Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
PHẠM DUY CƯỜNG
THỰC TRẠNG NUÔI CON BANG SỮA MẸ
VÀ MỘT SỖ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI HUYỆN
THANH SƠN,
TỈNH PHÚ THỌ NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 60.72.03.01
Hướng dẫn khoa học: TS. CAO THỊ THU HƯƠNG
TS. NGUYỀN ĐỨC THANH
THÁI BÌNH - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân trọng tới Đảng ủy, Ban Giám
hiệu, phòng Quán lý đào tạo Sau đại học, Khoa Y tế Công cộng - Trường Đại
học Y Dược Thái Bình đã tạo môi trường tốt nhất để tôi học tập và hoàn thành
luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Khoa Y tế Công
cộng - Trường Cao Đẳng Y Tế Phú Thọ đã tạo mọi điều kiện để tôi được học
tập và hoàn thành khóa học cao học này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Cao Thị Thu Hương và
TS. Nguyễn Đức Thanh đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và khuyển khích tôi
trong suốt quá trình học tập, nghicn cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tất cả các Thầy, Cô đã giúp đỡ
và đóng góp những ý kiến quý báu dành cho tôi trong suốt quá trình xây dụng
đề cương, triển khai đề tài và hoàn chinh luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc cùng toàn thể các
anh, chị cm đồng nghiệp của Trung tâm Y tế và các trạm y tế xã thuộc huyện
Thanh Sơn nơi tôi tiến hành nghicn cứu, đà tạo mọi điều kiện để tôi triển khai
đề tài nghicn cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin bày tò lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động vicn tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành luận văn này.
Trân trọng cam ơn!
Thủi Bình, tháng 10 năm 2014
Phạm Duy Cường
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu được tiến hành nghiêm
túc, do tôi trực tiếp thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và chưa có ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Học viên
Phạm Duy Cường
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIÉT TẮT
A&T
:Alive and Thrive
( Nuôi dưỡng và phát triển )
BMHT
: Bú mẹ hoàn toàn
CN
: Công nhân
CP
: Chính Phủ
IQ
: Intelligence quotient
( Chì số thông minh)
LTTP
NCBSM
NCBSMHT
: Lưcmg thực thực phẩm
: Nuôi con bằng sữa mẹ
: Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
NĐ-CP
: Nghị Định - Chính Phũ
NVYT
: Nhân viên y tế
ORS
: Oral rehydration salts
PTTH
( Muối bồi phụ nước bằng đường uống)
QH
: Phố thông trung học
THCS
: Quốc Hội
UNICEF
: Phổ thông cơ sở
USAID
: Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc
WHO
: Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
: World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
WIC : Chương trình cung cấp dinh dưỡng đặc biệt cho phụ
nữ, trẻ sơ sinh và trẻ em của Hoa Kỳ
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Bảng 3.1. Một số thông tin về bà mẹ có con dưới 25 tháng tuối tham gia
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa bà mẹ biết tác dụng của việc cho bú ngay sau
Biếu đồ 3.4. Tỷ lệ các bà mẹ có cảm giác căng tức sữa và vắt sữa ra khi đi làm . 44
ĐẶT VÁN ĐÈ
Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm đảm
bảo cho sự phát triền tốt của trẻ. Sữa mẹ cung cấp cho trẻ những chất dinh
dưỡng cần thiết, những kháng thề chống bệnh tật giúp trẻ khoé mạnh. Trẻ
được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ sẽ chóng lớn, phát trien đầy đú về the lực cũng
như trí tuệ [4], [21]. Theo khuyến cáo cúa WHO, các bà mẹ nên cho trẻ bú
sớm ngay sau khi sinh, nuôi trẻ bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho
trẻ ăn bố sung hụp lý và bú mẹ kéo dài tới 24 tháng hoặc lâu hơn [59],
Lợi ích của việc NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia đình và xã
hội đã được thừa nhận. Những lợi ích trước mắt cho sức khỏe của mẹ và trẻ,
ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vai trò của nuôi con bàng sữa mẹ
trong việc ngăn ngừa các bệnh mân tính. Trẻ được nuôi dưỡng bàng sữa mẹ ít
có nguy cơ mắc bệnh béo phì và một số bệnh mạn tính như dị ứng, hen phế
quản... [22], Bên cạnh những lợi ích về mặt y tế, việc nuôi con bằng sữa mẹ
còn đem lại lợi ích về kinh tế cho cả gia đình và hộ thống y tế, NCBSM ít tốn
kém thời gian, tiền bạc hơn so với nuôi con bằng sữa nhân tạo. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt đối với những gia đình nghèo khi họ, những người đang phải
chi tiêu một khoản lớn trong thu nhập cúa mình cho các sán phẩm sữa tré em,
tin tướng rằng nuôi con bằng sữa mẹ là cách đế tăng cường sự thông minh cho
trẻ và cũng là cơ hội cho trẻ có được cuộc sống tốt đẹp hơn [ 16], [34],
Theo WHO, mỗi năm trên trái đất có hơn 1 triệu trẻ em tử vong và hàng
triệu trẻ phải gánh chịu hậu quả lâu dài do không được nuôi dưỡng hợp lý
[54], Việc cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời có thể giúp rất
nhiều trẻ em giảm nguy cơ tử vong. UNICEF ước tính hàng năm cho trẻ bú
sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu sau sinh có thể phòng tránh được tử vong
cho 1,3 triệu trẻ em dưới năm tuổi [52], Ngoài ra, việc NCBSMHT trong 6
tháng đầu có thể ngăn cản việc bà mẹ sớm có thai trở lại [2],
1
0
Tỷ lệ NCBSMHT trên thế giới cũng như ở Việt Nam rất thấp. Theo báo
cáo vì sự tiến bộ trẻ em của Unicef, tý lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu giai
đoạn 1996-2004 thì khu vực Châu Á Thái Bình Dương cao nhất (43%), khu
vực Đông và Nam Phi (41%), Nam Á (38%), Trung Cận Đông và Nam Phi
29%, Trung Đông Âu và khối các quốc gia độc lập (22%), Tây và Trung Phi
20%. Tỷ lệ NCBSMHT ở các nước đang phát triển là 36%, nước kém phát
triển là 34%. Cũng theo báo cáo này thì tý lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu ở
nước ta là 15%, tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực:
Trung Quốc là 50%, Indonesia là 40%, Lào 23%, Philippin 34% [58],
Theo khảo sát cùa Viện Dinh dưỡng & Tổng cục Thống kê năm 2005, tỷ
lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn trong 4 tháng đầu là 18,9%, ở nông thôn tỷ lệ này
là 20,8% và ở thành thị là 16,2%. Tỷ lệ bà mẹ NCBSM hoàn toàn giảm nhanh
sau tháng thứ tư, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ còn 12,2%, và
có tới 38,7% bà mẹ cho con ăn thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay trong tuần
đầu tiên [20].
Huyện Thanh Sơn là một huyện vùng núi của tỉnh Phú Thọ, huyện lỵ là
thị trấn Thanh Sơn, có dân số là khoảng 120.229 người trong đó có khoảng
30.000 tré em dưới 25 tháng tuổi. Tỷ lệ SDD trẻ <5 tuổi là 19,61% cao hơn tỷ
lệ trung bình của toàn tinh là 16,1%. Không có số liệu chính thức về NCBSM,
tuy nhiên theo đánh giá của cán bộ y tế xã thì “mặc dù được cán bộ y tế tư vấn
nhưng cũng chỉ có khoảng dưới 20% các bà mẹ NCBSM hoàn toàn trong 6
tháng đầu. Đa số các bà mẹ bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung từ tháng thứ 3-4”. Ket
quả phỏng vấn nhanh một số bà mẹ có con từ 6 tháng đến dưới 2 tuồi cũng
cho thấy họ biết được một số lợi ích của việc NCBSM, nhưng đa số cho rằng
chỉ cần NCBSM hoàn toàn trong 3-4 tháng, sau đó nên cho trẻ ăn bồ sung cho
cứng cáp.
1
1
Với khuyến cáo NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng như hiện nay thì thực
tế các tỷ lệ này sẽ như thế nào? Bà mẹ sẽ phải đối mặt với những khó khăn gìđế có
thế thực hiện được NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng? Câu hỏi này hiện
nay vẫn ít được đề cập đến.
Trước tình trạng này chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng nuôi
con hằng sữa mẹ và một so yếu to liên quan trên địa hàn huyện Thanh Sơn,
tỉnh Phú Thọ năm 2013. "Nhằm hai mục tiêu sau:
1.
Mô tả thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 25
tháng tuồi trên địa bàn huyện Thanh Son, tỉnh Phú Thọ.
Xác định một sổ yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa
mẹ của
các bà mẹ có con dưới 25 tháng tuổi trên địa bàn huyện Thanh
Son,
tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG 1
TỎNG QUAN
1.1. Một số hiểu biết về nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.1.
Một số khái niệm
- Nuôi con bằng sữa mẹ là đứa trẻ được bú mẹ trực tiếp hoặc sữa mẹ vắt
ra
- Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn là đứa trẻ chỉ bú sữa từ mẹ hoặc vú
nuôi hoặc từ vú mẹ vắt ra. Ngoài ra, không ăn bất kỳ một loại thức ăn dạng
lỏng hay rắn khác trừ các dạng giọt, Siro có chứa các vitamin, chất khoáng bồ
sung hoặc thuốc [ 19]
- Bú sớm: là cho trẻ bú ngay trong vòng 30 phút đến 1 giờ sau khi sinh
[54],
- Bú mẹ c h ủ yếu\ là cách nuôi dưỡng trong đó nguồn dinh dưỡng chính
là sữa mẹ, tuy nhiên trẻ có thồ được nhận them nước uống đơn thuần hoặc
một số thức ăn, đồ uốn dạng lỏng như nước hoa quả, nước đường, ORS hoặc
các loại thức ăn lóng cố truyền với số lượng ít [ 14], [ 57].
- Bú b ì n h : là cho trẻ bú bằng bình sữa, bất kế sữa gì kế cả sữa mẹ vắt ra
cho vào bình [57],
- C a i s ữ a : là sự chuyển giao vai trò cung cấp năng lượng từ sữa mẹ
sang các thực phấm trong bừa ăn gia đình đế kết thúc thời kỳ bú mẹ [56].
- C h o trẻ ă n b ố s u n g ( ă n sam): Theo tổ chức Y te thế giới (WHO) sữa
mẹ chi thoả mãn nhu cầu cùa cơ thể trẻ trong 6 tháng đầu vì cơ thể trẻ ngày
càng lớn lên. Do vậy đế đáp ứng nhu cầu phát trien của trẻ, đến một giai đoạn
nhất định trẻ cần ăn bổ sung thức ăn khác ngoài sữa mẹ. Ăn sam cho trẻ bắt
đầu từ 5 tháng tuổi trờ lên [26],
Từ 5 - 6 tháng: bú mẹ là chính cộng thêm 1 bừa bột và nước hoa quả
sau tăng dần lên 2 bừa bột 1 ngày và nấu đặc dần.
Từ 7 - 12 tháng: vẫn bú mẹ là chính cộng thêm 3-4 bừa bột đặc mỗi
ngày và cho trẻ ăn thêm hoa quá nghiền.
Bát bột của trẻ có đu 4 nhóm thức ăn: nhóm chất bột (gạo, ngô,
khoai,...), nhóm chất béo (lạc, vùng, dầu, mỡ...), nhóm chất đạm (thịt, trứng,
sữa, cá...), rau và hoa quả.
-
Cho trẻ bú sớm sau sinh :
Cho trẻ bú càng sớm càng tốt, muộn nhất là không quá 30 phút sau sinh
thường và 4 giờ sau mổ lấy thai [52]. Cho trẻ bú sớm để tận dụng sữa non,
động tác bú vú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin và prolactin giúp tử
cung mẹ co hồi tốt tránh băng huyết sau sinh.
Không ncn vắt sữa non, cũng không cần cho trổ uống bất kỳ thức uống
gì ngoài bú mẹ.
-
Cho trẻ bú như thế nào?
Bú nứa giờ đầu sau sinh.
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu mà không cần cho trẻ ăn uống thêm bất
cứ thứ gì khác.
Mẹ và con luôn nằm cạnh nhau.
Cho trẻ bú theo nhu cầu.
Trẻ không bú được thì vắt sữa ra ly và cho trẻ bú bằng thìa.
Trẻ bị bệnh cần cho bú mẹ nhiều hon.
Cho trẻ bú mẹ kéo dài đến 2 năm hoặc nhiều hơn.
-
Tư thế ngậm bắt vú như thế nào là đúng?
Toàn thân trẻ áp sát vào người mẹ, đầu thân và mông tré thẳng hàng.
Miệng trẻ mở rộng, cằm sát vú mẹ.
Ngậm sâu vào quầng vú.
Mẹ không cảm thấy đau đầu vú.
-
Làm thế nào người mẹ có đủ sữa nuôi con?
Ăn no, uống đú, ngủ tốt.
Tinh thần thoái mái, nghi ngơi hợp lý.
Cho trẻ bú nhiều lần, bú cả ngày lẫn đêm.
Cho trẻ bú từng lượt bên, hết vú bên này mới chuyển bên kia.
Trong những năm gần đây rất có nhiều đề tài nghiên cứu khẳng định tầm
quan trọng của sữa mẹ và lợi ích nuôi con bàng sữa mẹ, đã có nhiều chương
trình giáo dục sức khỏe về nuôi con bằng sữa mẹ và lợi ích của sữa mẹ.
Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp tự nhiên nhưng kinh tế, an toàn và
hiệu quả bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
1.1.2.
Thành phần cơ bán của sữa mẹ
Sữa mẹ được coi là một loại vắc-xin có thể phòng tránh tử vong cho trẻ,
chi phí thấp, an toàn, có thế uống trực tiếp và không cần bảo quản lạnh [41].
Sữa mẹ được bài tiết theo cơ chế phản xạ, khi trẻ bú xung động cảm giác từ
vú lên não kích thích cơ thồ bà mẹ sán sinh ra hooc môn prolactin và
oxytocin. Trong đó prolactin sẽ kích thích tuyến sữa tạo sữa, oxytocin có tác
dụng co bóp cơ trơn làm co bóp tử cung có tác dụng phòng chống cháy máu
sau đẻ và giúp tạo sữa được phun ra [54], [57].
1.1.2.1.
Sữa non
Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt, được hình thành từ tuần 14-16 của thai
kì và được tiết ra từ lúc sinh đến 2-3 ngày sau khi sinh, sữa có màu vàng, kết
cấu keo dính và chứa nhiều kháng thể [52], [54],
Trẻ bú sớm sẽ nhận được sữa non, là thức ăn phù hợp với bộ máy tiêu
hóa của trẻ. Sữa được tiết ra trong vài ngày đầu sau khi sinh con. Sữa non đặc
sánh, màu vàng nhạt, chứa nhiều chất chống nhiễm khuẩn và kháng thể đế
bảo vệ cơ thể cho trẻ. Ngoài ra, sữa non còn có nhiều đặc tính khác như: có
nhiều tế bào bạch cầu, giàu Vitamin A, có yếu tố tăng trưởng biểu bỉ ruột,
chất đạm lactalbumin dưới tác dụng của dịch tiêu hóa sẽ biến đối thành những
phân tử nhỏ giúp trẻ dễ hấp thụ [56],
Sữa non đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và bảo vệ trẻ.
Sữa non chứa nhiều te bào bạch cầu, kháng thế hơn sữa trưởng thành nên giúp
trẻ sơ sinh phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm và cung cấp khá
năng miễn dịch đầu tiên cho trẻ đề chống nhiều bệnh mà trẻ có thể bị mắc sau
đẻ [5], [54], Vitamin A trong sữa non có tác dụng làm giảm độ nặng của các
bệnh nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, sữa non còn có tác dụng xồ nhẹ, tăng bài tiết
phân xu, phòng các bệnh dị ứng và cũng có tác dụng thải bilirubin ra khỏi
ruột làm giảm mức độ vàng da sinh lý [5], [54],
Sữa non tuy ít nhưng thỏa mãn được nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ sơ
sinh do lượng protein cao gấp 2-3 lần sữa trường thành [5], [ 57], Hàm lượng
kháng thế và vitamin cao nhất trong sữa non trong vòng 60 phút sau khi sinh
sau đó giảm dần. Như vậy, trẻ được bú sữa non trong những bừa bú đầu tiên
là vô cùng quan trọng. Chúng ta không ncn cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống
nào trước khi trẻ bắt đầu bú sữa non.
1.1.2.2.
Sữa trưởng thành
Sữa trưởng thành là sữa mẹ sản xuất ra sau đé vài ngày, số lượng sữa
nhiều hơn làm hai bầu vú bà mẹ căng đầy và cứng, người ta gọi đây là hiện
tượng sữa về. Trong sữa mẹ có đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, Glucid,
Lipid, Vitamin và khoáng chất đủ cho tré phát triển trong 6 tháng đầu. Thành
phần các chất dinh dưỡng ở một tỷ lệ thích hợp và dễ hấp thu đáp úng với sự
phát triển nhanh của trẻ [54], [57], Sữa mẹ luôn luôn tự nhiên, tinh khiết, sạch
sẽ và thay đổi theo thời gian nhàm đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của
trẻ. Sữa mẹ giúp cho trẻ tránh được bệnh tật, dị ứng, béo phì và các bệnh tật
khác [54], [57], Vì vậy, sữa mẹ là thức ăn duy nhất mà trẻ nhỏ cần trong 6
tháng đầu.
Protein, glucid, lipid
P ro t e i n : hàm lượng protcin trong sữa mẹ ít hơn sữa động vật nhưng có
đù các loại acid amin cần thiết với tỷ lệ cân đối và dễ hấp thu. Protein cùa sữa
mẹ gồm nhiều casein, albumin, lactabumin, ß-Lactoglobulin, globulin miễn
dịch (kháng thể) và các glycoprotein khác. Đặc biệt casein là một chất đạm
quan trọng có kết cấu mềm, dề hấp thu hơn so với động vật và có tác dụng
ngăn chặn bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp, viêm tai và dị ứng [53], [54],
L i p i d : cấu trúc của lipid trong sữa mẹ có nhiều acid béo chuồi dài
không no dễ hấp thu và nhiều acid béo cần thiết như acid linoleic đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển hệ thần kinh, mắt và sự bền vừng
của mạch máu ở trẻ nhó. Hàm lượng lipid trong sữa mẹ vào khoảng
5,5g/100ml, lipid cung cấp khoảng một nửa lượng kalo cho trẻ bú mẹ [54],
G l u c i d : trong sữa mẹ chủ yếu là đường lactose với hàm lượng khoảng
7g/100ml. Một so lactose trong sữa mẹ vào ruột chuyển thành acid lactic giúp
cho sự hấp thu calci và muối khoáng [54],
Vi t a m i n : Sữa mẹ có nhiều vitamin A hơn sữa công thức, vì vậy tré bú
sữa mẹ sẽ đề phòng được bệnh khô mắt. Các vitamin khác trong sữa mẹ cũng
đú cung cấp cho trẻ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ được ăn uống và nghi ngơi
đầy đủ, ngoại trừ vitamin D là loại vitamin cơ thể tự tổng hợp khi tiếp xúc với
ánh nắng mặt trời [54],
M u ố i k h o á n g : Nguồn Ca, Fe và Zn trong sữa mẹ tuy ít hơn trong sữa
công thức nhưng có hoạt tính cao, dỗ hấp thu do vậy vần đáp ứng được nhu
cầu của trẻ nên trẻ được nuôi bằng sữa mẹ đặc biệt là hoàn toàn trong 6 tháng
đầu sẽ ít bị còi xương và thiếu máu do thiếu sắt hơn những trẻ được nuôi bằng
sữa bò [53], [54],
Các yếu tỏ miên dịch trong sữa mẹ
Trong sữa mẹ có nhiều yếu tố quan trọng có vai trò báo vệ cơ
thể mà
trong sữa bò và các loại sữa thay thế khác không có. Trong đó
có hai yếu tố
quan trọng là Globulin miền dịch, chủ yếu là IgA giúp bảo vệ
cơ thề chống lại
các bệnh đường ruột. Bạch cầu giúp cho trẻ chống lại các
bệnh do virut, vi
khuẩn gây ra [51]. Bcn cạnh đó, trong sữa mẹ còn có một số
yếu tố khác như
interferon, lizozym, lactoferin, bifidus...
18
1.2. Tầm quan trọng và lọi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ
1.2. ì. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ
Những năm gần đây, tình trạng sức khóe và dinh dưỡng của trẻ em trên
toàn thế giới đã được quan tâm và cải thiện đáng kể. vấn đề dinh dưỡng được
quan tâm hàng đầu đó chính là chương trình nuôi con bằng sữa mẹ. Quỹ Nhi
đồng Liên họp quốc đã coi việc NCBSM là một trong bốn biện pháp quan
trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, nó đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của
trẻ trong 6 tháng đầu đời [3], [54], [57]. Tổ chức Y tế Thế giới cũng khẳng
định: Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự
tăng trưởng và phát triển, kết quá học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập
của trẻ trong tương lai. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT
trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước
tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm
[54], [55], Vì vậy, WHO khuyến cáo rằng các bà mẹ hãy cho con bú nhiều
lần, bất kế khi nào trẻ đói, kế cả ban đêm, trẻ càng bú nhiều mẹ càng tiết
nhiều sữa. Đặc biệt trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú sữa mẹ hoàn toàn mà
không cần ăn thêm bất cứ loại thức ăn nào khác kể cả nước [3], 54],
1.2.2.
Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ
Sau khi sinh, bà mẹ cần cho trẻ bú càng sớm càng tốt, đặc biệt trong
một giờ đầu vì trong giờ đầu tiên của cuộc đời, trẻ sơ sinh ở trạng thái tinh
táo, nhanh nhẹn nhất dễ thực hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điếm này qua
đi, trẻ trở nên buồn ngủ hơn vì bắt đầu phục hồi sau quá trình thở [54],
Sữa mẹ tiết theo phản xạ và được tiết ra sớm hơn ở những bà mẹ cho
con bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh so với các bà mẹ chờ xuống
sữa tự nhiên. Khi bà mẹ được ngắm nhìn con, nghe thấy tiếng khóc của con
và tin tưởng rằng mình có sữa cho con bú thì sẽ hồ trợ tốt cho phản xạ này. Vì
vậy ngay sau sinh bà mẹ phải được nằm cạnh trẻ và cho trẻ bú sớm [54],
19
Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sàn xuất oxytocin giúp bà mẹ co hồi
tử cung nhanh hơn góp phần làm giảm nguy cơ cháy máu sau đẻ [54],
Trẻ bú mẹ sớm sẽ bú được sữa non rất tốt cho sức khỏe của tré, giúp trẻ
phòng tránh được các bệnh nhiễm khuẩn, dị ứng, vàng da, không dung nạp
thức ăn khác [54],...
a/ Lợi ích đối với trẻ em
Sữa mẹ mang lại cả lợi ích ngắn hạn và dài hạn đối với trẻ. Khi đứa trẻ
vừa được sinh ra, sữa mẹ bao gồm các kháng thể và các hoạt chất sinh học
khác chính là yếu tố miễn dịch đầu tiên có trong sữa non giúp trẻ chống lại
bệnh tật. Trong khi đó sữa bột không có đủ các yếu tố cần thiết trên. NCBSM
là một trong nhũng thực hành có lợi nhất mà một bà mẹ có thể thực hiện đố
bảo vệ con mình khỏi nhiễm khuấn và vi rút. Sữa mẹ là duy nhất và được sản
sinh đế đáp ứng nhu cầu của trẻ. Sữa mẹ thay đồi thành phần đổ đáp ứng nhu
cầu thay đồi của trẻ trong các cừ bú. Khi đứa trẻ lớn lên, các thành phần cùa
sữa mẹ cũng thay đối đế đáp ứng những nhu cầu cúa trẻ đang lớn, điều mà các
sán phàm thay thế sữa mẹ không có được. Những trẻ được bú mẹ ít phải đến
bệnh viện hơn hoặc ít phải uống thuốc, giảm nguy cơ lây nhiễm và mắc các
bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, hen suyễn, nhiễm trùng tai, nhiễm khuẩn
đường hô hấp [54], Kết quả phân tích từ 7 nghiên cứu thuần tập của Bachrach
và cộng sự cho thấy rằng trẻ được nuôi bằng sữa công thức phải đối mặt với
một nguy nhập viện do nhiễm trùng đường hô hấp dưới trong năm đầu tiên
của cuộc sống cao gấp 3,6 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn hơn 4 tháng.
Phần lớn các ca nhập viện hô hấp cho trẻ sơ sinh là kết quả của nhiễm Vi rút
Hợp bào Hô hấp - Respiratory Syncytial Virus (RSV). Chất béo trong sữa mẹ
có tác dụng kháng virus chống lại RSV [50], [ 23].
20
Ngoài ra, việc trẻ không được bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ béo phì, đái
tháo đường type I và II cũng như bệnh tăng huyết áp và tim mạch. Nghiên
cứu của Christopher G. Owen và cộng sự chỉ ra rằng những đứa tré được nuôibằng
sữa mẹ có nguy cơ bị béo phì khi trướng thành chỉ bằng 0,87 lần so với
những đứa trẻ được nuôi bàng sữa công thức [46]. Những đứa trẻ được nuôi
bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiểu đường type II chỉ bằng 0,61 lần so với
những đứa trẻ được nuôi bàng sữa công thức [45], NCBSM làm tăng chỉ số
thông minh và cải thiện kết quả học tập sau này của trẻ. Trẻ bú mẹ càng lâu
thì càng có khả năng trí tuệ cao hơn, điều này được thể hiện qua những kỳ
năng vận động, kỹ năng ngôn ngữ và khả năng nhận thức hoàn thiện hơn,
những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ có điểm IQ cao hơn 7,5 điểm so với những
đứa
trẻ
không
được
bú
mẹ
[44].
b/ L ợ i í c h đ ô i v ớ i h à m ẹ
Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thòi ít nguy
cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng trứng,
loãng xương và chứng trầm cảm sau khi sinh. Các bà mẹ cho con bú sẽ ít có
nguy cơ bị thiếu máu và có hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thế
giảm căng thắng [38], NCBSM cũng giúp các bà mẹ tránh thai tốt hơn, các bà
mẹ cho con bú hoàn toàn thường không rụng trứng trong ít nhất sáu tháng sau
khi sinh, trong khi đó đối với các bà mẹ không cho con bú thì quá trình này có
thể xảy ra ngay sau sáu tuần ke từ khi sinh con [39]. Nghiên cứu chỉ ra rằng
nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong sáu tháng đầu và không có dấu hiệu có
kinh
c/
nguyệt
Lợi
ích
trở
đối
lại
thì
với
khả
gia
năng
đ ì n h,
mang
xã
thai
hội
là
và
dưới
doanh
2%
[24],
nghiệp
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp giảm thiểu các chi phí tổn kém của việc cho
trẻ ăn sữa công thức. Ước tính trung bình mồi gia đình tiêu tốn khoảng
800.000-1.200.000 đồng mỗi tháng nếu cho trẻ ăn các sản phẩm thay thế sữa
mẹ. Chi phí này chiếm 53-79% thu nhập bình quân 1 năm của người Việt Nam
21
(18.227.000 đồng) và một phần khá lớn trong tổng thu nhập của một gia đình.
Ngoài ra nhờ các lợi ích về mặt sức khỏe cùa nuôi con bằng sữa mẹ, các gia
đình tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho việc khám chữa bệnh [38],
22
Nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe cho trẻ
và mẹ mà còn mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Theo Bộ Nông nghiệp
Hoa Kỳ, chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 3,6 tỷ đô la mỗi năm trong việc
chi trả gián tiếp cho chăm sóc sức khỏe nếu như có ít nhất 75% bà mẹ cho con
bú sớm sau sinh và 50% bà mẹ cho con bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi.
Tại Việt Nam, nếu các bà mẹ NCBSMHT trong 6 tháng đầu họ có
thể tiết kiệm một khoản tiền tương đương 11,435,670,000,000 đồng từ việc
không chi tiêu cho các sán phẩm thay thế sữa mẹ. Tuy nhiên, một nửa của
khoản tiền này đang bị lãng phí do tỷ lệ NCBSMHT thấp ở Việt Nam, điều
này làm tăng chi phí y tế chung của quốc gia. Mồi năm, Việt Nam phải chi
khoảng 208,300,000,000 đồng cho khám chừa các bệnh do nuôi dưỡng trẻ
nhỏ kém [13], Bên cạnh lợi ích kinh tế mang lại cho gia đình NCBSMHT
còn có lợi cho doanh nghiệp về mặt lâu dài vì các bà mẹ ít phải nghi làm dể
chăm con ốm, điều này cũng có nghĩa là tạo ra một lực lượng lao động ốn
định [24], Sữa mẹ cũng là một nguồn lực hữu ích đảm bảo an ninh thực
phấm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên toàn thế giới khi có thiên tai hoặc
khủng hoảng kinh tế. Trong những trường hợp nguy cấp, NCBSM giúp bảo
vệ trẻ khỏi các bệnh gây ra do nguồn nước nhiễm ban và có thề ngăn ngừa
tình trạng thân nhiệt thấp [38],
1.3. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ
1.3.1.
Tinh hình nuôi con bằng sữa mẹ trên thể giới
23
Lợi ích và sự cần thiết của NCBSM đối với sức khỏe trẻ em, bà mẹ, gia
đình và xã hội đã được thừa nhận. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới tỷ lệ
cho con bú sớm rất thấp: 17% ở các nước Đông Âu - Trung Á, 33% ở các
nước châu Á Thái Bình Dương và cao nhất là khu vực Mỹ La Tinh - Caribc Bắc và Đông Phi là 50%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
trên thế giới là 39% và không đồng đều giữa các quốc gia [27], như vậy phầnlớn
số tré còn lại được nuôi bằng các thức ăn hoặc nước uống khác ngoài sữa
mẹ ngay từ những tháng đầu.
Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ em được sinh
ra trên toàn the giới từ năm 1996 - 2006, tỷ lệ trẻ em được bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu tăng từ 33% lên 37%. Tăng nhanh nhất ở vùng cận sa mạc
Sahara - châu Phi với tỷ lệ tăng từ 22% - 30%, và châu Âu với tỷ lệ tăng từ
10% - 19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoại trừ Brazil và Mexico, tỳ lệ
trẻ được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [27], [57],
Theo số liệu tổng hợp của Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) tỷ lệ NCBSMHT trong 6 tháng đầu là rất khác biệt giũa các nước và
khu vực khác nhau, tỷ lệ này khá cao ở một số nước như Rwanda 83,3%,
Uganda 63% nhưng lại thấp ở Nigeria 0,8%. Tỷ lệ NCBSM tại Mỹ cũng có
nhiều thay đổi tích cực trong những năm gần đây tỷ lộ bú sớm sau sinh tăng
từ 74,6% năm 2008 lên 76,9% năm 2009, tỷ lộ NCBSMHT trong 6 tháng đầu
tăng từ 44,3% năm 2008 lên 47,2% năm 2009 [28], Tại Châu Á tỷ lệ
NCBSMHT trong 06 tháng đầu cũng khá chênh lệch giữa các nước: Nepal là
68%, Ấn Độ là 46%, Campuchia là 68%, Philippin 33,5%, Bangladesh
43%...[57]. Tại Trung Quốc, tỷ lệ bà mẹ cho con bú sữa non trong 3 ngày đầu
rất cao đạt 94%, tuy nhiên sau đó trẻ lại được cho uống nước, sữa bột, đường
hoặc thức ăn thay thế khác, vì vậy mà chỉ có 35% trẻ được bú mẹ hoàn toàn
trong 4 tháng đầu và tại thời điểm 6 tháng thì tỷ lệ này chỉ còn 28%.
1.3.2.
Tình hình nuôi con hằng sữa mẹ tại Việt Nam
24
Trong nhũng năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong
những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Cùng với những thành tựu đó,
tình trạng sức khỏe và dinh dường của trẻ em đã được cải thiện đáng kể. vấn
đề dinh dưỡng được quan tâm hàng đầu chính là chương trình nuôi con bằng
sữa mẹ. Nhưng trên thực tế, việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ vẫn chưa được
nhiều người dân thực hiện tối ưu theo đúng như khuyến cáo của WHO “trẻ sơsinh
cần được cho bú sớm (trong vòng một giờ đầu sau khi sinh) và được nuôi
hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đàu đời, sau đó ăn bổ sung hợp lý nhưng
vần duy trì cho bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi” [55]. Nghiên cứu của Huỳnh
Văn Tú và Nguyền Vũ Linh tại Bệnh viện Phụ sản bán công Bình Dương cho
thấy tỷ lệ trẻ bú mẹ trong giờ đầu chỉ là 29,7%, tỷ lệ đối tượng NCBSMHT
trong thời gian nam viện sau sinh là 19,8% và có tới hơn 75% số đối tượng
nuôi con bằng cả 2 loại sữa: sữa mẹ và sữa thay thế trong thời gian nằm viện
sau sinh [12].
Năm 2006, tác giả Đinh Thị Phương Hòa tiến hành nghiên cứu tại 4
bệnh viện ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ bà mẹ biết và thực hành cho con bú trong
vòng 1 giờ sau sinh chi là 44,1%, có 78,3% bà mẹ biết về sữa non và 64% bà
mẹ thực hành cho con bú sữa non trong vài ngày sau sinh [6], Bcn cạnh đó
việc ăn dặm của trẻ là phố biến trong 06 tháng đầu tăng từ 16,4% vào tuần 1
lên 56,5% lúc 16 tuần và gần 100% ở tuần 24. Nghiên cứu của Lê Thị Hương
tại Yên Bái năm 2008 cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng 30
phút đầu sau sinh khá cao (gần 90%). Tuy nhiên trẻ được bú mẹ hoàn toàn
đến 4 tháng chỉ dao động từ 17,8% đến 23% và 6 tháng là 18,3% đến 19,8%
[9]. Tỷ lệ NCBSMHT trong 06 tháng đầu theo công bố mới nhất của Viện
Dinh Dưỡng chỉ đạt 19,6% và chỉ có khoảng 20% trẻ em còn bú sữa mẹ đến
24 tháng tuổi do yêu cầu thời gian và hoàn cảnh làm việc của bà mẹ [ 19],
1.4. Một số yếu tố änh huöng đến tập quán NCBSM
Yen to cả nhân
25
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu tỉm hiểu các yếu tố liên quan đến
thực NCBSM trong 6 tháng đầu và chủng tộc được cho là có liên quan đến bú
sớm sau sinh và NCBSM, nghiên cứu trên những người phụ nữ di cư ớ Tây
Ban Nha cho thấy tỷ lệ trẻ bú mẹ trong những giờ đầu tiên là khá cao. Những
phụ nữ mới nhập cư thường có xu hướng cho trẻ bú ngay trong những giờ đầu
và thời gian cho bú kéo dài hơn những phụ nữ nhập cư đã lâu, một sổ bằngchứng
cho thấy phụ nữ Mỹ da đen, phụ nữ gốc Tây Ban Nha cho con bú sớm
sau sinh cao gấp 3,2 lần so với phụ nữ Mỹ da trắng [29], Nghiên cứu của
Helen L McLachlan trên 300 bà mẹ đến từ Thố Nghĩ Kỳ, úc và Việt Nam
sinh con tại úc cũng chỉ ra rằng có sự khác biệt về thực hành NCBSM của các
bà mẹ giũa các quốc gia khác nhau, có tới 98% bà mẹ Thố Nhĩ Kỳ cho con bú
sớm sau sinh, của úc là 84% và Việt Nam 75%, nghiên cứu cũng cho thấy có
đến 40% các bà mẹ Việt Nam cho con sử dụng sữa công thức ở trong bệnh
viện sau khi sinh, trong khi tỷ lệ này ở các bà mẹ người úc chỉ là 19% [42],
Khu vực sống, trình độ học vấn của mẹ và điều kiện kinh tế gia đình
cùng là một trong những yếu tố liên quan đến việc thực hành bú sớm sau
sinh và NCBSM. Nghiên cứu cùa Nguyễn Thu Hương và cộng sự tiến hành
tại Hà Nội trên 2.690 trẻ em cho thấy những trẻ ở đô thị chủ yếu được sinh
ra tại bệnh viện có thời gian bú mẹ ít hơn những trẻ được sinh ra ở ngoài
bệnh viện, những phụ nữ ớ nông thôn có xu hướng cho con bú nhiều hơn ở
vùng thành thị, nghiên cứu cũng chỉ ra 40% trẻ trai được bú sớm sau sinh
tại thành thị so với 35% ờ nông thôn, tỷ lệ trẻ gái ớ thành thị và nông thôn
được bú sớm sau sinh lần lượt là 49% và 40% [37], Tuy nhiên việc
NCBSMHT trong tháng đầu tiên và 3 tháng tiếp theo ở nông thôn phố biến
hơn thành thị đối với cả trẻ trai và gái [37], Phụ nữ đã hoàn thành ít nhất
trung học cơ sở có xu hướng cho con bú ít hơn so với những bà mẹ có trình
độ văn hóa thấp hơn, cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương ở khu
vực thành thị số ngày cho con bú hoàn toàn của các bà mẹ có trình độ học