hàng hóa và thiết bị hiện đại, dịch vụ và công nghệ tiên tiến
được nhập khẩu vào các quốc gia đang phát triển để phục vụ cho quá trình
quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế và xã hội trọng điểm của quốc gia.
+Năm là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức góp phần đảm bảo cho
nhu cầu chi tiêu cần thiết của Chính phủ mà không gây ra lạm phát
Như chúng ta đã biết, nhu cầu chi tiêu của Chính phủ bị giới hạn bởi khả
năng thu của Chính phủ, hay nói một cách khác khả năng thu đã tạo ra “giới
hạn ngân sách” của Chính phủ, đặc biệt là Chính phủ các nước đang phát
7
triển. Để bù đắp phần thiếu hụt, Chính phủ phải phát hành thêm tiền để chi
tiêu. Song vì do lượng tiền phát hành vòa lưu thông không dựa trên cơ sở tăng
tương ứng của khối lượng hàn hóa và dịch vụ nên dẫn tới sự mất giá của đồng
tiền, gây ra hiện tượng lạm phát(như thời gian trước cải cách 1987 của Việt
Nam chẳng hạn). Chính phủ càng phát hành nhiều tiền vào lưu thông thì tốc
độ lạm phát càng cao, hậu quả sẽ dẫn tới khủng hoảng kinh tế, đây là hiện
tượng vi phạm Quy luật lưu thông tiền tệ. Trong trường hợp này, nếu có
nguồn tài trợ quốc tế từ bên ngoài đổ vào, chẳng hạn như nguồn ODA đủ để
bù đắpcho phần thiếu hụt của Chính phủ thì nhu cầu chi tiêu cần thiết của

Chính phủ sẽ được thỏa mãn mà không phải phát hành thêm tiền, nên không
dẫn đến tình trạng lạm phát.
+Sáu là: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức là cầu nối giao lưu văn
hóa, chính trị và con người giữa các nước tài trợ với nước tiếp nhận viện trợ
Thông qua nguồn vốn ODA, các nước tiếp nhận ODA thường thiết lập
và mở rộng được các mối quan hệ hợp tác phát triển đa phương và song
phương với các nước tài trợ. Ngoài việc khai thác được các thế mạnh về vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý ... gắn kết trong các chương trình/dự án ODA
mà các nước tài trợ dành cho nước tiếp nhận viện trợ. Hoạt động chuyển giao
nguồn vốn ODA còn tạo nên cầu nối giao lưu văn hóa và con người giữa
nước tài trợ và nước tiếp nhận viện trợ thông qua các chương trình đào tạo,
tập huấn, hội thảo, tham quan khảo sát, ...Hơn nữa, việc các nhà tài trợ cam
kết dành mọt phần vốn ODA hàng năm cho các nước đang phát triển đó cũng
chính là “bức thông điệp” quan trọng về sự đồng tình ủng hộ đối với các chủ
trương đường lối và chính sách phát triển kinh tế- xã hội mà các nước đang
phát triển khởi xướng thực hiện, và đó cũng chính là “hậu thuẫn chuẩn bị”
quan trọng tạo nên cầu nối giao lưu giữa nước tiếp nhận ODA với các nước
cung cấp ODA trên thế giới.
8
II. TẠI SAO PHẢI QUẢN LÝ
1.Khái niệm quản lý nhà nước về vốn ODA
Trong thế giới đã có rất nhiều nước thành công trong việc sử dụng vốn
ODA để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Trước đây Nhật Bản, Hàn Quốc và
gần đây là Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia,Philipin,...Một trong những
nguyên nhân sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả là các nước này xây dựng
được hệ thống quản lý ODA phù hợp theo mô hình quản lý tập trung đi đôi
với phân cấp trách nhiệm trên cơ sở khung thể chế pháp lý về ODA không
ngừng hoàn thiện
Tương tự như các nước tiếp nhận vốn ODA khác, để nâng cao hiệu quả
viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ

Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và sử dụng
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng
đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
4 Nghị định về quản lý ODA (Nghị định 20/CP (15/3/1994), Nghị định 87/CP
(5/8/1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (4/5/2001) và Nghị định
131/2006/NĐ-CP (09/11/2006)). Các nghị định sau được hoàn thiện trên cơ
sở thực tiễn thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của quan
hệ hợp tác phát triển.
Cùng với nỗ lực hoàn hiện thể chế, công tác quản lý nhà nước về ODA
đã không ngừng được cải tiến và đạt được nhiều tiến bộ. Nếu như trong giai
đoạn đầu của quá trình tiếp nhận ODA, quản lý nhà nước theo mô hình tập
trung nhiều ở cấp trung ương thì nay theo mô hình phân cấp mạnh mẽ để các
Bộ, ngành và địa phương phát huy tính chủ động và nâng cao trách nhiệm từ
khâu xây dựng dự án, thực hiện dự án, khai thác và vận hành các sảm phẩm
đầu ra. Theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP Việt Nam có 4 cấp tham gia vào
quá trình quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA (Ban QLDA, Chủ dự án, Cơ
9
quan chủ quản, Cơ quan quản lý nhà nước về ODA). Các cấp này có chức
năng và nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể:
- Ban QLDA: Đơn vị giúp việc cho Chủ dự án trong việc quản lý thực
hiện chương trình, dự án ODA.
- Chủ dự án: Là đơn vị được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử
dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn đối ứng để thực hiện chương trình, dự án
theo nội dung đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, và quản lý, sử dụng
công trình sau khi chương trình, dự án kết thúc.
- Cơ quan chủ quản: Là các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan
trực thuộc Chính phủ, các cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị xã hội,
các tổ chức nghề nghiệp, các cơ quan trực thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có chương trình, dự án.

- Các cơ quan quản lý nhà nước về ODA: Gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp,
Văn phòng Chính phủ.
Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy dù quản lý nhà nước theo mô hình
tập trung hay phân cấp thì một nguyên tắc "vàng" là Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về ODA.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA bao gồm các nội dung
sau:
- Quyết định chiến lược, chính sách, quy hoạch, định hướng thu hút và sử
dụng ODA cho từng thời kỳ; ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Danh mục yêu cầu tài trợ ODA và những sửa đổi, bổ sung (nếu có) của danh
mục
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng ODA
theo thẩm quyền;
- Điều hành vĩ mô công tác quản lý và sử dụng ODA.
10
2.T ầ m quan trọng của quản lí Nhà nước đối với nguồn vốn ODA
Nguyên tắc cơ bản trong quản lý và sử dụng ODA:
a, ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách nhà nước, được sử dụng
để hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên về phát triển kinh tế - xã
hội của Chính phủ.
b, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trên cơ sở tập trung
dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp, gắn quyền hạn với
trách nhiệm, đảm bảo sự phối hợp quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phát
huy tính chủ động của các cấp, các cơ quan quản lý ngành, địa phương và các
đơn vị thực hiện.
c, Thu hút ODA đi đôi với việc nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm
khả năng trả nợ nước ngoài, phù hợp với năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA
của các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị thực hiện.
d, Bảo đảm tính đồng bộ và nhất quán của các quy định về quản lý và sử

dụng ODA; bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan; hài hoà
quy trình thủ tục giữa Chính phủ và nhà tài trợ.
e, Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế về
ODA mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường
hợp điều ước quốc tế về ODA mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác với các quy định của pháp luật Việt Nam thì thực
hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Những yêu cầu cơ bản quản lý nhà nước về ODA tại Việt Nam là:
+ Phát huy cao độ tính chủ động và trách nhiệm của cơ quan chủ quan
và cơ quan, đơn vị thực hiện dự án.
+ Đảm bảo tính tổng hợp, thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lý
vốn ODA.
+ Bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan, trong đó có các
đối tượng thụ hưởng.
11
+ Bảo đảm tính rõ ràng minh bạch về quyền hạn và quyền hạn của các
bên có liên quan.
+ Bảo đảm hài hòa thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ.
Để đạt được các yêu cầu đó, ở Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về ODA trên các cơ sở phân cấp, tăng cường trách nhiệm và đảm
bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các cơ quan quản lý nghành và địa
phương.
Khác với các hoạt động quản lý nhà nước khác ( bao gồm 4 cấp là Trung
ương, tỉnh, huyện, xã), hiện nay, Việt Nam có 4 cấp tham gia vào quá trình
quản lý thu hút và sử dụng vốn ODA, bao gồm:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các bộ tổng hợp gồm: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại
giao, Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng Chính phủ; trong đó, Bộ Kế hoạch
và đầu tư là cơ quan đầu mối.các
- Các bộ, UBND các địa phương.

- Các chủ dự án, ban quản lý dự án.
Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan này (Chính phủ, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Các Bộ ngành và Uỷ ban nhân dân Tỉnh...)
được quy định chi tiết trong Nghị định 131/ NĐ-CP. Ngoài ra, quản lý nhà
nước về vốn ODA muốn đạt được hiệu quả rất cần sự quan tâm hợp tác từ
phía các nhà tài trợ.
Công tác quản lý nhà nước về vốn ODA về cơ bản đã tập trung vào một
đầu mối, ở Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế
hoạch đầu tư hoặc Vụ Hợp tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Tuy nhiên, việc phân định chức năng của các cơ quan quản lý ODA còn
mang tính dàn trải, có những nơi chưa tập trung vào một đầu mối. Một số địa
phương vẫn còn duy trì hai đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư và Phòng
Ngoại vụ thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh. Hoặc việc ký kết các Hiệp
12
định vay được giao cho hai cơ quan quản lý là Bộ Tài chính và Ngân hàng
Nhà nước, nhưng sau đó toàn bộ việc quản lý Hiệp định lại do Bộ Tài chính
quản lý. Bên cạnh đó, việc ký kết các Hiệp định ODA hiện vẫn tồn tại hai
nấc: Hiệp định khung do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và ký kết, Hiệp định
ODA vay cụ thể cho từng dự án do Bộ Tài chính chủ trì và ký kết. Trong một
số trường hợp, khi mà Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ đóng vai trò
”người vay” thì không cần thiết tồn tại hai nấc như vậy.
Một tồn tại khá phổ biến khác là trong một bộ (một địa phương) thì chủ
đầu tư là một cơ quan thuộc bộ (địa phương), đồng thời PMU, nhà thầu cũng
là của bộ (địa phương) đó. Vì vậy, khi có vấn đề gì trong thực hiện triển khai
xảy ra, thì các đơn vị này thông đồng, dàn xếp với nhau.
Sự phối kết hợp giữa các bên liên quan của Việt Nam mà chủ yếu giữa
Bộ chủ quản, PMU, chủ đầu tư với chính quyền các địa phương, cơ quan
chức năng còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt trong công tác giải phóng mặt bằng. Ví
13
dụ, dự án cải tạo quốc lộ 1 do vốn ODA của WB và ADB tài trợ liên quan đến

hầu hết các tỉnh thành phố trên trục quốc lộ 1. Do sự phối hợp không tốt giữa
các địa phương nên thống nhất quan điểm đền bù giải phóng mặt bằng rất khó
khăn và mất nhiều thời gian. Địa phương giải phóng mặt bằng nhanh phải chờ
địa phương làm chậm, gây chậm trễ cho tiến độ dự án.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA hiện nay còn nhiều
tồn tại.
- Nội dung của các văn bản pháp luật mới chỉ tập trung nhiều vào việc
thu hút và sử dụng vốn ODA mà chưa đi sâu vào nội dung vận hành dự án,
mà đây mới là phần quyết định tính hiệu quả của việc thu hút và sử dụng vốn
ODA.
- Nghị định 131/CP mới quy định về quản lý và sử dụng ODA, còn cơ
chế ”quản lý tài chính” với các dự án vay nợ, viện trợ nước ngoài, bao gồm cả
vốn ODA lại được quy định tại Quy chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài
kèm theo Nghị định số 9058/CP ngày 7/11/1998. Như vậy quản lý ODA được
điều chỉnh bởi cả Quy chế và Nghị định nói trên.
Để thực hiện Nghị định 131/CP phải khắc phục những thách thức không
nhỏ: Cần có những Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và dễ thực
hiện giữa các đơn vị. Ví dụ : Đối với Bộ Tài chính phải có hướng dẫn về Chế
độ quản lý tài chính ,chính sách thuế đối với chương trình, dự án ODA;, Bộ
Ngoại giao phải có hướng dẫn về việc ký kết và thực hiện các Điều ước quốc
tế về ODA...; Gấp rút tăng cường năng lực thẩm định dự án cho cơ sở; Tăng
cường năng lực quản lý dự án, theo dõi và đánh giá chương trình, dự án trong
bối cảnh phân cấp mạnh.
- Nội dung các văn bản pháp luật còn nhiều điều bất hợp lý như quy định
đền bù thiệt hại hiện nay chưa thoả đáng cho người dân, gây chậm trễ cho
công tác giải phóng mặt bằng. Các chính sách đền bù giải phóng mặt bằng
không thống nhất và hay thay đổi.
14
- Ngoài ra, các văn bản pháp luật của ta chưa có cơ chế, chế tài xử lý và
chế độ khen thưởng cụ thể đối với các PMU và các cơ quan quản lý nhà nước.

Điều này dẫn đến việc thực thi những quy định liên quan đến vốn ODA của
các đơn vị bộ phận này chưa nghiêm túc.
3. Tầm quan trọng của quản lý nhà nước về sử dụng vốn ODA
Việt Nam là một nước nghèo, lại từng trải qua một thời gian dài bị chiến
tranh tàn phá, hơn ai hết nhân dân Việt Nam biết quý trọng từng đồng vốn,
nhất là những đồng vốn mà bạn bè quốc tế đã ưu ái dành cho nước ta. Thực tế
chứng minh Chính phủ Việt Nam đã quản lý và sử dụng có hiệu quả, rất đúng
mục đích nguồn ODA của các nước trên thế giới dành cho Việt Nam. Và
nguồn vốn ODA dưới sự quản lý của nhà nước đã mang lại rất nhiều thay đổi
cho một nước đang phát triển như nước ta.
* ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550
triệu USD, chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp
phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng
cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và
học, như dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề...
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương
trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển,
Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương
trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, Chương
trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta trong bảng xếp hạng
các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc đều được cải
thiện hàng năm.
ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều
quan trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong
các lĩnh vực xã hội đòi hỏi có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư,
15
như phòng chống đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma túy...
* ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển
thể chế trên nhiều lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật,

cải cách hành chính...
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán
bộ được đào tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng
mang lại những kinh nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển
của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường,
quản lý nhà nước, pháp luật.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được
chuẩn bị đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp
ứng yêu cầu cải cách thể chế trong tiến trình của Việt Nam gia nhập WTO
như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng...;
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ
khám chữa bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện
lớn là Chợ Rẫy và Bạch Mai và các dự án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản
trong lĩnh vực y tế cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y
bác sỹ cũng như trang thiết bị khám chữa bệnh, qua đó cải thiện đời sống của
nhân dân, đặc biệt là dân nghèo thành thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do
Nhật Bản tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho 105
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo nhiều công ăn việc làm ổn định. Ngoài số vốn
216 tỷ VND cho vay lại, các Ngân hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng
130 tỷ VND và người vay cuối cùng góp khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số
vốn đầu tư cho nền kinh tế lên khoảng 602 tỷ VND.
* ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và
nông thôn, xóa đói giảm nghèo.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc
16
xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Số
liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ dân
nghèo đã giảm từ 58% vào năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và 28,9%
vào năm 2002 trong khi tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25% năm 1993 xuống

15% năm 1998 và 9,96% năm 2002. Trong giai đoạn 1993-1998, tốc độ giảm
nghèo đói trung bình hàng năm ở Việt Nam là 7,5% nhanh hơn tốc độ phát
triển kinh tế trung bình là 6,4% cho cùng thời kỳ. Kết quả này cho thấy Việt
Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà nước ta đã cam kết với thế
giới. Điều này cho thấy phát triển kinh tế ở Việt Nam mang tính rộng rãi, tác
động lên mọi bộ phận dân cư của cả nước.
Từ năm 1998, khi Chính phủ và các nhà tài trợ nhất trí tập trung nguồn
vốn ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo thì
việc phân bổ vốn ODA đã có xu thế cân đối hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
rằng, ODA chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ là địa bàn thu hút ODA lớn nhất, chiếm gần 30% số vốn
ODA ký kết nhưng chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội,
Hải Phòng và Quảng Ninh. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long thu hút được
một lượng đáng kể vốn ODA và phân bổ tương đối đồng đều giữa các tỉnh
trong vùng. Còn vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ không có lợi thế về nhiều
mặt, trong đó nguồn vốn ODA thu hút cũng ít.
Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát
triển nông nghiệp và nông thôn, chiếm 14.4% tổng mức ODA cam kết. Các
dự án ODA đã góp phần cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các
ngành nghề phụ, phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh
hoạt, trạm y tế, trường học.
Thông qua chương trình viện trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản,
trên 30 cầu trên các trục giao thông huyện lộ và tỉnh lộ đã được cải tạo và xây
17
dựng, dự kiến trên 80 cầu sẽ sớm được hoàn thành trong tương lai. Thông qua
các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi, đã xây mới và nâng cấp hơn 1700 km
đường giao thông nông thôn, 13 nhà máy nước và 357 dự án điện. Dự kiến 92
dự án phát triển đường giao thông nông thôn, 48 dự án cấp nước và 43 dự án
thuỷ lợi sẽ được hoàn thành trước năm 2007. Các dự án này đã có những

đóng góp quan trọng trong việc giảm đói nghèo ở nông thôn nước ta. Kết quả
hai cuộc điều tra mức sống năm 1993 và 1998 cho thấy các hộ dân cư sống ở
nơi có đường giao thông đi qua có mức tăng thu nhập tăng nhanh hơn những
hộ dân cư sống ở những nơi không có đường giao thông. Trong thời kỳ 1993-
1998, mức tăng về tiêu dùng của hộ dân cư sống ở nơi có đường giao thông đi
qua cao hơn nơi không có đường giao thông là 16%.
Song bên cạnh đó cũng còn lại nhiều thực trạng đau lòng của một số bộ
phận các cán bộ quản lý nguồn vốn đã ảnh hưởng không ít đến nguồn vốn
cũng như hiệu quả của việc sử dụng vốn ODA ở nước ta.
Theo đánh giá, chính sách phân cấp thời gian qua đã tạo ra hàng loạt ưu
điểm nổi bật như mở rộng đối tợng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong
việc ra các quyết định hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng ở địa phương. Địa
phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, nghành cung cấp hơn, đồng
thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tỉnh, huyện tạo cơ hội
tốt hơn cho người dân tham gia quyết định.
Nhưng ngược lại, thực tế phân cấp ở Việt Nam cũng đã cho thấy một loạt
hạn chế: năng lực hạn chế và chuyên môn yếu kém đã làm cho các dự án
ODA ở địa phương kém hiệu quả đi, việc chuyển giao trách nhiệm trong khi
không đủ nguồn lực cần thiết đã làm cho việc phân phói công bằng dịch vụ
hoặc cung cấp dịch vụ khó khăn hơn.
Đặc biệt việc chưa gắn kết giữa các cấp quản lý đã làm cho sự phối hợp
thực hiện chính sách trở nên phức tạp và không đảm bảo tính thông suốt
xuống cơ sở. Một vấn đề tồn tại mang tính tổng quát hơn cũng được ghi rõ:
18

×