Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Cơ sở pháp lý về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánhTrường Chinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.75 KB, 85 trang )

Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
CIC : Credit Information Center (Trung tâm thông tin tín
dụng)
WTO : World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế
giới
LCTCTD : Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung
Luật các tổ chức tín dụng năm 2004
MARITIME BANK : Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam
ICC : International Chamber of Commerce /Phòng thương mại
quốc tế
NHTM / NHTMNN / NHTMCP/NHNN: Ngân hàng thương mại / Ngân hàng
thương mại Nhà nước / Ngân hàng thương mại cổ phần/ Ngân hàng nhà nước
BLDS 2005 : Bộ luật Dân sự 2005
TCTD : Tổ chức tín dụng
CBCNV/CBNV : Cán bộ công nhân viên/Cán bộ nhân viên
HĐQT : Hội đồng Quản trị
PGĐ : Phó giám đốc
P.GD : Phòng giao dịch
TCKT : Tổ chức kinh tế
TPKT : Thành phần kinh tế
TMCP : Thương mại cổ phần
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá-hiện đại hoá
HC-NS : Hành chính-nhân sự
QHKH : Quan hệ khách hàng
TĐ : Thẩm định


QLSV : Quản lý sau vay
KTNB : Kế toán nội bộ
KTGD : Kế toán giao dịch
CN : Chi nhánh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
1
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

LỜI NÓI ĐẦU
Hệ thống tổ chức tín dụng luôn đóng vai trò to lớn đối với nền kinh tế, đặc
biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi Việt Nam đang xây dựng công nghiệp hóa - hiện
đại hóa và tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế khu
vực hóa, toàn cầu hóa với nhiều cạnh tranh gay gắt đang đặt ra cho các tổ chức tín
dụng những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải đổi mới đa dạng hóa và hoàn
thiện các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Là một trong những hoạt động
tín dụng truyền thống, nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu được sử dụng rộng rãi trên thế giới
từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước đóng vai trò quan trọng trong giao dịch kinh
tế toàn cầu nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và thương mại quốc tế.
Ở nước ta, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện từ thập kỷ 80 và được đề cập đến trong các
văn bản pháp luật nhưng còn mang tính chất như là một công cụ hỗ trợ do Ngân hàng
Nhà nước thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp quốc doanh vay vốn nước ngoài để
phát triển sản xuất kinh doanh. Trong vài năm gần đây, bảo lãnh ngân hàng thật sự là
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thông dụng trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng do hiệu
quả bảo đảm cao cho quyền lợi của người thụ hưởng.
Thời gian qua, hoạt động bảo lãnh của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam đã

đạt được nhiều kết quả đáng kể góp phần tích cực vào sự thành công của các giao
dịch kinh tế khẳng định chỗ đứng của nó trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động này cũng đang gặp phải không ít những
khó khăn bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến là sự điều
chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy, việc không ngừng nâng cao pháp luật về nghiệp vụ
bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Làm
thế nào để hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng thật sự là đề tài rất đáng được
quan tâm.
Với những lý do trên nên em đã mạnh dạn chọn đề tài “Cơ sở pháp lý về bảo lãnh
ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi
nhánhTrường Chinh” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên để thực tập tốt nghiệp của
mình.
Mục đích của đề tài
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
2
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Trên cơ sở phân tích quy định hiện hành để rút ra những giải pháp kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam phù hợp với những
yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
Phạm vi: Nghiên cứu pháp luật bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam và một số
kết quả thu được từ việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn tại ngân hàng TMCP Hàng
Hải Việt Nam – Chi nhánh Trường Chinh.
Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng kết hợp chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cụ thể là: Phương pháp tư duy có phân tích, so sánh và đối chiếu, phương pháp tổng
hợp nhằm đưa ra những kiến giải, đánh giá khách quan phù hợp với yêu cầu đề tài.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Chuyên đề đã đưa ra được một số vấn đề lý luận về bảo lãnh ngân hàng và
pháp luật bảo lãnh ngân hàng.
- Chuyên đề đã phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về
bảo lãnh được áp dụng tại ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Trường
Chinh trên cơ sở đó đóng góp một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam –
Chi nhánh Trường Chinh.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở pháp lý về bảo lãnh ngân hàng và pháp luật về bảo lãnh
ngân hàng ở Việt Nam.
Chương II: Hoạt động bảo lãnh nhìn từ hoạt động của ngân hàng TMCP
Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Trường Chinh.
Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Trường
Chinh.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
3
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp


1. Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.1 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Ngày nay, bảo lãnh là một lĩnh vực đầy tiềm năng, là một phương thức tài trợ
đặc biệt dựa trên khả năng tài chính và uy tín của NHTM. Sự ra đời và phát triển của
hoạt động bảo lãnh là một tất yếu khách quan gắn liền với nhu cầu ngày càng phức
tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng đã góp phần đa dạng hóa
các nghiệp vụ ngân hàng, giảm thiểu rủi ro hoạt động của NHTM và tài trợ (đặc biệt
là vốn) cho các doanh nghiệp một cách có hiệu quả.
Để tạo điều kiện cho các bên có thể giao kết hợp đồng mà vẫn bảo đảm được
quyền lợi của người có quyền ngay cả trong trường hợp người có nghĩa vụ không có
tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Pháp luật cho phép người thứ ba đứng ra
cam kết trước người có quyền về việc thực hiện thay nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ.
Căn cứ Điều 361 Bộ luật dân sự 2005: “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau
đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình.”
Xét về mặt bản chất, quy định quan hệ bảo lãnh là một quan hệ tay ba giữa
người có quyền, người có nghĩa vụ và người thứ ba. Vì vậy, chủ thể của bảo lãnh
không chỉ là các bên trong quan hệ nghĩa vụ chính. Thông qua việc cam kết giữa
người thứ ba trên cơ sở sự đồng ý của người có quyền hình thành một quan hệ.
Thực tế, Bảo lãnh ngân hàng có thể hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, sau đây
là một số định nghĩa thường được sử dụng:
 Về góc độ học thuật, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức “tín dụng chữ ký –
Signature credit”, là hoạt động sinh lời mà không phải bỏ vốn của ngân hàng.
 Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một loại hình
tài trợ ngoại thương, nhằm phòng ngừa những tổn thất cho người thụ hưởng bảo

lãnh khi đối tác vi phạm các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng.
 Căn cứ Khoản 1 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc ngân hàng nhà
nước, bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
4
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ
và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ tín dụng của NHTM, tuy nhiên nó có
những đặc điểm và tính chất riêng, khác với các hình thức cấp tín dụng khác.
1.2 Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
 Hoạt động bảo lãnh ngân hàng chủ yếu là do tổ chức tín dụng thực hiện
Chủ thể của giao dịch bảo lãnh ngân hàng là các tổ chức tín dụng có đủ điều
kiện. Các điều kiện mà tổ chức tín dụng phải tuân thủ được quy định trong giấy phép
thành lập và hoạt động của các TCTD. Nghiệp vụ bảo lãnh là một hoạt động kinh
doanh thuộc phạm vi hoạt động của các TCTD, như vậy cùng với uy tín và năng lực
tài chính của mình, các ngân hàng thực hiện bảo lãnh nhằm đảm bảo quyền lợi cho
các bên tham gia trong giao dịch.
Bản thân hoạt động bảo lãnh ngân hàng vốn dĩ là loại hình kinh doanh có độ
rủi ro cao, vì thế chỉ có các tổ chức tín dụng kinh doanh ngân hàng chuyên nghiệp
mới có đủ các điều kiện về vốn, trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ và kinh
nghiệm kinh doanh trên thương trường để thực hiện loại hoạt động bảo lãnh đặc thù

này.
 Bảo lãnh ngân hàng là một loại giao dịch thương mại đặc thù
Bảo lãnh ngân hàng là một loại hình bảo lãnh có thu phí nhằm mục đích lợi
nhuận. Bởi lẽ, khi đứng ra bảo lãnh cho khách hàng thông qua việc phát hành thư bảo
lãnh, TCTD có tư cách là người làm dịch vụ cho khách hàng nên đương nhiên có
quyền thu phí dịch vụ bảo lãnh như một khoản tiền công dịch vụ. Cơ sở để thu phí
chính là bằng chứng về việc TCTD đã phát hành thư bảo lãnh theo đúng yêu cầu của
khách hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh mà không cần phải
đợi đến khi TCTD đã thực hiện nghĩa vụ tài sản thay cho khách hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương mại đặc thù còn là vì Hoạt động
kinh doanh này thường chịu sự chi phối của một số quy tắc pháp lý đặc thù, chỉ áp
dụng riêng cho hành vi bảo lãnh có tính chất chuyên nghiệp của các tổ chức tín dụng
như quy tắc về thủ tục bảo lãnh, phí bảo lãnh, giới hạn bảo lãnh và các chế tài áp
dụng đối với bên vi phạm cam kết trong bảo lãnh ngân hàng. Mặt khác khi thực hiện
hoạt động này ngân hàng phải sử dụng đến những kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
5
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

nhằm đảm bảo sự an toàn cho đồng vốn của mình bỏ ra khi chấp nhận đóng vai trò
người thực hiện nghĩa vụ tài sản thay cho khách hàng.

 Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng vừa có tư cách là người
bảo lãnh vừa có tư cách của một nhà kinh doanh ngân hàng
Việc quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh trong quan hệ
bảo lãnh ngân hàng có những điểm khác so với quyền và nghĩa vụ của người bảo

lãnh trong quan hệ bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trong quan hệ bảo lãnh dân sự thông thường, người bảo lãnh có quyền đưa ra
chứng cứ về việc mình không biết khả năng hoàn trả của người được bảo lãnh.
Nhưng trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không thể đưa ra chứng cứ này vì
tổ chức tín dụng là nhà kinh doanh chuyên nghiệp nên buộc phải biết trước tình hình
tài chính của khách hàng xin bảo lãnh trước khi ký kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh với
khách hàng.
 Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên
chứng từ.
Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ,
nó phải được cam kết bằng văn bản. Ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính
trong bảo lãnh cũng như thực hiện quyền đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh cũng
căn cứ vào các chứng từ. Chỉ cần người thụ hưởng xuất trình đầy đủ chứng từ theo
nội dung thư bảo lãnh thì ngân hàng phải ngay lập tức thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Việc xây dựng nguyên tắc này không chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp
và chính đáng của các bên giao dịch mà còn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm
cũng như tính kỷ luật hợp đồng, trên cơ sở đó tạo dựng một môi trường kinh doanh
lành mạnh, minh bạch và an toàn, hiệu quả cho các TCTD.
 Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể đơn phương huỷ ngang
Theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể đơn phương
huỷ ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Điều này được quy định trong Quy tắc thực hành Tín dụng dự phòng quốc tế ISP98
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
6
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp


tại Quy tắc 1.06, đồng thời cũng được pháp luật của nhiều nước trên thế giới công
nhận.
Tính chất không thể huỷ ngang của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chỗ, sau khi
cam kết bảo lãnh hay thư bảo lãnh được phát hành hợp lệ bới một TCTD, không một
cơ quan nào (Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc,…) có thể lấy danh nghĩa
đại diện cho TCTD phát hành bảo lãnh để tuyên bố đơn phương huỷ bỏ cam kết bảo
lãnh, trừ khi tuyên bố này được chấp nhận bởi người nhận bảo lãnh.
 Giao dịch bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch kép
Giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch hai bên hay ba bên mà là
một giao dịch “kép”. Nghĩa là, để thực hiện được hoạt động bảo lãnh ngân hàng thì tổ
chức tín dụng phải tiến hành ký kết hai loại hợp đồng theo thứ tự: hợp đồng dịch vụ
bảo lãnh rồi đến hợp đồng bảo lãnh. Việc ký kết theo thứ tự phản ánh mối quan hệ
giữa hai hợp đồng, trong đó hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò là cơ sở pháp lý
để tổ chức tín dụng ký kết hợp đồng bảo lãnh; còn hợp đồng bảo lãnh được ký kết là
nhằm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức tín dụng đã phát sinh trong hợp đồng dịch vụ
bảo lãnh (ở đây được hiểu là nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh). Đây là hai hành vi
pháp lý độc lập với nhau mặc dù đều do một chủ thể là tổ chức tín dụng thực hiện
nhằm hướng tới một mục đích chung và có động cơ thống nhất.
 Bảo lãnh ngân hàng là một loại hình bảo lãnh vô điều kiện
Giao dịch bảo lãnh ngân hàng được thiết lập giữa ba chủ thể: các TCTD,
khách hàng được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh trong đó TCTD là chủ thể tham gia
vào hai quan hệ: quan hệ giữa TCTD và khách hàng được bảo lãnh với quan hệ giữa
TCTD với người nhận bảo lãnh. Khi tham gia vào hai mối quan hệ pháp lý này,
TCTD không chỉ có hai tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập nhau, xét trong từng mối
quan hệ mà còn độc lập về quyền và nghĩa vụ đối với bên đối tác trong từng mối
quan hệ.
Tính chất vô điều kiện của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở chỗ tổ chức tín dụng
bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với người nhận bảo lãnh ngay sau khi người này
đã xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung của thư bảo lãnh hay cam kết bảo
lãnh do tổ chức tín dụng phát hành, mà không phụ thuộc vào việc người được bảo

lãnh có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ hay không.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
7
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Căn cứ vào mục đích bảo lãnh, bảo lãnh được phân thành nhiều hình thức bảo
lãnh khác nhau. Các hình thức này đều được quy định tại Điều 5 - Quy chế bảo lãnh
ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 về
các loại loại bảo lãnh. Bao gồm:
- Bảo lãnh vay vốn;
- Bảo lãnh thanh toán;
- Bảo lãnh dự thầu;
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng;
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm;
- Bảo lãnh đối ứng;
- Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước;
- Xác nhận bảo lãnh;
- Các loại bảo lãnh khác không trái với quy định của pháp luật.
Có nhiều cách phân loại bảo lãnh ngân hàng nhưng nhìn chung có các cách phân
loại chủ yếu sau:
2.1 Theo phương thức phát hành
a. Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phục vụ bên được bảo
lãnh phát hành cam kết thanh toán không hủy ngang trực tiếp với bên nhận bảo lãnh.
Sơ đồ: Bảo lãnh trực tiếp

Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
8
Ngân hàng phát
hành
Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh
Ngân hàng thông
báo
(1)
(2)
(3)
(4a)
(4b)
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Trong đó:
(1): Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở, làm phát
sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
(2): Trên cơ sở hợp đồng gốc, người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành
thư bảo lãnh và cam kết hoàn trả.
(3): Trường hợp không có ngân hàng đại lý, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và
chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng.
(4a): Trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng phát hành sẽ đề
nghị ngân hàng đại lý của mình có trụ sở tại nước người thụ hưởng thông báo và
chuyển nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng. Ngân hàng này gọi là ngân hàng
thông báo.
(4b): Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung thư tới

người nhận bảo lãnh.
Trong trường hợp người nhận bảo lãnh ở nước ngoài, ngân hàng đại lý chỉ chịu
trách nhiệm thông báo thư bảo lãnh chứ không được chỉ định là ngân hàng thanh
toán. Việc thanh toán bảo lãnh giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng bảo
lãnh được tiến hành trực tiếp mà không thông qua ngân hàng thông báo, hoặc ngân
hàng thông báo đóng vai trò như là ngân hàng chuyển tiền chứ không chịu trách
nhiệm trong quá trình thanh toán đó.
Ưu điểm của bảo lãnh trực tiếp: Bên được bảo lãnh không phải mất thêm khoản
phí hoa hồng cho ngân hàng nước ngoài.
Nhược điểm: Đối với người thụ hưởng thì loại bảo lãnh này thường có độ rủi ro
cao do khoảng cách xa xôi, thủ tục phức tạp.
b. Bảo lãnh đối ứng
Căn cứ Khoản 7 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng quy định:
Bảo lãnh đối ứng là cam kết của TCTD (bên bảo lãnh đối ứng) với bên bảo
lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong trường hợp bên
bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hang của bên bảo lãnh đối
ứng với bên nhận bảo lãnh.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
9
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Sơ đồ: Bảo lãnh đối ứng
Trong đó:
(1): Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở, làm phát
sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
(2): Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng người thụ hưởng phát hành thư bảo

lãnh.
(3): Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng người thụ hưởng
phát hành thư bảo lãnh kèm theo thư bảo lãnh đối ứng.
(4): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh, thông báo và
chuyển thư bảo lãnh cho người thụ hưởng.
Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh,
ngân hàng phát hành phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì ngân hàng chỉ thị phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát hành.
Bảo lãnh đối ứng được sử dụng chủ yếu trong trường hợp bên thụ hưởng là
người nước ngoài, ngân hàng phát hành là ngân hàng đại lý của ngân hàng chỉ thị tại
quốc gia của bên thụ hưởng. Hoặc bảo lãnh đối ứng được sử dụng trong trường hợp
ngân hàng phát hành do bên thụ hưởng chỉ thị nhưng lại không có quan hệ với bên
được bảo lãnh.
c. Xác nhận bảo lãnh
Căn cứ Khoản 8 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng quy định:
Xác nhận bảo lãnh là cam kết bảo lãnh của TCTD (bên xác nhận bảo lãnh)
đối với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
của bên bảo lãnh đối với khách hàng.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
10
Ngân hàng
chỉ thị
Bên được
bảo lãnh
Bên nhận
bảo lãnh
Ngân hàng phát
hành
(1)

(2)
(3)
(4)
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Như vậy, xác nhận bảo lãnh là do một ngân hàng (ngân hàng xác nhận) phát hành
cho người thụ hưởng về việc đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân
hàng phát hành thư bảo lãnh (ngân hàng được xác nhận).
Trong loại bảo lãnh này nếu bên được bảo lãnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết,
ngân hàng xác nhận sẽ thay mặt bên thụ hưởng truy đòi đối với ngân hàng phát hành
và ngân hàng phát hành sẽ bồi thường cho bên thụ hưởng thông qua ngân hàng xác
nhận. Trường hợp ngân hàng phát hành không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì ngân
hàng xác nhận phải thực hiện thay nghĩa vụ và coi đây là khoản cho vay bắt buộc đối
với ngân hàng phát hành.
Sơ đồ: Xác nhận bảo lãnh
Trong đó:
(1): Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở, làm phát
sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
(2): Bên được bảo lãnh làm đơn yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho
đối tác trong hợp đồng gốc thụ hưởng.
(3): Ngân hàng bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Khi hợp
đồng bị vi phạm ngân hàng bảo lãnh bồi thường cho người thụ hưởng.
(4): Ngân hàng phát hành đề nghị ngân hàng xác nhận phát hành thư xác nhận bảo
lãnh cho người thụ hưởng.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
11

Ngân hàng phát
hành
Bên được
bảo lãnh
Bên thụ hưởng
Ngân hàng xác
nhận
(1)
(2)
(3)
(5)
(4)
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

(5): Ngân hàng xác nhận phát hành thư xác nhận bảo lãnh cho người thụ hưởng.
Khi ngân hàng phát hành vi phạm hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng xác nhận bồi thường
cho người thụ hưởng.
d. Đồng bảo lãnh
Căn cứ Khoản 1 Điều 12 Quy chế bảo lãnh ngân hàng quy định:
Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ
của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng đầu mối.
Ngân hàng đầu mối thường là ngân hàng có uy tín và giàu kinh nghiệm. Ngân
hàng này sẽ làm đại diện đứng ra phát hành bảo lãnh và trả phí cho các ngân hàng
đồng minh theo tỷ lệ. Nếu phải chi trả cho bên thụ hưởng theo các cam kết trong bảo
lãnh, ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ
tham gia của họ dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành cho
ngân hàng đầu mối. Sau đó các ngân hàng này có quyền truy đòi từ người được bảo

lãnh.
Sơ đồ: Đồng bảo lãnh
Trong đó:
(1): Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở, làm phát
sinh nghĩa vụ cần được bảo lãnh.
(2): Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh.
(3): Ngân hàng đầu mối dàn xếp bảo lãnh với các ngân hàng đồng minh.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
12
Ngân hàng
phát hành
Bên được
bảo lãnh
Bên thụ
hưởng
Ngân hàng
xác nhận
(1)
(2)
(4b)
(4b)
(4a)
Ngân hàng
thứ nhất
Ngân hàng
thứ 2
Ngân hàng
thứ 3
(3)

Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

(4a), (4b): Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển trực
tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.
2.2 Phân loại theo mục đích sử dụng:
Căn cứ theo điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN, bảo lãnh ngân hàng gồm
có 8 loại gồm : bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo lãnh trả tiền ứng
trước, bảo lãnh đối ứng và xác nhận bảo lãnh.
2.2.1 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
Khái niệm: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc
chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp
đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như
hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế…
Mục đích: Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp
không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết.. thì đều gây tổn thất cho bên thứ
ba. Và bảo lãnh ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba (Đảm
bảo cho họ tránh được rủi ro) mặt khác thúc đẩy khách hành nghiêm chỉnh thực hiện
hợp đồng.
Trị giá của bảo lãnh:
Tùy theo loại hình và quy mô hợp đồng, giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng từ
10 – 15 % tổng giá trị hợp đồng. Trường hợp đặc biệt, mức bảo lãnh thực hiện hợp
đồng có thể yêu cầu trên 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu
tư chấp thuận. Tuy nhiên số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp
đồng.
Thời hạn hiệu lực:

Thư bảo lãnh có giá trị cho đến ngày hoàn thành hợp đồng. Thời hạn hiệu lực
được xác định cụ thể theo thoả thuận giữa hai bên. Thời hạn sẽ bắt đầu từ ngày kết
thúc đấu thầu kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như: Hàng hoá đã giao xong, máy
móc thiết bị đã được vận hành, công trình đã đưa vào sử dụng…
2.2.2 Bảo lãnh thanh toán:
- Khái niệm: Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc
thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng
của ngân hàng không thanh toán đủ.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
13
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

- Mục đích: Cung cấp sự đảm bảo cho người thụ hưởng có thể nhận được
khoản thanh toán một cách thuận lợi, đầy đủ đúng hạn về các sản phẩm hàng hoá hay
dịch vụ đã cung ứng cho người được bảo lãnh
- Trị giá bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh thường bằng 100% giá trị hợp đồng.
- Thời hạn hiệu lực: Do các bên tự thoả thuận.
2.2.3 Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay (Bảo lãnh vay vốn):
- Khái niệm: Là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín
dụng, các cá nhân..) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi
vay) không trả được.
Việc bảo lãnh này thường rất phức tạp, khối lượng tiền bảo lãnh lớn nên rủi ro
của ngân hàng trong trường hợp người đi vay không trả được nợ cũng lớn theo. Vì
vậy ngân hàng cần phải xem xét kỹ tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp.. trước
khi phát hành thư bảo lãnh.
Trị giá của bảo lãnh: Theo thoả thuận, có thể chỉ gồm phần gốc hoặc có tính

cả lãi và chi phí, phải quy định rõ lãi và chi phí đã thoả thuận chưa hay còn phải tính
tiếp.
Thời hạn hiệu lực: Là thời hạn hoàn trả tín dụng đã thoả thuận, tốt nhất quy
định khoảng 10 ngày kể từ ngày nợ đến hạn.
2.2.4 Bảo lãnh dự thầu:
- Khái niệm: Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc
trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp
đồng dự thầu.
- Mục đích: Đảo bảo cho việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồng
hay thay đổi ý định đã được trúng thầu. Nếu người dự thầu đã trúng thầu nhưng
không ký hợp đồng thì chủ thầu (người thụ hưởng) sẽ rút dần thanh toán từ bảo lãnh
để trang trải cho chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm tiến độ thi công hay chi phí để tổ
chức lại một cuộc đấu thầu khác.
- Trị giá của bảo lãnh: Thông thường có giá trị từ 1- 5% giá trị hợp đồng đấu
thầu.
- Thời hạn hiệu lực: Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chỉ chấm dứt khi bên
được bảo lãnh (người tham gia dự thầu) không trúng thầu hoặc sau khi ký kết hợp
đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu bên được bảo lãnh trúng thầu.
2.2.5 Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước:
- Khái niệm: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
14
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

bên mua người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp (người được bảo lãnh) không trả
hoặc trả không đầy đủ.

- Mục đích: Đảm bảo cho bên yêu cầu bảo lãnh sẽ nhận lại số tiền trước kia đã
đặt cọc cho bên được bảo lãnh để giúp thực hiện hợp đồng như đã thoả thuận, nhưng
thực tế không thực hiện được. Bảo lãnh tiền ứng trước thường được sử dụng trong
các hợp đồng mua bán máy móc thiết bị hoặc các hợp đồng có giá trị lớn.
- Trị giá của bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh bằng số tiền đặt cọc (kể cả tiền lãi)
được tính từ ngày nhận được số tiền đặt cọc tới ngày giao hàng cuối cùng cộng thêm
một số ngày để người thụ hưởng làm thủ tục đòi tiền. Bảo lãnh loại này cũng có một
số điều khoản quy định giảm giá trị bảo lãnh tương ứng với số lượng hàng hoá được
giao đối với các loại hàng hoá sản xuất, máy móc, công trình… số tiền đặt cọc
thường từ 5- 10% giá trị hợp đồng.
- Thời hạn hiệu lực: bằng thời gian thực hiện hợp đồng tức là kể từ khi người
được bảo lãnh nhận được số tiền đặt cọc cho đến ngày giao hàng cuối cùng, có thể
cộng thêm một số ngày làm thủ tục đòi tiền do hai bên quy định.
2.2.6 Bảo lãnh bảo hành hay bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo
hợp đồng:
- Khái niệm: là loại bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh cam kết với chủ thầu
trong trường hợp chủ thầu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm phải bồi
thường cho chủ thầu mà nhà thầu không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì
ngân hàng bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trả thay cho nhà thầu.
- Mục đích: loại bảo lãnh này áp dụng chủ yếu trong xây dựng và các hợp
đồng cung ứng thiết bị đồng bộ để bảo hành thiết bị máy móc…
Trong thời gian bảo hành này nếu có sự cố xảy ra đối với sản phẩm phát sinh
do chất lượng sản phẩm không đảm bảo thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu được
bồi thường từ phía ngân hàng bảo lãnh.
- Trị giá bảo lãnh: Theo thoả thuận thường bằng 5 – 10% giá trị hợp đồng.
- Thời hạn hiệu lực: Từ lúc bắt đầu lắp ráp sử dụng thiết bị cho đến hết thời
hạn bảo hành của thiết bị.
2.2.7 Bảo lãnh đối ứng
Khái niệm : Bảo lãnh đối ứng là cam kết của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh
đối ứng) với bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh,

trong trường hợp, bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng
của bên bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
15
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Trong hình thức bảo lãnh này, cả hai bên chủ thể tham gia bảo lãnh đối ứng là
bên phát hành bảo lãnh đối ứng và bên nhận bảo lãnh đối ứng đều là các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Cả hai chủ thể này đều có chung một
khách hàng là bên được bảo lãnh, mặc dù đối tượng của hành vi bảo lãnh (nghĩa vụ
được bảo lãnh) của mỗi tổ chức tín dụng là khác nhau.
Khác với đồng bảo lãnh, trong bảo lãnh đối ứng hoàn toàn không có sự liên
đới trách nhiệm giữa hai tổ chức tín dụng tham gia bảo lãnh cho một khách hàng.
Mỗi tổ chức tín dụng này có những nghĩa vụ với các chủ nợ khác nhau trong trường
hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ được bảo lãnh.
2.2.8 Xác nhận bảo lãnh
Khái niệm : Xác nhận bảo lãnh là cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng (bên
xác nhận bảo lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác
nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được xác nhận bảo lãnh.
Trong hình thức bảo lãnh này, cả hai bên chủ thể của bảo lãnh là bên xác nhận
bảo lãnh và bên được xác nhận bảo lãnh đều là các tổ chức tín dụng được phép thực
hiện hoạt động bảo lãnh. Tuy vậy, khác với bảo lãnh đối ứng, hai tổ chức tín dụng
này khi tham gia quan hệ xác nhận bảo lãnh có tư cách pháp lý khác nhau. Tổ chức

tín dụng xác nhận bảo lãnh có vai trò là người bảo lãnh (bên cung cấp dịch vụ bảo
lãnh) còn tổ chức được xác nhận bảo lãnh có tư cách là người được bảo lãnh (hay
khách hàng được cung ứng dịch vụ bảo lãnh).
3. Chức năng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Đứng trên góc độ ngân hàng, bảo lãnh là một nghiệp vụ có thu tiền (phí bảo
lãnh) mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Còn đứng trên góc độ khách hàng, bảo
lãnh là một công cụ quan trọng hỗ trợ cho khách hàng. Điều này thể hiện rõ hơn qua
các chức năng dưới đây của bảo lãnh.
(1)
3.1 Bảo lãnh là công cụ bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả bình
thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng
phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự bảo đảm chắc chắn cho người nhận bảo lãnh.
1()
Hồ Diệu (2001), Tín dụng Ngân hàng, NXB Thống kê, trang 320, 321
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
16
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Chính sự bảo đảm này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các hợp đồng được ký kết một
cách dễ dàng và thuận lợi. Đây cũng là điểm khác biệt của bảo lãnh so với tín dụng
chứng từ.
3.2 Bảo lãnh là công cụ tài trợ vốn
Bảo lãnh không những là công cụ đảm bảo mà còn là công cụ tài trợ cho
người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh người được bảo lãnh không phải xuất quỹ,
được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền

hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong cho vay
nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân
quỹ như trong trường hợp cho vay.
Nhu cầu về vốn luôn là một vấn đề cần thiết đối với mọi chủ thể khi tham gia
vào các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong các hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng
mua bán có giá trị lớn, thời gian thực hiện kéo dài thì vấn đề tìm nguồn tài trợ càng
trở nên bức xúc. đặc biệt là trong điều kiện các công ty khó tiếp cận được với nguồn
vốn vay từ các tổ chức tín dụng.
3.3. Bảo lãnh được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng:
Đối với bảo lãnh thì việc thanh toán được thực hiện dựa trên sự vi phạm hợp
đồng của bên được bảo lãnh. Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh, người thụ
hưởng luôn có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh nếu như
người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Do đó, ngân hàng luôn phải theo dõi kiểm
tra giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Mặt khác
trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán tiền bồi hoàn cho bên nhận bảo
lãnh thì bên được bảo lãnh cũng sẽ phải có trách nhiệm nợ và hoàn trả khoản bồi
hoàn đó cho ngân hàng bảo lãnh. Thực chất bảo lãnh là lấy tiền vi phạm trả cho
người hưởng lợi.
Người được bảo lãnh luôn bị một áp lực cho việc bồi hoàn bảo lãnh. Như vậy,
bảo lãnh có chức năng đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng đã
ký kết. Điều này càng làm tăng thêm tính bảo đảm cho người thụ hưởng và có mối
liên quan chặt chẽ giữa chức năng bảo đảm và chức năng đôn đốc hoàn thành hợp
đồng.
3.4 Bảo lãnh có chức năng là công cụ đánh giá:
Bất kỳ một ngân hàng nào trước khi phát hành thư bảo lãnh đều cần phải kiểm
tra một cách toàn diện về bên được bảo lãnh như : Khả năng tài chính, uy tín, khả
năng thực tế của việc thực hiện hợp đồng. Mà đây là một vấn đề mà bên thụ hưởng
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
17

Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

không có khả năng thực hiện. Vì vậy điều này cũng sẽ giúp cho bên nhận bảo lãnh có
thể đánh giá tốt hơn về đối tác của mình, phục vụ cho mối quan hệ giữa hai bên.
4. Ý nghĩa và vai trò của bảo lãnh ngân hàng
Trong tình hình mới, do độ phức tạp ngày càng cao của các giao dịch kinh tế
có quy mô lớn, phạm vi rộng, giá trị cao đồng thời mức độ rủi ro của các giao dịch
ngày càng lớn dẫn đến người ta phải sử dụng nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro đảm
bảo cho các giao dịch được thực hiện, trong đó bảo lãnh đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Hiện nay, bảo lãnh của các ngân hàng thương mại là phát triển nhất. Điều
này có được là do ngân hàng thương mại thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính cho nền kinh tế nên đã xây dựng được uy tín, cũng như mối quan hệ gắn bó, tin
tưởng của khách hàng với ngân hàng. NHTM có tiềm lực tài chính rất to lớn, hoàn
toàn có thể đứng ra phát hành bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng của ngân hàng. Bên cạnh đó NHTM thông qua những hoạt động
truyền thống như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán... thường xuyên nắm bắt, cập nhật,
phân tích và lưu trữ những thông tin về khách hàng, tạo cơ sở cho việc ra các quyết
định bảo lãnh đúng đắn.
Hiện nay bảo lãnh đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các lĩnh vực. Bảo lãnh
không chỉ là một hoạt động tạo sự phát triển của ngân hàng mà còn có vai trò quan
trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và với tất cả nền kinh tế nói chung.
a) Đối với doanh nghiệp:
Bảo lãnh ngân hàng giúp thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng phát triển sản xuất
kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu không
nắm bắt một cách kịp thời các cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp cũng khó cạnh
tranh và tồn tại được và có thể phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Bảo lãnh Ngân hàng

giúp các doanh nghiệp chọn được bạn hàng tốt, yên tâm hơn khi ký kết và thực hiện
hợp đồng mà không tốn nhiều thời gian và chi phí, đồng thời giảm rủi ro trong kinh
doanh. Mặt khác khi có rủi ro xảy ra, bên nhận bảo lãnh vẫn được đảm bảo bù đắp
mọi thiệt hại do đối tác vi phạm hợp đồng một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất để
tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình.
Bảo lãnh ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp có thể ký kết và thực hiện hợp
đồng ngay cả khi chưa đủ uy tín và lòng tin đối với bên đối tác. Bảo lãnh giúp các
doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ từ đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước),
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
18
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

hoặc từ các tổ chức tín dụng khác (bảo lãnh vay vốn), lúc đó sẽ giúp các doanh
nghiệp có đủ khả năng tài chính để thực hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết
hợp đồng.
b) Đối với Ngân hàng:
Bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng trên thị trường
đặc biệt là thị trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh ngân hàng tạo được thế mạnh, uy
tín giúp tăng khách hàng và lợi nhuận.
Bảo lãnh ngân hàng đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng thông qua phí bảo
lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản không nhỏ, nó
chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Ngoài việc
đem lại một khoản thu nhập thì nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng còn góp phần không
nhỏ trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ cho nghiệp vụ tín dụng qua bảo lãnh vay vốn nước
ngoài tức là ngân hàng không dùng vốn của mình cho doanh nghiệp vay mà chỉ dùng

vốn của ngân hàng để đảm bảo cho các khoản vay của doanh nghiệp với các tổ chức
tín dụng khác.
c) Đối với nền kinh tế:
Đối với nền kinh tế, bảo lãnh ngân hàng là một công cụ tiện ích được sử dụng
rộng rãi để trợ giúp các giao dịch kinh tế. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu vực trọng
điểm phát triển và ngành kinh tế kém phát triển. Thông qua các chính sách ngân
hàng: Mở rộng bảo lãnh cho vay vốn nước ngoài, hạn mức bảo lãnh, … có thể tăng
năng lực sản xuất, khuyến khích các ngành này phát triển, gia tăng đầu tư vào các
lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Ngược lại với những ngành còn hạn chế, ngân
hàng có chính sách bảo lãnh khắt khe, góp phần làm cân đối cơ cấu kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như chất xúc tác đối với các hợp đồng kinh tế.
Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm ký kết và có trách nhiệm với hợp đồng
mình đã ký kết.
Bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong những giải pháp để phòng chống rủi ro
có hiệu quả và được sử dụng phố biến trong các hoạt động tín dụng, xây dựng và
thương mại. Do đó với bảo lãnh ngân hàng, nền kinh tế có điều kiện để phát triển một
cách ổn định và an toàn hơn.
Bảo lãnh đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia và là công cụ thúc đẩy
trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
19
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Bảo lãnh ngân hàng còn có vai trò rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu
vốn cho các chủ thể kinh tế. Các đơn vị kinh tế có thể dễ dàng trong vịêc tìm kiếm

những nguồn vốn rẻ cả trong và ngoài nước khi có được sự bảo lãnh của ngân hàng.
Đối với nền kinh tế Việt Nam điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đặc
điểm của nền kinh tế nước ta là phát triển theo hướng kinh tế thị trường, nghiệp vụ
bảo lãnh thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế thông qua các quan hệ
Hàng – Tiền, góp phần tăng tổng sản phẩm quốc dân. Bảo lãnh giúp tạo dựng uy tín
cho các Doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường ra
nước ngoài, tăng vị thế của hàng Việt Nam, đồng thời tạo được nguồn thu ngoại tệ,
giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị đồng tiền.
II. Chế độ pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo lãnh của ngân hàng
1. Pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.1 Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động bảo lãnh
Nhận thức được vai trò quan trọng của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế,
việc tổ chức và quản lý các hoạt động của tổ chức tín dụng đã được Nhà nước ta quy
định thành văn bản luật.
Ngày 25/05/1990 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng, hợp
tác xã tín dụng và công ty tài chính nhằm tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động
của các tổ chức tín dụng, ngân hàng và công ty tài chính. Pháp lệnh này được thay thế
bằng Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 quy định
về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác (sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004).
Sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực, Thống đốc NHNN đã ban hành
Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 về việc ban hành Quy chế bảo
lãnh ngân hàng. Quyết định này được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số
386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định
số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000; Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN
ngày 29/10/2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi một số quy định liên quan
đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; Quyết định số 112/2003/QĐ- NHNN
ngày 11/2/2003 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy

chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14
ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN. Các Quyết định trên đã được thay thế bằng
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
20
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN về việc
ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng.
Đến nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng bao
gồm:
- Luật các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004)
- Bộ Luật Dân sự 2005
- Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN
về việc ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng.
- Quyết định số 14/2009/QĐ-Ttg ngày 21/01/2009 của Thủ Tướng chính phủ
ban hành về Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng thương mại.
Ngoài ra còn có các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động bảo lãnh khác
như:
- Luật Xây dựng 2003
- Luật đất đai 2003
- Luật Đấu thầu 2005
- Luật Thương mại 2005
- Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng.
- Nghị định 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm
- Nghị định 34/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/7/2001 về việc ban hành

Quy chế đấu thầu dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí
- Nghị định 111/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/9/2006 về việc hướng
dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng.
- Nghị định 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng
xuất khẩu của nhà nước.
- Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/11/2006 về giao dịch
bảo đảm. (sau đây gọi là Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 ban hành Quy định về
tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết
định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007).
- Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23 tháng 4
năm 2001 của NHNN Việt Nam - Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính - Tổng
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
21
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

cục Địa chính hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ
chức tín dụng (sau đây gọi là Thông tư 03);
- Thông tư 07/2003/TT-NHNN ngày 19 tháng 5 năm 2003 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay
của tổ chức tín dụng.
1.2 Chủ thể tham gia vào quan hệ bảo lãnh
Trong quan hệ bảo lãnh gồm có các bên sau đây:
- Bên bảo lãnh
- Bên được bảo lãnh
- Bên nhận bảo lãnh

- Các bên liên quan (nếu có)
1.2.1 Bên bảo lãnh:
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.
Điều 58 LCTCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) quy định bên bảo lãnh
trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là tổ chức tín dụng phải có đủ các điều kiện sau:
- Được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng
(thường được ghi rõ trong giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng do
NHNN cấp).
- Có đăng ký kinh doanh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và nghiệp vụ này phải
được ghi rõ trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã được cấp.
Các TCTD đáp ứng được các điều kiện trên bao gồm: Ngân hàng thương mại
Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển,
ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng (gọi chung là tổ
chức tín dụng)
(2)
Ngoài ra, nếu “bên nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng
mà là các tổ chức, cá nhân nước ngoài thì bên bảo lãnh chuyên nghiệp chỉ có thể bao
gồm các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế.”
3
(Điều 3 Quy chế bảo
lãnh ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN quy định tổ
chức tín dụng thành lập và hoạt động theo LCTCTD thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh.)
2()
: TS. Nguyễn Minh Kiều (2006), Nghiệp vụ ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê, trang 282
3
Đ3.2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006//QĐ-NHNN ngày 26/6/2006
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48

22
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng có thẩm quyền ký các văn
bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín
dụng có thể uỷ quyền cho Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc (trong trường hợp Chủ tịch
Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật), Phó tổng Giám đốc hoặc Phó
Giám đốc, Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng ký các văn bản bảo lãnh; hoặc
quy định thẩm quyền ký bảo lãnh của tổ chức tín dụng phù hợp với quy định của
pháp luật. (Điều 14- Quy chế bảo lãnh ngân hàng).
Quyền, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh quy định tại
điều 59 LCTCTD và Điều 23 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 bao gồm:
 Quyền của các tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh quy định cụ thể
như sau:
Căn cứ Điều 59- Luật các tổ chức tín dụng và Điều 23- Quy chế bảo lãnh ngân
hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 quy
định, quyền và nghĩa vụ của TCTD thực hiện bảo lãnh bao gồm:
- Quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, thông tin về khả năng tài
chính và những tài liệu khác liên quan đến giao dịch được bảo lãnh. Quyền này nhằm
đảm bảo an toàn về phương diện quyền lợi cho tổ chức tín dụng, đồng thời nhằm
mục đích đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế và
nâng cao ý thức trách nhiệm hợp đồng cho bên khách hàng đề nghị bảo lãnh
- Quyền yêu cầu khách hàng đề nghị bảo lãnh phải có sự đảm bảo bằng tài sản
cho nghĩa vụ hoàn trả lại của họ đối với mình. Mục đích chính là để đảm bảo quyền
và lợi ích chính đáng cho tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh.
- Quyền yêu cầu khách hàng được bảo lãnh thanh toán tiền phí dịch vụ bảo lãnh

cho mình theo thoả thuận trong hợp đồng cấp bảo lãnh sau khi đã phát hành thư bảo
lãnh và gửi cho bên nhận bảo lãnh. Sở dĩ pháp luật quy định quyền năng này cho tổ
chức tín dụng là vì theo thoả thuận trong hợp đồng cấp bảo lãnh thì tổ chức tín dụng
phải phát hành thư bảo lãnh để gửi cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của khách
hàng được bảo lãnh, do đó, tổ chức tín dụng, với tư cách là người đã thực hiện công
việc dịch vụ, đương nhiên có quyền đòi hỏi bên hưởng dịch vụ thanh toán cho mình
số tiền công dịch vụ là phí bảo lãnh.
- Quyền kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Sở dĩ pháp
luật quy định quyền này cho tổ chức tín dụng là vì: khi cam kết bảo lãnh cho nghĩa vụ
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
23
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

tài sản của khách hàng đối với bên có quyền, tổ chức tín dụng phải đem cả uy tín và
tài sản của mình để phục vụ quyền lợi của khách hàng được bảo lãnh nên họ có
quyền được pháp luật bảo hộ như đối với một chủ nợ. Việc trao quyền kiểm soát đối
với khách hàng cho tổ chức tín dụng bảo lãnh chính là trao một phương tiện pháp lý
để tổ chức tín dụng tự bảo vệ lợi ích của chính mình khi tham gia quan hệ hợp đồng
dịch vụ bảo lãnh.
- Quyền hạch toán ghi nợ và yêu cầu khách hàng hoặc bên bảo lãnh đối ứng
hoàn trả số tiền mà bên bảo lãnh đã trả thay. Trong trường hợp khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh,
TCTD phải trả thay thì số tiền trả thay đó sẽ được chuyển thành món nợ của khách
hàng đối với TCTD bảo lãnh.
- Quyền xử lý tài sản đảm bảo của khách hàng theo thỏa thuận và quy định của
pháp luật. Với hợp đồng cấp bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của khách hàng, khi

khách hàng không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng cấp bảo lãnh thì
TCTD có quyền thu hồi và xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật.
- Quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật khi khách hàng, bên bảo lãnh đối
ứng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
- Quyền chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của mình cho TCTD khác nếu được
các bên liên quan chấp nhận bằng văn bản. Tức là, TCTD có thể chuyển giao dịch
bảo lãnh của mình cùng các quyền và nghĩa vụ liên quan cho TCTD khác với điều
kiện phải có sự chấp nhận bằng văn bản của các bên liên quan như khách hàng, bên
bảo lãnh đối ứng, bên nhận bảo lãnh…
- Quyền được từ chối bảo lãnh đối với các khách hàng không đủ điều kiện bảo
lãnh. Điều này được quy định nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền tự do kinh doanh của
tổ chức tín dụng đồng thời đề cao tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong
hoạt động kinh doanh trên thương trường.
 Nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng được quy định cụ thể như sau:
Nghĩa vụ phát hành thư bảo lãnh gửi cho bên nhận bảo lãnh vì quyền lợi của
khách hàng được bảo lãnh. Đây là một nghĩa vụ cơ bản của tổ chức tín dụng thực
hiện bảo lãnh đối với khách hàng được bảo lãnh. Nghĩa vụ này nhằm phục vụ quyền
lợi của khách hàng được bảo lãnh. Chỉ khi nào tổ chức tín dụng (với tư cách là bên
cung cấp dịch vụ bảo lãnh) đã thực hiện xong nghĩa vụ này thì họ mới có quyền yêu
cầu bên hưởng dịch vụ bảo lãnh thanh toán số tiền công và dịch vụ bảo lãnh.
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
24
Trêng §HKTQD

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt
nghiÖp

- Nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ tài sản đảm bảo (nếu có) và các giấy tờ liên quan
cho khách hàng khi tiến hành thành thanh lý hợp đồng cấp bảo lãnh. Với các hợp

đồng cấp bảo lãnh được đảm bảo bằng tài sản của khách hàng, thì hợp đồng thanh lý
tức là quyền và nghĩa vụ của các bên đã được thực hiện đầy đủ, đúng cam kết TCTD
phải hoàn trả cho khách hàng tài sản đã được dùng để đảm bảo nghĩa vụ.
- Nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh đã giao
kết với khách hàng được bảo lãnh. Nghĩa vụ này tuy không phải là nghĩa vụ chính
của bên cung cấp dịch vụ bảo lãnh nhưng cũng có tác dụng đảm bảo quyền lợi cho
khách hàng được bảo lãnh và đề cao tính kỷ luật hợp đồng cho các bên tham gia giao
dịch.
1.2.2 Bên được bảo lãnh
Bên được bảo lãnh là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Theo Điều 2.5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN thì bên được bảo lãnh là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo
lãnh, quy định tại Điều 4 của Quy chế này.
Bao gồm:
- Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư
nhân, hộ kinh doanh cá thể.
- Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín
dụng.
- Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ
Luật Dân sự.
- Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và
tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư tại Việt Nam.
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định bảo lãnh khi khách hàng có đủ các điều
kiện sau:
(4)
4()

: Điều 8 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
Sinh viªn: NguyÔn TiÕn Cêng Líp: LuËt
Kinh doanh K48
25

×