BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
NGUYỀN ĐÌNH THANH
THƯC TRANG LÀM ME AN TỒN
VÀ VAI TRỊ CỦA CÁN Bộ Y TÉ TRONG VIỆC
NÂNG CAO CƠNG TÁC LÀM MẸ AN TỒN
TẠI HUYỆN HƯNG NGUYÊN, NGHỆ AN NĂM 2014
LUẬN ÁN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II
THÁI BÌNH-2014
NGUYỄN ĐÌNH THANH
Formatted: Font: (Default) Times New Romar
THực TRẠNG LÀM MẸ AN TỒN
VÀ VAI TRỊ CỦA CÁN Bộ Y TÉ TRONG VIỆC
NÂNG CAO CƠNG TÁC LÀM ME AN TỒN
TAI HUN HƯNG NGUYÊN, NGHÊ AN NĂM 2014
Chuyên ngành: QUẢN LÝ Y TẾ
Mã số: CK 62 72 76 05
LUẬN ÁN BÁC Sĩ CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Vương Thị Hịa
2. TS. Nguyễn Đức Thanh
THÁI BÌNH-2014
LỊÌ CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tơi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu,
Phòng Quan lý Đào tạo Sau đại học, Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y
Dược Thái Bình cùng các thầy cơ giáo đã nhiệt tinh giảng dạy, hướng dẫn và
giúp đờ tôi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin dược bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Nhà Giáo ưu
tú, PGS.TS. Vương Thị Hòa, TS. Nguyễn Đức Thanh đã dành nhiều tâm
huyết và trách nhiệm của mình giúp đờ tơi trong q trình học tập và nghiên
cứu để tơi hồn thành bản luận án này một cách tốt nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trung tâm Y tế huyện Hưng Nguyên, tỉnh
Nghệ An cùng bạn bò đồng nghiệp nơi tôi dang làm việc đà luôn động viên và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lịng cảm ơn tới gia đình và bạn bị thân thiết
của tôi - nhưng người đă luôn động viên, khích lệ tơi trong suốt cả q trình
học tập và nghiên cứu.
Xin trän trọng cám ơn!
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Đình Thanh
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu được tiến hành nghiêm
túc, các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Nếu sai tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm.
Thái Bình, ngàv 2 tháng 12 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Đình Thanh
CÁC CHỮ VIẾT TẢT
AIDS
Acquired Immunodeficiency Syndrome
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phài
BLTỌĐTD
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
BPTT
Biện pháp tránh thai
CBYT
Cán bộ y tế
CCDV
Cung cấp dịch vụ
SKSS
Sức khoẻ sinh sàn
CSYT
Cơ sở y tế
CTVDS
Cộng tác viên dân số
DCTC
DụnV cụ tử cung
IIIV
Human Immunodeficiency Virus
Vi rút gây suy giảm miễn dịch ờ người
KHHGĐ
Kế hoạch hố gia đình
MMR
Maternal Motality Rate
Tý suất tử vong mẹ
NKĐSS
Nhiễm khuân đường sinh sản
TYT
Trạm y té
TVM
Tử vong mẹ
TVSS
Tủ vong sơ sinh
UNFPA
United Nations Population Fund
Quỹ dân số Liên hợp quốc
WHO
World Health Organization
Tố chức Y tế Thế giới
MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6.
Bảng 3.7.
Bảng 3.8.
Bảng
3.9.
Bảng 3.10.
Bảng 3.1 ỉ.
Bảng 3.12.
Bảng 3.13.
Bảng 3.14.
Bảng 3.15.
Bảng 3.16.
Bảng 3.17.
Bảng 3.18.
Bảng 3.19.
Bảng 3.20.
Bảng 3.21.
Bảng 3.22. Tý lệ CBYT thôn biết về dấu hiệu nguy hiểm của bà mẹ sau sin.. 50
Bảng 3.23. Tỷ lộ CBYT thôn biết về dấu hiệu nguy hiểm của trẻ sơ sinh .... 51
Bảng 3.33. Lý do CBYT thôn khơng hài lịng với cơng việc dann đảm nhiệm 58
Trang
Biếu đồ 3.6.
Tỷ lệ CBYT có kiến thức đúng về thức ăn cho trẻ ăn dặm.... 53
9
-
-
ĐẬT VÂN ĐÊ
CBYT thôn là cánh tay nối dài của y tế cơ sở, vì CBYT thơn ở ngay
trong dân, có nhiệm vụ truyền thơng - giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK), phát
hiện sớm dịch bệnh, sơ cứu và xử trí cấp cứu ban đầu, chăm sóc người bệnh
nhẹ và bệnh mãn tính. Vì vậy CBYT thơn có ý nghĩa quan trọng và cần thiết
trong việc chăm sóc sức khoe nhân dân tại cộng dồng, nhất là khu vực nông
thôn miền núi. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động CBYT thôn là thiết
thực và tạo điều kiện cho người dân được tiếp xúc với dịch vụ chăm sóc sức
khoe, nhằm thực hiện cơng bàng xã hội, góp phàn vào cơng cuộc xố đói
giảm nghèo của Đang và Nhà nước ta tron" giai đoạn hiện nay.
Trong những năm gần đây, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
sinh sản cho mọi người dã và đang nhận được nhiều sự quan tâm của Chính
phú các nước trên Thế giới cũng như của Việt Nam. Năm 2009 Bộ Y té đã
ban hành “Hướng dần Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản”
(gọi tắt là Hướng dần quốc gia) áp dụng cho tất cả các cơ sở y tế trong đó có
các TYT xâ. Nội dung của Hướng dẫn Quốc gia tập trung vào các lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe sinh sản trong đó có nội dung chủ yếu về làm mẹ an toàn
[6]. Các trạm y té xã dâ và dang gặp rất nhiều khó khăn trong cung cấp dịch
vụ chăm sóc sức khỏe nói chung và lĩnh vực làm mẹ an tồn nói riêng vì diều
kiện về cơ sờ vật chất và trình độ chun mơn của dội ngũ cán bộ tại các trạm
còn nhiều hạn chế [41].
-
1
0
-
Tham gia vào nhiệm vụ trên, đội ngũ CBYT thôn dã và đang đóng góp
những vai trị quan trọng trong các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu ờ
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có chương trình làm mẹ an tồn. Bên
cạnh đó, CBYT thơn là đội ngũ y tế bám cơ sở nhiều nhất, có vai trò cực kỳquan
trọng trong việc mở rộng các dịch vụ y tê đên với người dân, nhât là đôi
với những phụ nừ ở vùng nông thôn nghèo, vùng núi. Với việc nắm chắc
được tình hình đời sống và bệnh tật của mỗi gia đình, đội ngù CBYT thơn là
cánh tay đắc lực của trạm y tế xã, phường dc thực hiện các hoạt động chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, cũng như nâng cao được chất lượng
dịch vụ làm mẹ an tồn.
Tuy nhiên, những nghiên cứu có giá về thực trạng làm mẹ an tồn và
vai trị của cán bộ y tế trong việc nâng cao chất lượng làm mẹ an tồn hiện
cịn rất thiếu đế các nhà quản lý có cơ sở hoạch định chính sách phù hợp nâng
cao vai trò và vị thế cũng như hiệu quá của đội ngũ CBYT thôn. Kết quà thu
được từ nghiên cứu này hy vọng sẽ góp phần tronc việc nâng cao chất lượng
cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn tại tuyến xã hiện nay.
Từ thực trạng trên chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Thực trạng làm mẹ an
tồn và vai trị của cán hộ y tế trong việc nâng cao cồng tác làm mẹ an toàn
tại huyện Hung Nguyên
, Nghệ An năm 2014 ” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả kết quả thực hiện làm mẹ an tồn của bà mẹ ni con dưới I
ti trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tinh Nghệ An nám 2013.
Đánh giá kiến thức và vai trò của cản bộ y tế thơn, xóm về nâng cao
cơng tác làm mẹ an toàn trên địa bàn nghiên cứu neun 2014.
-
1
1
Chương
1
-
TỐNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.
••
Mơt số khái niêm
Khái niệm sức khỏe sinh sản (SKSS) lần đàu tiên được đưa ra trong
Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triền diễn
ra tại Cai-rô, Ai-Cập năm 1994, theo đó sức khoè sinh sản: “Sức khoe sinh
sản là trạng thái thoải mái về thế chất, tinh thằn và xã hội, khơng chỉ đơn
thuần là khơng có bộnh tật hoặc tàn phố của hộ thống sinh sàn. Điều này cũng
hàm ý là mọi người, kế cả nam và nừ, đều có quyền được nhận thơng tin và
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các biện pháp kế hoạch hố gia đình
an tồn, có hiệu quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, đảm bảo
cho người phụ nừ trải qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các
cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con lành mạnh” [46].
Làm mẹ an toàn (LMAT): được hiểu là tất cả phụ nữ đều được nhặn sự
chăm sóc cần thiết đê được hoàn toàn khoè mạnh trong suốt thời gian mang
thai, khi sinh đẻ và sau đẻ, bao gồm cả việc điều trị cấp cứu sản khoa khi có
tai biến xảy ra [40].
Ke hoạch hóa gia dinh : Theo định nghĩa của Tổ chức Y té Thế giới
(W1IO), kế hoạch hóa gia đình là nỗ lực có ý thức của các cặp vợ chồng để
điều chinh sổ con và khoảng cách sinh con theo ý muốn [51]. Kế hoạch hóa
gia đình (KHIIGĐ) thường bao hàm việc sử dụng các biện pháp tránh thai
nhằm kiểm soát để tránh tăng dân số, nhưng cũng bao gồm cả nồ lực giúp cho
các cặp vợ chồng khó sinh đè. Vì thế người ta chia KHHGĐ ra làm hai hướng
đó là (1) KHHGĐ dương tính nhàm tăng phát triển dân số; và (2) KHHGĐ
âm tính nhàm làm giảm phát triền dân số.
-
1
2
-
Trong việc thực hiện các biện pháp tránh thai (BPTT) có rất nhiều biện
pháp như: Dùng bao cao su; Thuốc tránh thai (thuốc tiêm, thuốc uống, thuốc
cấy và thuốc tránh thai khấn cấp); Dụng cụ tử cung; Triệt sản/Đình sản; Xuất
tinh ngồi âm đạo; và Tính vịng kinh/Lịch kinh.
Việc phân loại biện pháp tránh thai có nhiều cách như:
- BPTT tạm thời, BPTT vĩnh viễn
- PBTT có hocmon và khơng có hocmon...
- BPTT hiện đại, BPTT truyền thống
về BPTT hiện đại ta có thể hiểu: là biện pháp mà người phụ nữ cần
tránh thai được sử dụng một dụng cụ đặt vào tử cung (nhờ cán bộ y tế đặt
DCTC), hoặc dùng thuốc để dưa vào cơ thề làm ức chế q trình rụng trứng
hoặc làm mịng niêm mạc tử cung, lỗng chất nhầy cồ tử cung,... (thuốc tránh
thai). Có thể phẫu thuật để thắt, cắt ống dần trứng, ống dẫn tinh để ngăn cản
sự gặp nhau của noăn và tinh trùng (triệt sản nam/triệt sản nừ). Đơn giản hơn
để ngăn cản khơng cho nỗn gặp tinh trùng có thể dùng bao cao su cho nam
hoặc nữ (bao cao su). Đó là những biện pháp tránh thai hiện đại hiện đang
dược dùng tại Việt Nam [46].
CBYT thơn xóm là một người mà người đó giúp hướng dẫn gia đình và
hàng xóm hướng đến một sức khỏe tốt hơn. Thơng thường người này được
lựa chọn bởi những người trong thôn bản vì người đó có khà năng đặc biệt
hoặc tứ tế, tốt bụng. Một số CBYT thơn xóm nhận được sự đào tạo và sự giúp
đờ từ các chương trình được tổ chức, có thể là từ Bộ Y tế. Nhưng người khác
khơng có một vị trí chính thức nào, nhưng họ chỉ đơn giản là một thành viên
của cộng đồng gồm những người được kính trọng như thầy lang, hay người
hướng dẫn về các vấn đề sức khỏe. Thông thường họ học bằng cách quan sát,
giúp dờ và tự học [50].
-
1
3
-
1.2.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản và làni mẹ an toàn
1.2.1.
Tử vong mẹ và tử vong SO’ sinh
Tử vong mẹ
Trong báo cáo của Tồ chức Y tế Thế giới về tình hinh sức khỏe năm
2005 [69], tai biến sản khoa băng huyết ờ châu Phi và châu Á ờ mức rất cao
với tỷ lệ là 33,9% và 30,8% theo thứ tự. Thiếu máu (12,8%), nhiễm khuẩn
(11,6%) và đẻ khó (9,4%) là nguyên nhân chủ yếu của từ vong mẹ ờ các nước
châu Á; trong khi đó HIV/AIDS đang trở thành nguyên nhân hàng đầu của tư
vong mẹ ớ các nước châu Phi (6,2%).
Tử vong mẹ hiện đang là một vấn đề y tế công cộng đáng quan ngại trên
phạm vi toàn cầu, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển, ơ các nước này,
mang thai và sinh đẻ là những nguyên nhân hàng đầu gây tư vong, bệnh tật và
tàn tật ở phụ nữ trong lửa tuồi sinh đè (15-49). Tử vong trong nhóm tuổi này
chiếm ít nhất (18%) tổng số gánh nặng bệnh tật toàn cầu, cao hơn bất kỳ vấn
dô sức khỏe dơn lẻ nào khác. Trong bản báo cáo “ước lượng tử vong mẹ năm
2005” của Tổ chức Y té thế giới và Ngân hàng Thế giới đă chỉ ra ràng, trung
bình cứ mỗi phút trơi qua thì có một phụ nữ tử vong do các nguyên nhân liên
quan đến thai sản [69], [2727], [7070].
Theo ước tính năm 2005, tý suất tử vong mẹ (MMR) trên phạm vi tồn
thế giới vẫn cịn rất cao (MMR=400). Con số này cao nhất ở khu vực cận
Sahara (MMR=900), tiếp đến là châu Phi (MMR=820), khu vực Nam Á
(MMR=490). Tại các khu vực đang phát triển ti lộ này vẫn cao hơn ti lệ chung
trên thế giới (MMR=450). Tỷ suất tử vong mẹ tại khu vực Đông Nam Á
(MMR=300) thấp hơn so với tỷ suất chung của khu vực các nước đang phát
triển [7070].
-
1
4
-
Tỷ suất tử vong mẹ có sự khác biệt rõ ràng giừa các giữa các nước giàu
và nước nghèo, và giữa các châu lục với nhau. Tý suất tử vong mẹ ở các nước
phát triền là 9/100.000, đối lập sâu sắc với tỷ suất tử vong mẹ lên đến
450/100.000 tại các nước đang phát triền [ 174-7], [7070]. Có tới 99% số các
trường hợp tử vong mẹ xảy ra ờ các nước đang phát triển, nhiều nhất ở khu
vực châu Phi và Nam Á. Ngay trong cùng một châu lục, sự khác biệt về tý suất
tử vong mẹ cũng khá rõ rệt. Tại khu vực châu Á, tỷ suất từ vong mẹ cao nhất
thuộc về khu vực Nam Á (MMR=490), trong khi tại khu vực Đông Á con số
này chi là MMR=50. Công bố của Liên Hợp Quốc cũng chỉ ra, một phụ nừ 15
tuổi có nsuy cơ tư vong do biến chứng liên quan đến thai san cao nhắt ớ
Nigeria (1/7), và nguy cơ thấp nhất ở Ireland (1/48.000) [7070].
Các số liệu thống kê đã chỉ ra rằng tỷ suất tử vong mẹ tính chung trên
tồn cầu giảm chậm dồng thời cho thấy tý lộ giảm này chủ yếu chi diễn ra ở
các khu vực dã có sẵn mức độ tử vong mẹ tương đối thấp, như khu vực Đông
Á (MMR năm 1990 và 2005 lần lượt là 95 và 50), trong khi đó tý lệ tử vong
mẹ giảm rất chậm ở nhừng khu vực mà trước đó tỷ lệ từ vong đà cao sẵn,
chẳng hạn như khu vực Cận Sahara (MMR năm 1990 và 2005 lần lượt là 920
và 900) [7070]. Việc giảm này quá chậm đế đạt được mục tiêu thiẽn niên kỷ là
đến năm 2015 tỉ lệ này giảm 75% so với năm 1990 [58ễ£].
-
1
5
-
Nguyên nhân gây ra tử vong mẹ bao gồm cả nguyên nhân trực tiếp và
eián tiếp trong đó các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ chiếm 80% các
trường hợp tử vong mẹ trên thế giới. Các nguyên nhân trực tiếp dẫn đến từ
vong mẹ là các tai biến sản khoa trong giai đoạn thai sản (thời kỷ mang thai,
chuyển dạ và sau sinh), do can thiệp sản khoa, chần đốn sai, điều trị khơng
đúng. Cụ thể như băng huyết, nhiễm trùng, tiền sản giật /sản giật, đẻ khó, nạo
hút thai khơng an tồn, chửa ngồi tử cung, tắc mạch ối và các trường hợp tử
vong có liên quan đến gây mê do mổ lấy thai,... trong đó nguyên nhân gây tửvong
mẹ nhiều nhất là băng huyết. Đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong
mẹ ở các nước đang phát triền, chiếm hơn 25% tông số ca tử vong. Nhiễm
khuân sau đé là nguyên nhân quan trọng xép thứ 2 của chết mẹ ở các nước
đang phát triển, chiếm đến 20% tổng số ca chét mẹ [15], [174-7].
Tử vong mẹ do nguyên nhân gián tiếp là những trường hợp tử vong do
nhừng bệnh hiện tại hoặc đã mắc từ trước và phát triển nặng lên trong quá
trình mang thai mà không phải do nguyên nhân sàn khoa trực tiếp mà do hậu
quả của việc mang thai. Ví dụ như bệnh gan, thiếu máu, sốt rét, bệnh tim, lao,
AIDS và uốn ván. Các nguyên nhân gián tiếp này chiếm khoảng 20% các
trường hợp tử vong mẹ trên thế giới [4344].
Bên cạnh đó, các yếu tố góp phần tác động đến tử vong mẹ là các thực
hành tìm kiếm sự chăm sóc trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ và giai đoạn sau
sinh như chậm trễ đến các cơ sơ chăm sóc thích hợp, chậm trễ trong việc chần
đốn, điều trị ờ cơ sở y tế, sự sẵn có và chất lượng chăm sóc tại cơ sở y tế mà
người phụ nữ có thề tiếp cận. Như vậy, trình độ kỹ thuật, điều kiện cơ sở vật
chất, dịch vụ chăm sóc y tế thiếu thốn, lạc hậu cùng với các thói quen và kiến
thức hạn chế cùa các bà mẹ trong khi mang thai và khi sinh là những yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sức khỏe bà mẹ [1747],
-
1
6
-
Tại Việt Nam, kết quả rà soát tại 17 tỉnh cho thấy tơng số có 122 ca tử
vong mẹ trong năm 2007-2008. Tỷ suất tử vong mẹ sau khi hiệu chinh là
119/100.000 ca sinh sống. Tỷ lộ tử vong mẹ tính trên 100.000 phụ nữ 15-49 tuổi
tại 14 tinh là 8,2. Nguvên nhân trực tiếp hàng đầu gây tử vong mẹ là băng huyết
(43,4%), tiếp theo là sản giật/tiền sản giật (10,7%). Két quả nghiên cứu cũng cho
thấy tý suất tử vong mẹ của nhóm phụ nữ sinh con thứ 3 trờ lên (283/100.000 ca
sinh sống) cao gấp 4 lần nhóm sinh 1 -2 con; ở nhóm kết thúc thai nghén tại nhà
rất cao (156/100.000 ca sinh sống) và cao gấp 5 lần so với nhóm kết thúc thai
nghén tại trạm y tế và bệnh viện (32/100.000 ca sinh sống) [3848].
-
Tử vong sơ sinh
1
7
-
Bên cạnh tử vong mẹ, tử vong sơ sinh cũng đang là một vấn đề hết sức
dáng báo động. Theo ước tính cùa WHO, năm 2000 trên tồn thế giới có hơn 4
triệu trường hợp tử vong sơ sinh, trong đó có trên 2,5 triệu trường hợp tử vong
sơ sinh ờ châu Á [383$]. Tại 12 nước khu vực Đơng và Đồng Nam Á, ước tính
mỗi năm có khống 647.000 trẻ tử vong trong giai đoạn sơ sinh [383#]. Một
nửa trong số đó là tử vong trong vòng 24h đầu và 75% xẩy ra trong tuần đầu
sau sinh. Tồng số tử vong sơ sinh chiếm đến 2/3 số từ vong trẻ dưới 1 tuồi.
Cũng tương tự như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, ở phần lớn
các nước trong khu vực Đỏng và Đỏng Nam Á, tỷ lệ giảm tử vong sơ sinh
cũng xảy ra rất chậm trong khi tỉ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng ti giảm một cách
đáng kể. Vì thế để đạt được mục tiêu thiên niên kỷ cùng vẫn là điều khó khăn
với nhiều nước trong khu vực [6666]. Bên cạnh đó, chi ở một số ít nước đang
phát trien có các hệ thống đăng ký khai sinh là có đu thơng tin cung cấp cho
việc ước lượng chính xác tử vong sơ sinh, hoặc những thành tố trước, sau cùa
nó. Ờ những nước khơng có đu thơng tin cho việc ước lượng tử vong sơ sinh
thì con số báo cáo thường thấp hơn con số thực tế dẫn đến việc không đánh giá
dứng tầm quan trọng của tử vong sơ sinh và thiếu sự quan tâm thích dáng
[3838].
Tương tự như trên, các nguyên nhân tử vong thời kv sơ sinh ở khu vire các
nước đang phát trien thường dược do lường một cách nghèo nàn, nên các nguyên
nhân thường được xác định chi tập trung vào ngạt khi sinh, các nhiễm khuân nặng,
các biến chứng của đé non và uốn ván [3838] bên cạnh đó phai kề đến kiến thức
về chăm sóc trẻ nói chung trẻ sơ sinh nói riêng cịn có những hạn ch|21].
-
1
8
-
Sức khỏe trẻ sơ sinh liên quan chặt chẽ đến sức khỏe bà mẹ, nhiều
trường hợp từ vong sơ sinh sớm lien quan đen việc chăm sóc trong đẻ. Một số
yếu tố dẫn đến tử vong mẹ cũng có thể là nguyên nhân gây hại cho thai nhihoặc sơ
sinh. Chuyển dạ tác nghẽn và kco dài ở bà mẹ dẫn den ngạt sơ sinh
hoặc thai chết trong tử cung. Sản giặt và cháy máu trước đẻ cùng là những
nguyên nhân đe doạ đến sự sống của thai nhi. Các nhiễm khuẩn trong q
trình mang thai hoặc khi sinh có thế dẫn đến nhiễm khuấn thai nhi hoặc sơ
sinh. Vì vậy, một số các can thiệp thiết yếu de giảm tử vong mẹ là cũng dô
giảm từ vong sơ sinh [66éé].
Từ vong ờ trẻ sơ sinh còn do nguyên nhân uốn ván sơ sinh, nếu trong
quá trình mang thai người mẹ khồng được tiêm phịng uốn ván đủ mũi thì đứa
trẻ sinh ra không được bảo vệ. Cách ngăn ngừa bệnh uốn ván là chủng ngừa
bằng vẳc-xin trước thực trạng trẽ sơ sinh có tỹ lệ từ vong cao do mác uốn ván,
tổ chức y tế Thế giới WHO kết hợp với UNICEF cùng các nước trên thế giới
đã đưa vacxin uốn ván vào chương trình tiêm chùng mở rộng tồn cầu.
Chương trình Tiêm chủng mở rộng bắt đầu vào năm 1974. Năm 1980, ước
tính có khoảng 20% số trỏ em dưới 1 tuổi được tiêm phòng vắc-xin uốn ván
trên thế giới. Tỷ lệ đó đã tăng lên khoảng 83% vào tháng 7 năm 2013. Chủng
ngừa uốn ván đă cứu hàng trăm ngàn bà mẹ và trẻ sơ sinh. Theo ước tính của
WHO, năm 1998 ở các nước đang phát trien, tỷ lệ từ vong do uốn ván sơ sinh
chiếm 14% (215.000 trỏ), trong số tất cả các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh.
Năm 2010, số trẻ từ vong do uốn ván sơ sinh là 58.000 trẻ, giảm 93% so với
tỷ lệ tử vong do uốn ván sơ sinh cuối nhưng năm 1980. Và căn bệnh này gần
như được loại bỏ hoàn toàn khỏi các nước phát triển vào năm 2013, chi cịn
lại 1 số ít các trường hợp ở các nước dang phát triển.
Dịch vụ làm mẹ an íocm
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Phương Mai (2004) [19] về nguyên
nhân và một số yếu tố anh hưởng đến tử vong mẹ tại 7 tỉnh ở Việt Nam cho
-
1
9
thấy trong số các nguyên nhân từ vong mẹ liên quan tới năng lực CCDV tại
-
20
-
-
các cơ sở y tế có việc vận chuyên bệnh nhân chưa kịp thời, chẩn đốn bệnh và
xử trí cùa thầy thuốc chậm, với tỷ lệ chiếm tới 7,5%.
Đồ Thị Thanh Toàn (2005) [31 ] đà tiến hành nghiên cứu về việc tư vấn
cho phụ nừ trong thời kỳ mang thai và thấy rằng nhừng cuộc tư vấn cho khách
hàng hiện vần chưa được nhân viên y tế thực hiện đúng nghĩa cả về mặt số
lượng và chất lượng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc này là
do các bệnh viện lớn hiện nay đang bị quá tải dẫn den bác sỹ phải làm việc
quá sức và không có đủ thời gian dành cho cơng việc tư vấn.
Bên cạnh đó, theo kết quả nghiên cứu của Đào Thị Minh An (2005) [ 1],
việc hỗ trợ sau tư vấn đối với khách hàng của nhân viên y tế về các biện pháp
cằn phải thực hiện sau tư vấn còn chưa tốt. Có tới 43% người sử dụng dịch vụ
tư vấn về HIV/A1DS trong nghiên cứu đánh giá rằng dịch vụ tư vấn mà họ
nhận được khơng có hiệu quả.
Việc kiếm soát các tai biến sản khoa ở Việt Nam đà nhận được sự quan
tâm hàng đầu trong các hoạt dộng y té nói chung và chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em nói riêng. Điều lạc quan là tuy tai biến sản khoa là
nhừng tai biến nặng có thể gây từ vong cho bà mẹ và trẻ sơ sinh nhưng chúng
có thế phịng ngừa được. Mặc dầu vậy, theo Niên giám Thống kê Y tế 2007
[4], số tai biến sản khoa và tý lẹ tử vong do tai biến sản khoa ở Việt Nam hiện
còn khá lớn. So trường hợp từ vong trong tông sổ mắc của 5 loại tai biến sản
khoa như sau: băng huyết: 69/2.692, sán giật: 7/441, uốn ván sơ sinh: 23/36,
vờ từ cung: 7/66 và nhiễm trùng hậu sản: 11/300.
Theo kết quả nghiên cứu cùa Đào Quang Vinh (2007) [42] về thực trạng
tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài Đức, Hà Tây, nay
là Hà Nội, thì hình thái tai biến sản khoa gặp nhiều nhất trong mẫu điều tra là
băng huyết, chiếm tới trên ba phần tư số trường họp tai biến sản khoa (94,4%),
tiếp đó là nhiềm trùng và sản giật/tiền sàn giật (cùng chiếm tỳ lệ 2,8%).
21
-
-
Chăm sóc sau sinh cho sản phụ giừ một vai trò hết sức quan trọng, tuy
nhiên chưa được thực hiện như mong đợi. Nghiên cứu của Ngơ Văn Tồn
(2006) [32J đưa ra kết quả phỏng vấn các bà mẹ sau sinh: chi có 32,1% phụ
nữ dược nhân viên y té khám lại trong vòng 2 giờ đầu sau đe, 51,2% được
khám lại trong vòng 3-12 giờ sau đẻ, và số phụ nữ được khám lại trong ngày
đầu tiên sau đè cúng chi chiếm tý lệ 86,9%.
1.2.2.
Kỉến thức và thực hành của phụ nữ về làm mẹ an toàn
Vấn đề làm mẹ an toàn là một trong những nội dung được các nhà
hoạch định chính sách và chun mơn quan tâm và đề xuất nhiều giải pháp
từ thập kỷ trước. Mục tiêu của làm mẹ an toàn là làm giám tỷ lộ tứ vong và
bệnh tật của bà mẹ và trẻ sơ sinh, vấn dề giảm tỷ lộ tử vong mẹ và trẻ sơ
sinh cũng đà được thế giới công nhận là một trong 6 mục tiêu phát triển của
thế kỳ 21. Sáng kiến làm mẹ an toàn đà được hơn 100 quốc gia và các tổ
chức quốc tế chọn làm chương trình hành động [4646]. Tuy nhiên, qua các
cơng trình nghiên cứu về sức khoẻ bà mẹ có liên quan đến thai nghén và sinh
đẻ cho thấy, tỷ lệ được chăm sóc trước, trong và sau khi sinh khác nhau tuỳ
theo từng vùng, từng nước.
Theo thống kê của WI10, ở các nước đang phát triển, có tới một phần ba
phụ nữ có thai khơng được chăm sóc y tế khi mang thai, 60% cuộc sinh dè
không được thực hiện ở cơ sở y tế, và chi 60% các cuộc đẻ được cán bộ y tế đờ
[14], [69]. Tại Bangladesh, theo kết quả điều tra cơ bản, đa số phụ nừ đà sinh tại
nhà (84%) [56]. Tại Nepal, có những vùng có tới 90% số ca sinh tại nhà [64].
Việt Nam xác định việc chăm sóc trước sinh là một trong những nhiệm
vụ cơ bán của y tế cơ sở. Chiến lược Quốc gia về chăm sóc SK.SS giai đoạn
2001 -2010 đề ra đến năm 2010 cà nước đạt 90% số phụ nữ có thai được khám
thai trước sinh và 60% số phụ nừ có thai được khám thai ít nhất 3 lằn [2].
22
-
-
Việc đáp ứng đầy đù các nội dung CCDV chăm sóc trước sinh ờ nước
ta thực sự cịn gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu của Phan Lạc Hồi Thanh
(2005) [26] qua phỏng vấn nhừng người không khám thai hoặc khám thai
khơng đủ ba lần cho thấy: có 66,2% số đối tượng đưa ra lý do vì bận khơng
bố trí dược thời gian; 28,4% thấy không cần thiết, ngại đi xa và có tới 5,4%
thai phụ đến trạm xá nhưng khơng gặp cán bộ y tế. Tý lệ các bà mẹ không
hiểu về sự cần thiết phái uống bồ sung viên sắt khi mang thai còn cao
(40,9%); tuy nhiên, đáng chú ý là việc đưa ra lý do TYT xâ không có viên sắt
(49,1%). Bên cạnh đó, việc thực hành các bước khám thai của cán bộ y tế ở
tuyến cơ sơ còn chưa đầy đú, chắt lượng chưa cao, thiếu hụt tư vấn cho phụ
nữ về các vấn đề thai nghén.
Một nghiên cứu cho thấy, 94% phụ nữ ở khu vực thành thị dă sinh con
tại CSYT, tỷ lộ này gấp 1,4 lần so với nhừng phụ nữ sông ở vùng nông thôn
và gấp tới 3 lần so với nhừng vùng sâu, vùng xa [60].
Kết quả phóng vấn kiến thức và thực hành về làm mẹ an toàn 240 bà
mẹ sinh con tại nhà ở Nepal năm 2006 cho thấy, có 140 bà mẹ (58,3%) chủ
định sinh ở nhà và 100 (41,7%) không chu định sinh ờ nhà nhưng do một số
lý do đã khiến họ phải thực hiện cuộc sinh đè tại nhà. Trong số 240 ca sinh,
chi có 6,2% được đờ bởi CBYT trong khi đó có 38 (15,8%) bà mẹ dã sinh
một mình. 57,9% trẻ sơ sinh được bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và 85,4%
dược bú trong vòng 24 giờ [6464].
Một nghiên cứu tương tự tại Nigeria được thực hiện vào năm 2008 cho
thấy, trong số 300 bà mẹ sinh tại nhà được phỏng vấn, 66,7% trường hợp chủ
định sinh tại nhà và 33,3% cịn lại khơng chủ định. 13,4% cuộc sinh được
CBYT dờ và 15,7% trường hợp sinh một mình. 65,3% trẻ sơ sinh dược bú
trong vòng một giờ sau sinh và 95,7% trong vòng 24 giờ [4747].
23
-
-
Tại Việt Nam, trong những năm gân đâv, các kêt quả thông kê cho thây
các nội dung làm mẹ an tồn ở nước ta đâ được thực hiện tốt thơng qua các
chỉ số như số lằn khám thai, tỷ lệ phụ nừ sinh con được cán bộ y tế đờ. Tỷ lệ
phụ nữ cỏ thai được quàn lý thai (khám thai ít nhất 1 lan) tăng từ 75,6% năm
2000 lên 94,2% năm 2008. Tý lộ phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần trở lên trong
thai kỳ đã tăng từ 69,7% lên 86,5% và tỷ lộ phụ nữ đẻ được CBYT đỡ năm
2008 là 94,7% [4040], [4747]. Theo số liệu Niên giám thống kê y tế năm
2010, 93,5% phụ nừ có thai được tiêm chủng uốn ván từ 2 lằn trở lên, 97,09%
đẻ được CBYT chăm sóc và 87,78% được khám sau sinh [3344].
Tuy vậy, các chi số này rất khác nhau giữa các vùng, tốt hơn ở khu vực
thành thị so với các vùng sâu, vùng xa nơi có điều kiện kinh tế xã hội còn khỏ
khăn. Tý lộ khám thai ít nhất 3 lần trong thời gian mang thai ở những khu vực
vùng sâu, vùng xa có tăng len trong những năm gân dây song cũng chỉ đạt
khoảng 50% [4040]. Một thống ke năm 2006 cho thấy, nhóm phụ nữ thuộc
nhóm hộ gia đình nghèo, nhóm dân tộc thicu số có xác suất khơng dược khám
thai cao gấp 3,06 lằn ( 0 9 5 % 1,27-7,41) và không được CBYT đờ đẻ cao gấp
6,27 lần (CIọ5 % 2,37-16,6) so với nhóm khơng nghèo [5242].
Tỷ lệ thấp phụ nữ khám thai đủ số lần theo quy định và sinh con tại
CSYT thường tập trung ở nhừng tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc, Tây Bắc và
Tây Nguyên. Các lý do được đưa ra bao gồm đường xa, chi phí tốn kém. Bên
cạnh đó, phong tục tập quán của đồng bào cũng có ảnh hưởng tới lựa chọn địa
điểm sinh của đồng bào: người dân tộc thích đẽ tại nhà, khơng thích khám cán
bộ y tế là nam giới. Sự khác biệt về ngôn ngừ cũng khiến người phụ nừ dân
tộc thiếu số không hiểu được các nội dung truyền thồng và tư vấn về làm mẹ
an tồn và chăm sóc sơ sinh, khiến cho họ cùng khơng có được thơng tin cho
sự lựa chọn phù hợp [3646].
24
-
-
Ket quả nghiên cứu kiến thức và thực hành cua 1.942 phụ nừ nuôi con
dưới 1 tuổi thực hiện trên địa bàn 14 tĩnh cùa Việt Nam được thực hiện vào
5/2009 cho thấy: 77,7% phụ nữ biết về số lần cần khám thai trong một thai
kỳ; tuy nhiên, chỉ có 57,1% phụ nữ đâ khám thai từ 3 lần trở lên; lv do chủ
yếu là họ thấy không cần thiết phải khám thai (35,7%), tiếp đến là không biết
phải đi khám thai (29,5%). Da số phụ nừ lựa chọn trạm y tế và cơ sở y té tư
nhân là nơi khám thai (46,8% và 24,5% theo thứ tự). Tỳ lệ phụ nữ biết các
dấu hiệu nguy hiểm đối với bà mẹ và thai nhi trong kỳ thai nghén rất thấp, chỉ
ờ mức dưới 50%. Tỷ lệ phụ nữ đã tiêm phòng đủ mũi, uống viên sắt chiếm
khá cao (85,9% và 73,9% theo thứ tự). Tỷ lệ phụ nừ được tư vấn về xét
nghiệm HIV tự nguyện hay đă đi xét nghiệm HIV tự nguyện còn thấp (26,4%
và 13,9%) [2020].
Kết quả phỏng vấn 978 phụ nữ có chồng tại hai tỉnh Thừa Thiên Huế
và Vĩnh Long cho thấy, 89,0% phụ nữ cho rằng trong lần mang thai gần dây
nhất họ đă đến CSYT đề khám thai trong đó 62,0% đã khám thai ít nhất 3 lần;
91,0% đă sinh tại co sở y tế trong đó 57,0% sinh tại bệnh viện tuyến huyện và
tỉnh; 35% phụ nừ khám thai tại các CSYT tư nhân nhưng chỉ có 1 1,0% sinh
tại đây. Nghiên cứu cùng cho thấy, nhóm phụ nừ làm nơng nghiệp, có thu
thập thấp, có hơn 2 con và sống tại các khu vực nơng thơn có xu hướng sử
dụng các dịch vụ tại Trạm Y tế (TYT) nhiều hơn so với các nhóm khác
[57S2].
25
-
-
Kết quả kiềm kê số liệu sổ sách tại 200 Trạm Y tế của 30 huyện thuộc 5
tĩnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Kon Turn và Gia Lai cho thấy: Tỷ lệ phụ
nừ đẽ năm 2010 được khám thai ít nhất 3 lần trong một thai kỳ còn thấp
(49,5%), cao nhất ở Kon Turn (62%) và thấp nhất ở Điện Biên (41,4%). Tỷ lệ
phụ nữ đẻ được tiêm phòng uốn ván từ 2 mũi trở lên đạt 77,7%, cao nhất ở
Kon Turn (88,1%) và thấp nhất ờ Điện Biên (67,8%). Tý lệ phụ nữ đe trongđược cán
bộ y tê đã qua đào tạo vê chăm sóc thai sản của Trạm y tê, nhà hộ
sinh, của bệnh viện đờ đạt 54,9%, cao nhất ở Sơn La (72,5%) và thấp nhất ở
Lai Châu (33,6%) [3434].
Kct quả điều tra cuối kv tại 7 tỉnh tham gia Chương trình quốc gia 7
cho thấy tỷ lộ khá cao phụ nữ biết cần phải đi khám thai ít nhắt 3 lần trong
một thai kỳ (90,4%) và phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần trơ lên (84,8%). Tỷ lệ
phụ nừ có thai tiêm phịng uốn ván đủ mũi đạt 68,6%. Tỷ lệ phụ nừ sinh con
tại CSYT là 86,6% và tỷ lệ phụ nữ đẻ được CBYT đỡ là 88,6%. Kết quả
nghiên cứu cùng chỉ ra rằng, kiến thức của phụ nừ về làm mẹ an tồn vẫn cịn
hạn chế. Đa số phụ nữ được phỏng vấn mới nêu được hai dấu hiệu nguy hiềm
trong thời gian mang thai là “đau bụng” (56,6%) và “chảy máu“ (59,3%)
[4444].
Ket quà Điều tra ban đầu Dự án hồ trợ y tế vùng duyên hải Nam Trung
bộ cho thấy, có 81,6% số phụ nừ đang ni con bé nhất năm 2009 được
phỏng vấn đă đi khám thai từ 3 lần trở lên; 90,8% được tiêm phòng đày đù
trong lần mang thai gần dây nhất. Phần lớn phụ nữ được phỏng vấn trong
nghiên cứu cho biết họ đã đốn cơ sở y tế nhà nước đế đẻ trong lần sinh con
vừa rồi. Nhiều nhất là bệnh viện (BV) huyện (40,2%), tiếp đến là TYT xã
(23%), BV tỉnh (22,7%) [99].
Nghiên cứu tại 4 tỉnh Điện Biên, Hịa Bình, Thanh Hóa và An Giang
năm 2011 cho kết quả như sau: 91,9% phụ nữ đang nuôi con dưới 3 tuồi được