Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.31 KB, 45 trang )

Lời Mở Đầu
1.sự cần thiết của đề tài.
TTCK là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại.Kinh
nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế phát triển cho thấy thị trường chứng
khoán là bộ phận không thể thiếu được đối với sự phát triển kinh tế của một
nước,bởi vì nếu không xây dựng được một TTCK hoạt động có hiệu quả thì
không thể thực hiện được việc huy động vốn một cách linh hoạt các nguồn
vốn và không thể tiến hành đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế đất
nước.Với vai tròlà 1 kênh huy động vốn cho tiến trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước,đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ của đât nước trong thời kì hội
nhập và phát triển hiện nay..TTCK tạo ra nhiều cơ hội đầu tư va kinh doanh
co lời cho các chủ thể của nền kinh tế.Do đó mỗi quốc gia phải tự tạo cho
mình những hấp dẫn để thu hút đầu tư trong nước mà còn phải thu hút vốn
đầu tư ngoài nước .Đối với TTCK mà nói,các nhà ĐTNN là bộ phận hết sức
quan trọng không chỉ vì nguồn vốn khủng lồ mà họ đầu tư hàng năm,mà qua
việc đầu tư của họ ta có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu từ
nhưng nhà đầu tư chuyên nghiệp nay.
Chính vì thế để tạo ra những điểm hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài chug ta không chỉ khuyến khích đầu tư là đủ mà còn phải nghiên cứu
xem đâu là những hạn chế đối với bộ phận các nhà đầu tư này để tư đó có
những biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện để họ dễ dàng hơn trong việc đầu
tư vào Việt Nam.
Để đưa những giải pháp tối ưu nhất chung ta phải có sự kết hợp đồng
bộ của nhiêu bộ phận trong đó có UBCKNN,sở giao dịch chứng khoán,bộ
tài chính,các công ty niêm yết,các nhà đầu tư trong nứơc…Đây la vấn đề hết
sức nhạy cảm và đòi hỏi trên cơ sở những cai cũ để tìm ra cai mới tốt hơn va
hấp dẫn hơn cái cũ.Đó chính là lý do em chọn đề tài “Giải pháp thu hút
nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam”.
2.mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam
hiện cũng như các cơ chế,chính sách của nhà nước tác động vào


các chủ thể tham gia thị trường đạc biệt chú trọng đến nhưng tác
động đối với nhà đầu tư là nước ngoài
Trên mức độ nhà DTNN vào TTCK Việt Nam ko phải
là lớn,từ đó mà em muốn tìm hiểu những nguyên nhân hạn chế bộ
1
phận nhà đầu tư này để đưa ra những đóng góp,những giải pháp cụ thể nhằm
tạo cơ hội nhiều hơn cho nhà ĐTNN tham gia vào TTCK Việt Nam.

3.phạm vi nghiên cứu.
Do mục đích của đề tài là làm thế nào để ngay càng thu hút nhiều hơn
các nhà ĐTNN vào TTCK Việt Nam nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
TTCK Việt Nam là chủ yếu.trong đó co so sánh với hoạt động TTCK của 1
số nước như Hàn Quốc,Idonesia…
4.phương phát nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp,phân tích và so sánh.Từ việc
tổng hợp các kiến thức lý luận,chúng ta có thể phân tích qua hoạt động thực
tiễn của TTCK Việt Nam cũng như những ví dụ cụ thể xem xét qua nhiều
mặt và so sánh với TTCK khác.Sau đó đưa ra kết luận về những nhân tố mà
ta vừa nghiên cứu nhằm đảm bảo tính chính xác và khoa học.
Em xin chân thành cảm ơn TS.Phan Thu Hiền đã giúp em chu đáo và
tận tình để em có thể hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Chương I: 1 số lý luận chung về đầu tư
nước ngoài vào thị trường
chứng khoán.
I.Một số lý luận chung về TTCK.
1.1.Bản chất của TTCK
1.1.1.Bản chất củaTTCk.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các lọai

chứng khoán trung và dài hạn.Thực chất TTCK là nơi tập chung và phân
phối các nguồn vốn tiết kiệm,là định chế tài chính trực tiếp và là quá trinh
vận động của tư bản tiền tệ,chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư
bản chức năng.
1.1.2.chức năng củaTTCk.
Có nhiều quan điểm về chức năng cua TTCK theo nhiều tiêu thức và
đánh giá khác nhau.Tuy nhiên,nhìn chung TTCK có những chức năng chủ
yếu sau:
-TTCK là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Với chức năng này TTCK cho phép các công ty hay chính phủ có thể
huy động vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển,mở rộng sản xuất
kinh doanh,tạo thêm việc làm,tăng them sản lượng thông qua việc phát hành
các loại chứng khoán trên TTCK.
-TTCK là công cụ tăng tiết kiệm quốc gia.
Khi nền kinh tế phát triển,thu nhập quốc dân ngày càng tăng,người
dân thì quan tâm dần đến các hình thức đầutư tài chính gửi ngân hang,tiết
kiệm,đầu tư chứng khoán.TTCK đưa đến cho công chúng mới đa
dạng,phong phú phù hợp với từng loại đầu tư.
-TTCK cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán.
-TTCK co chức năng đánh giá giá trị tài sản cua doanh nghiệp và tình
hình nền kinh tế.
1.1.3.hàng hóa trên TTCK.
Hàng hóa trên TTCK bao gồm ba loại chủ yếu sau:
-Cổ phiếu:là 1 chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và
vốn của công ty cổ phần,do đó no được coi như tài sản thực sự.
3
Người ta phân lọai cổ phiếu thành nhiều loại khác nhau tuy theo đặc
điểm của mỗi loại cổ phiếu thường,cổ phiếu ưu đãi,cổ phiếu vô danh,cổ
phiếu đích danh…
-Trái phiếu:là 1 chứng thư xác nhận 1 khoản nợ của 1 tổ chức phát

hành đối với người chủ sở hữu,trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc với số tiền
lãi trong thời hạn nhất định.
-Các chứng khoán phát sinh.
Trên TTCk,bên cạch các giao dịch mua bán chứng khoán vốn,chứng
khoán nợ,còn có giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng
quyền,chứng khế,quyền lựa chọn,các hợp đồng tương lai,hợp đồng kỳ
hạn.Các chứng từ tài chính này được ra đời từ giao dịch chứng khoán và
được quyền chuyển đổi sang chứng khoán mua bán.Do đó người ta gọi
chúng là các chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc chứng khoán phát sinh.
1.1.4.các chủ thể tham gia trên TTCK.
-Chủ thể phát hành:là các chủ thể tham gia trên TTCK với mục đích là
huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và bán cho người đầu tư
hoặc bán cho những người kinh doanh chứng khoán.Chủ thể phát hành bao
gồm:chính phủ,các doanh nghiệp và một số tổ chức khác theo quy định cua
pháp luật.
-Chủ thể đầu tư:là những người có tiền nhàn rỗi,sử dụng tiền đầu tư
vào TTCK bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên TTCK nhằm hưởng
lãi và lợi nhuận.Có hai lọai chủ thể đầu tư bao gồm chủ thể đầu tư là cá nhân
và chủ thể đầu tư là các tổ chức.Trong đó các nhà đầu tư là tổ chức gồm có
các quỹ tương trợ,các công ty bảo hiểm,các quỹ trợ cấp,các ngân hang
thương mại và các công ty chứng khoán.
-Chủ thể tham gia chứng khoán:gồm nhà trung gian cá nhân và các tổ
chức trung gian.vai trò còn thực hiện các nghiệp vụ là kinh doanh,môi giới
và bảo lãnh chứng khoán,ngoài ra họ còn thực hiện các nghiệp vụ khác như
tư vấn đầu tư,quản lý quỹ,giao dịch mua bán chịu chứng khoán.
-Người quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK:là một cơ quan
chuyên trách theo dõi,hỗ trợ,kiểm soát ,chỉnh lý,điều hành hoạt động TTCK
trong cả nước.
-Các tổ chức có liên quan:sở giao dịch chứng khoán;tổ chức thanh
toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán;tổ chức dịch vụ sang tên và đăng kí lại

quyền sở hữu chứng khoán(CK);trung tâm đào tạo và hành nghề CK;hiệp
hội đầu tư CK;Hiệp hội kinh doanh CK;các tổ chức dịch vụ vi tính về CK.
4
1.1.5.cơ cấu củaTTCK.
-TTCK được tổ chức với các hình thức khác nhau,chủ yếu có hai
lọai,bao gồm thị trường sơ cấp va thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các CK mới phát hành,làm
tăng vốn cho nhà phát hành,thực hiện VK hóa cho nguồn vốn cần huy động.
Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán lại cho các CK đã phát hành
ở thị trường sơ cấp,ra đời nhằm mục đích tăng tính thanh khoản cho chứng
khoán và là nơi xác nhận định giá CK.
1.2.Nhà đầu tư và vai trò của nhà đầu tư trên TTCK.
Như đã nói ở trên,nhà đầu tư có thể là một pháp nhân hoặc một thể
nhân,đây là chủ thể đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của TTCK.Nhà đầu tư pháp nhân là một tổ chức được thành lập và hoạt
động theo luật pháp,họ có cơ cấu tổ chức chặt chẽ,có tài sản độc lập và tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật và hành vi của minh.Họ bao gồm các quỹ
đầu tư,các công ty bảo hiểm tổ chức tin dụng…,Họ là những người có vốn
nhàn rỗi rất lớn và là những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực đầu tư.Vì thế mà
các nhà đầu tư pháp nhân là những chủ thể quan trọng,quyết định quy mô và
sự ổn định của thị trường.Tuy mức độ tham gia là khác nhau và phương thức
cũng khác nhau nhưng mực đích cuối cùng vẫn là bảo toàn và kiếm lời.
Nhà đầu tư thể nhân bao gồm các cá nhân,các tổ chức kinh tế không
phải là pháp nhân,các tổ chức chính trị xã hội,các doanh nghiệp tư nhân…
Họ là những nhà đầu tư đông đảo nhất và có nguồn tiết kiệm khác lớn,là chủ
thể khá quan trọng và cũng là người đem lại sự sôi động cho thị trường.
1.3.những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư trên TTCK.
TTCK là sự phát triển bậc cao của thị truờng tài chính,mà thị truờng
tài chính là 1 nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường,nó có mối
quan hệ mật thiêt với các lĩnh vực khác như chính trị,xã hội,văn hóa…đều

có ảnh hưởng tiêu cực và tích cực đến thị trường.Trong đó:
-Yếu tố kinh tế bao gồm:Lạm phát,giá cả hang hóa,lãi suất,tỷ lệ thất
nghiệp.
-Yếu tố chính trị:là những yếu tố như chiến tranh,diễn biến nội bộ cua
chính phủ 1 quốc gia…một khi chính trị không ổn định sẽ kéo theo hang loạt
vấn đề về kinh tế của đất nước.
-Yếu tố văn hóa bao gồm nguồn gốc dân tộc,giao dục,tín ngưỡng,môi
trường tự nhiên.
-Yếu tố xã hội:như gia đình,bạn bè,công bằng xã hội,quyền công
dân…
5
-Yếu tố thông tin:là yếu tơ hết sức quan trọng với các chủ thể tham
gia TTCK.Các nhà đầu tư CK cho rằngTTCK là thị trường của thông tin bởi
mỗi thông tin đều ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ,không những thế
nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả chứng khoán mà họ đang nắm giữ.
II.Một số lý luận chung về vốn nước ngoài.
Trong lịch sử giao lưu kinh tế giữa các vùng kinh tế khác nhau đã diễn
ra nhiều hình
thức trao đổi và di chuyển các nguồn lực. Ban đầu hình thức tương đối đơn
giản - đơn giản cả về đối tượng và hình thức di chuyển. Trong thời kỳ nô lệ,
hình thức di chuyển sức lao động của nông lô là điển hình. Do nhu cầu về
sức lao động rất lớn ở các vùng có nền nông nghiệp phát triển nên nô tì được
mua về từ các vùng khác nhau để làm việc tại các vùng này. Trong thời kỳ
phong kiến, hiện tượng di chuyển các nguồn lực vẫn diễn ra. Thời kỳ này
đối tượng di chuyển không chỉ còn là sức lao động mà còn kèm theo sự di
chuyển về nguyên vật liệu cho sản xuất. Khi chủ nghĩa tư bản rađời, các
hình thức di chuyển và trao đổi các nguồn lực được thực hiện một cách đa
dạng và phong phú hơn. Thời kỳ đầu, xu hướng di chuyển các nguồn lực
được thực hiện một chiều từ các nước bị đô hộ tới các nước đi đô hộ. Các
nước đi đô hộ vơ vét, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của

các nước bị đô hộ để thực hiện công cuộc phát triển của chính mình. Trong
thời kỳ này, đối tượng di chuyển chủ yếu là tài nguyên, nhiên liệu phục vụ
cho sản xuất và đời sống, hình thức di chuyển hầu hết mang tính “ bóc lột”.
Khi chủ nghĩa đế quốc sụp đổ, sự đô hộ của các nước đế quốc đối với các
nước thuộc địa không còn nữa, hình thức và đối tượng di chuyển của các
nguồn lực cũng có sự thay đổi. Nguồn lực di chuyển ở đây cũng phong phú
hơn, nó không chỉ dừng lại ở sức lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn
có công cụ sản xuất và kĩ thuật sản xuất. Hình thức di chuyển các nguồn lực
chủ yếu dưới dạng đầu tư nước ngoài - đầu tư giữa các quốc gia, khu vực với
nhau. Xu hướng di chuyển các nguồn lực cũng không còn theo một chiều từ
các nước bị đô hộ sang các nước đô hộ nữa mà đã xuất hiện chiều ngược lại
từ các nước tư bản phát triển sang các nước trước đây là thuộc địa, giữa các
nước tư bản phát triển với nhau.
Sự di chuyển nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh nói riêng và phát
triển nền kinh tế nói chung diễn ra ngày càng sâu sắc; đa dạng về hình thức
di chuyển, phong phú về đối tượng di chuyển và đa phương về xu hướng di
chuyển. Các hình thức di chuyển được
thực hiện thông qua đầu tư quốc tế, viện trợ và hỗ trợ quốc tế, liên kết kinh
doanh. Đối tượng di chuyển là sức lao động, nguồn lực tài chính và đặc biệt
là kĩ thuật, công nghệ sản
6
xuất, quản lý kinh doanh. Xu hướng di chuyển được thực hiện giữa các nước
phát triển vớigiữa các nước phát triển và phát triển, giữa các nước đang phát
triển với nhau. Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử phát triển kinh tế của
loài người luôn diễn ra hiện tượng di chuyển nguồn lực giữa các quốc gia,
các khu vực trên thế giới. Xét trên phương diện một quốc gia, thì sự di
chuyển các nguồn lực từ bên ngoài vào quốc gia đó gọi là nguồn lực bên
ngoài hay nguồn vốn nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể hiểu
nguồn lực bên ngoài hay nguồn vốn nước ngoài là tất cả những nguồn lực
nằm bên ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia được huy động vào quốc gia

đó. Do có sự phát triển của sản xuất, nguồn vốn nước ngoài cũng phong phú
dần lên.
Ban đầu, do nền sản xuất chủ yếu là chăn nuôi và trồng chọt do vậy chỉ
xuất hiện nhu cầu về sức lao động, hơn nữa, do có sự thiếu hụt và dư thừa
sức lao động ở các vùng khác nhau
nên nguồn vốn nước ngoài được di chuyển chỉ đơn thuần là sức lao động.
Khi nền sản xuất phát triển hơn, nhu cầu không chỉ dừng lại ở sức lao động
mà còn có thêm nhu cầu về nguyên nhiên liệu, mặt khác, do sự phân bố tài
nguyên ở các vùng khác nhau là khác nhau dẫn đến sự thiếu hụt và dư thừa
nguyên nhiên vật liệu sản xuất, do vậy nguồn vốn nước ngoài lúc này bao
gồm sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu.
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, kèm theo nó là sự phát triển rất nhanh
của khoa học kĩ thuật làm cho nền sản xuất phát triển đạt đến trình độ cao
hơn. Khoa học kĩ thuật được áp dụng nhiều hơn vào sản xuất. Nhiều công
nghệ sản xuất, quản lý mới ra đời và nó trở thành yếu tố không thể thiếu
trong sản xuất kinh doanh. Lúc này, nguồn lực bên ngoài không chỉ gồm sức
lao động và nguyên nhiên vật liệu mà còn có thêm cả yếu tố kĩ thuật, công
nghệ, nguồn lực tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Sản xuất càng
phát triển, nguồn vốn nước ngoài di chuyển giữa các nước, các khu vực khác
nhau ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Hầu hết các yếu tố phục vụ cho sản xuất đều có thể trở thành yếu tố
được di chuyển trên thế giới. Và nó trở thành nguồn vốn nước ngoài cho
quốc gia tiếp nhận nó. Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không chỉ bao gồm
các yếu tố hữu hình như vốn, máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu,... mà còn
bao gồm cả yếu tố vô hình như công nghệ; kĩ thuật; bí quyết; danh tiếng, tác
phong kinh doanh... . Nguồn vốn nước ngoài tồn tại ở rất nhiều dạng khác
nhau.
Do vậy, để có những phân tích sâu hơn về đặc điểm và vai trò của nó
chúng ta sẽ phân chia nguồn vốn nước ngoài ra thành từng loại khác nhau.
7

2.Phân loại vốn nước ngoài
2.1 Phân loại dựa trên hình thức tồn tại của từng loại vốn .
Theo hình thức tồn tại nguồn vốn nước ngoài bao gồm hai loại chính:
hữu hình và vô hình.
a) Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình
Vốn nước ngoài tồn tại hữu hình là tất cả các nguồn lực hữu hình bên ngoài
được huy động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nước ngoài là các nguồn lực tài chính tồn tại dưới dạng các loại
tín dụng ( bao gồm tín dụng bằng tiền, hoặc tín dụng thương mại, lại vốn này
có thể là tiền mặt hoặc có thể là hàng hoá).
- Vốn nước ngoài là máy móc thiết bị và các công cụ phục vụ cho sản
xuất kinh doanh.
- Vốn nước ngoài là nguyên, nhiên liệu phụ cho sản xuất:
b) Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình
Nguồn vốn nước ngoài tồn tại vô hình là tất cả các nguồn lực vô hình bên
ngoài huy động vào một quốc gia. Bao gồm:
- Vốn nước ngoài là công nghệ sản xuất, quản lý, khoa học kĩ thuật, bí
quyết sản xuất kinh doanh.
- Danh tiếng, nhãn mác thương mại, uy tín kinh doanh ... : là các yếu
tố đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá của mình thông qua đó thúc đẩy sản xuất
phát triển.
- Vốn nước ngoài dưới dạng sức lao động, chất xám được huy động từ
bên ngoài vào công cuộc phát triển của một quốc gia: Kèm theo các dự án
sản xuất kinh doanh, kèm theo các chương trình phát triển của nước cung
cấp vốn nước ngoài là một đội ngũ chuyên gia,công nhân kĩ thuật cao ...
sang làm việc trực tiếp tại nước nhận, nước tiếp nhận nó có thểsử dụng
nguồn lực này cho công cuộc phát triển của mình.

2.2 Phân loại vốn theo hình thức di chuyển
Nguồn vốn nước ngoài có thể chảy vào một quốc gia dưới nhiều hình

thức khác nhau và có xu hướng tạo ra những ảnh hưởng khác nhau tới nền
kinh tế. Căn cứ theo hình thức di chuyển và tác động đến nền kinh tế của
từng loại, hiện nay có nhiều cách phân loại vốn nước ngoài khác nhau. Ví dụ
như theo IMF, họ sử dụng khái niệm “các nguồn tài chính bên ngoài ” đối
với các nước đang phát triển (external financial resources to developing
countries) và chia thành hai loại:
8
- Các khoản viện trợ, giúp đỡ : bao gồm các khoản viện trợ song
phương, các khoản viện trợ đa phương (bao gồm cả các tổ chức tình nguyện
tư nhân) và các khoản hỗ trợ phát triển chính thức khác..
- Dòng vốn đầu tư tư nhân: bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng
khoán, tín dụng xuất khẩu tư nhân, vay ngân hàng. Căn cứ theo cách phân
chia của các nhà kinh tế Việt Nam và để phục vụ cho mục đích nghiên cứu,
trong phạm vi khoá luận này xin phân chia nguồn vốn nước ngoài thành các
loại chính sau :
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư trực tiếp là tất cả các nguồn lực được đầu
tư vào một quốc gia và chịu sự chi phối và quản lý trực tiếp từ các chủ đầu
tư nước ngoài. Đây là loại vốn nước ngoài được đầu tư trực tiếp từ bên ngoài
vào nước nhận vốn. Nó thường tồn
tại dưới dạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào nước tiếp
nhận. Các nguồn vốn nước ngoài được sử dụng trực tiếp tại nước tiếp nhận
dưới sự quản lý của chủ đầu tư. Đây là bộ phận quan trọng trong các luồng
vốn vào, nó có tính chất dài hạn, không
rằng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận,
thường đi kèm với chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, …
- Tín dụng thương mại: Đây là hình thức bên nước ngoài cho vay vốn
và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, bên nước ngoài chủ yếu các ngân
hàng nước ngoài nên nguồn vốn này còn được gọi là vốn
vay ngân hàng. Ngoài ra còn có một phần nhỏ khác là tín dụng xuất khẩu tư

nhân (bên nước ngoài khi xuất khẩu cho chịu tiền hàng một thời gian). Đối
với loại vốn này, bên nước ngoài không tham gia vào hoạt động của bên đi
vay và bên vay vốn có toàn quyền sử dụng khoản vốn này, bên chủ đầu tư
nước ngoài chỉ thu lợi nhuận qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước
vay độc lập với kết quả kinh doanh.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và khoản tài trợ có hoàn lại (cho
vay dài hạn với một số số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ,
các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng thế giới WB, Ngân hàng phát triển
châu Á – ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF…) dành cho chính phủ và nhân
dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ pháttriển nêu trên
được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài. Hình thức này luôn được các
chính phủ quan tâm vì tính chất của nó: cho không, cho vay ưu đãi, thời gian
ân hạn và đáo hạn dài, có cả chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Hạn
chế của hình thức này là các điều kiện áp đặt của các nhà tài trợ, tính hiệu
9
quả và bền vững của khoản vốn, có thể gây gánh nặng nợ nần cho tương lai
nếu không sử dụng có hiệu quả, có thể kèm các yếu tố chính trị, hối lộ…
Các hình thức chủ yếu của nguồn vốn ODA gồm hỗ trợ dự án, hỗ trợ phi
dự án, hỗ trợ cán cân thanh toán và tín dụng thương mại (là những khoản tín
dụng dành cho chínhphủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi
suất, thời gian ấn hạn, thời hạn trả dài
nhưng có những rằng buộc nhất định).
- Vốn nước ngoài dưới dạng đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
Đây là dạng đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu
tư nước ngoài bỏ tiền ra mua chứng khoán (gồm cổ phiếu, trái phiếu, và các
chứng từ phái sinh) để thu lợi nhuận thông qua cổ tức, trái tức hoặc chênh
lệch giá nhờ đầu cơ chứng khoán.
Nguồn vốn này đã và đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hầu

khắp các nền kinh tế, trên thực tế nhiều các quốc gia đã sử dụng kênh này để
huy động nguồn tài trợ từ bên ngoài một cách có hiệu quả. Ngoài ra vốn
nước ngoài còn có các nguồn vốn khác như kiều hối, các khoản quà tặng,
quà biếu, thừa kế, chuyển tiền từ nước ngoài … cũng đáng lưu tâm, đặc biệt
là các quốc gia có số lượng công dân sống và làm việc ở nước ngoài lớn.
Tuy nhiên nếu xét về tổng thể thì các nguồn này thường là nhỏ và không có
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô. Ta có thể bỏ qua các khoản này.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu của khoá luận, ta có thể khái quát cơ cấu
nguồn vốn vào một quốc gia thành 4 nguồn vốn nước ngoài chính:
- Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI)
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
- Tín dụng thương mại
- Đầu tư danh mục chứng khoán (FPI)
10
Chương II:Thực trạng tham gia của nhà đầu
tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán việt nam hiện nay.
I.Thực trạng hoạt động của TTCK việt nam.
1.1.Sự ra đời của TTCK Việt Nam.
Ngay từ ban đầu khi thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, Đảng và Nhà nước đã có chính sách về việc phát hành cổ phiếu và trái
phiếu. Trên cơ sở về mặt pháp lý này, đã có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu
được phát hành trên thị trường thu hút được khá nhiều nguồn vốn nhàn rỗi từ
dân chúng. Đây chính là hình thức sơ khai của thị trường hứng khoán Việt
Nam. Tuy nhiên vào thời điểm này, cổ phiếu và trái phiếu mới chỉ dừng lại ở
thị trường phát hành, hầu hết là loại chứng khoán ngắn hạn và trung hạn.
Các tổ chức môi giới và kinh doanh chứng khoán chưa tồn tại, hệ thống các
văn bản pháp lý còn thiếu, hưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Thị trường vốn Việt
Nam lúc này còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn
dài hạn cho nền kinh tế. Vì vậy việc phát triển thị rường chứng khoán ở

nước ta là một nhu cầu cấp thiết.
Đến tháng 4 năm 1997 Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đi vào hoạt
động trên cơ sở Nghị định số 7/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ về việc
thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước, chủ động thúc đẩy việc chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để hình thành thị trường hứng khoán Việt Nam và
đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của nó ngay từ khi mới thành lập.
Sau một thời gian chuẩn bị, nghị định số 58/1998/NĐCP ngày
11/7/1998 của chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán được
ban hành, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Đến tháng 7/2002, Trung tâm giao dịchchứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh khai trương và hoạt động theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số
127/1998/QĐ-Ttg ngày 11/7/1998. Thị trường Chứng khoán Việt Nam chính
thức mở cửa..
Việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đã tạo thêm một kênh dẫn
vốn mới thu hút vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển đất nước, góp phần
hoàn thiện hệ thống các thị trường tài chính và tạo lập đồng bộ các yếu tố
của một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thị trường
chứng khoán Việt Nam ra đời, ngoài việc phát huy nội lực tạo thêm một
kênh huy động vốn trung và dài hạn để bổ sung vào thị trường vốn, đáp ứng
11
yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; nó còn giúp các doanh
nghiệp xây dựng chiến lược tài chính , có điều kiện tạo vốn và sử dụng vốn
thông qua kênh phát hành các loại chứng khoán trên thị trường, tạo thói quen
công khai hoá thông tin và báo cáo tài chính, cải tiến đổi mới phương thức
quản lý, tự lành mạnh hoá tình hình tài chính của mình. Thị trường chứng
khoán ra đời tạo cơ hội cho người đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư qua
chứng khoán thay vì gửi tiền tiết kiệm qua ngân hàng, mua ngoại tệ, vàng,
bất động sản. Thị trường chứng khoán cũng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy và hỗ
trợ tích cực cho tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và hoạt động cũng là một

bước tiến trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đóng góp tích
cực cho việc cải thiện môi trường đầu tư, tăng khả năng thu hút vốn và điều
hoà nguồn vốn đầu tư cho quá trình phát triển của đất nước. Sự góp mặt của
Trung tâm Giao dịch chứng khoán còn là sự bổ sung hoàn chỉnh cho một cơ
cấu Thị trường tài chính theo hướng phát triển nền tài chính phù hợp với
chính sách xây dựng nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, và thêm một lần nữa khẳng định sự nhất quán đường lối đổi mới của
Đảng, phù hợp với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế và đưa nền kinh tế
hội nhập khu vực và thế giới.
1.2.Những thành công bước đầu.
Qua những năm hoạt động TTCK đã đạt được một số kết quả:
- Chúng ta đã mở ra được một TTCK theo mô hình tập trung với qui
mô nhỏ. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức trong quá trình mở cửa và hội nhập, chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, TTCK Việt Nam vẫn ra đời và
đi vào hoạt động. Hoạt động của TTCK mặc dù chưa phát triển như mong
muốn song bước đầu đã triển khai khá suôn sẻ, không gây ra những biến
động lớn hoặc tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế-xã hội của đất nước.
- TTCK Việt Nam đã bước đầu hình thành một hệ thống các tổ chức
niêm yết với tổng giá trị niêm yết là 6.657 tỷ đồng và tổng giá trị thị trường
là 8.763 tỷ đồng; đã huy động được một khối lượng vốn đáng kể cho ngân
sách nhà nước thông qua đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu Quĩ hỗ trợ phát triển để niêm yết trên thị trường (trên 4.000
tỷ đồng). Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện phát hành cổ phiếu
để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng giá trị tăng thêm
là 155,4 tỷ đồng (tính đến thời điểm tháng 7 năm 2003).
- Xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia hoạt
động trên TTCK, bao gồm 12 công ty chứng khoán, 5 ngân hàng lưu ký và 1
ngân hàng chỉ định thanh toán. Các trung gian tài chính đã thể hiện được vai
12

trò của mình trong việc triển khai các nghiệp vụ môi giới, bảo lãnh phát
hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin
cho nhà đầu tư, thực hiện tốt các giao dịch chứng khoán trên thị trường.
- Xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn về
hoạt động và quản lý thị trường, bước đầu đảm bao cho sự vậnhành của thị
trường diễn ra suôn sẻ, không gây những biến động lớn.
- Hoạt động quản lý, vận hành thị trường của Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước và Trung tâm Giao dịch chứng khoán đã có nhiều cải tiến và từng
bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Đã có
các giải pháp kịp thời, đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công
khai, công bằng và hiệu quả, không để xảy ra những hậu quả bất ổn đáng
tiếc.
- Các chủ thể tham gia TTCK và công chúng đầu tư đã dần làm với
một phương thức đầu tư mới với khoảng 14.500 nhà đầu tư, trong đó co hơn
90 nhà đầu tư có tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài, ngày càng tham gia
thị trường tích cực và hiệu quả hơn. Thông qua hoạt động của thị trường, các
công ty niêm yết, công ty chứng khoán tận dụng được những lợi thế mà thị
trường đem lại. Các công ty đã cải tiên phương thức hoạt động, công khai
hoá thông tin, nâng cao vai trò quản trị công ty, nhờ vậy mà vị thế và uy tín
của công ty được nâng lên.
- Đã đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán và thị trường cho đội
ngũ cán bộ quản lý, vận hành thị trường. Thực hiện đào tạo và cấp giấy phép
hành nghề cho các nhân viên kinh doanh của các Công ty chứng khoán và tổ
chức lưu ký. Ngoài ra, công tác đào
tạo và tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK đã luôn được chú trọng
và đóng góp đáng kể trong việc cung cấp kiến thức cơ bản cũng như hiểu
biết pháp luật về chứng khoán và TTCK cho công chúng.
- Hoạt động của TTCk cũng đã góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần
hoá doanhnghiệp nhà nước, gắn quá trình cổ phần hoá với niêm yết chứng
khoán trên TTCK. Từngbước hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng điều lệ mẫu

và sử dụng những thông lệ tốt nhất
trong quản trị công ty, tạo ra nét văn hoá mới trong quản trị kinh doanh.
1.2.1.Lạm phát kiềm chế dưới một con số
Trong suốt một thập kỷ trước khi cuộc khủng hoảng Chấu Á xảy ra,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển
kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân một năm trong giai đoạn 1989-
1996 là 8,2%. Lạm phát giảm từ mức độ 3 con số trong những năm 80
xuống còn 1 con số trong gần hết các năm thập kỷ 90.
13
Biểu đồ2:Tình hình kinh tế vĩ mô
Nguồn Báo cáo của GSO(1999,trang 31) và IMF(2000,trang3) về tình hình kinh tế việt
nam.

1.2.2. GDP tăng trưởng ở mức cao .
Bức tranh nền kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện đang kể trong
vòng 5 năm qua, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm
1997. Sự cải thiện này là nhờ một loạt các chính sách và quy chế đưa nền
kinh tế vào một quỹ đạo tăng trưởng trung hạn ở tầm cao hơn, kể cả trong
điều kiện môi trường bên ngoài còn chưa thuận lợi. Niềm tin trong khu vực
tư nhân được củng cố do chương trình cải cách theo giai đoạn chi tiết đã
được thông qua vào năm 2001, số doanh nghiệp tư nhân mới tăng rất nhanh.
Năm 2002, tăng trưởng GDP thực tế là 7%. Những nền tảng căn bản tốt
trong ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách cơ cấu, đi kèm với niềm tin
ngày càng được nâng cao trong nền kinh tế, đó chính là những lý do căn bản
dẫn đến tăng trưởng GDP nhanh hơn.
14

1.2.3. Mức tiêu dùng tăng
Mức tăng trưởng được duy trì ở con số cao như vậy là do có sự gia
tăng về tổng cầu trong nước. Tỷ lệ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá đã được

phục hồi trở lại mức chưa từng có kể từ khi nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi
cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997. Sản xuất hàng tiêu dùng lâu bền như
vật liệu xây dựng nhà, ô tô, xe máy, và ti-vi khẳng định rằng mức tiêu dùng
đã tăng nhanh trong giai đoạn này.

Biểu đồ 2:Tỷ lệ tổng mức bán lể
Nguồn:Tổng cục thông kê(2002) và ước tính của ngân hang thế giới.
1.2.4. Đầu tư phát triển tăng
Việc nhiều doanh nghiệp mới được thành lập và niềm tin vững chắc
của các nhà đầu tư đã thúc đẩy việc đầu tư vốn và đưa con số những doanh
nghiệp đăng ký mới lên trên 50.000 ,trong vòng 2 năm qua.
Đến tháng 7-2002, vốn đầu tư từ những doanh nghiệp mới đã tăng
45%so với cùng kỳ năm trước. Riêng đầu tư của những doanh nghiệp mới
vừa và nhỏ trong khuvực kinh tế chính thức đạt 40 nghìn tỷ đồng ( tương
đương với khoảng 2,7 tỷ USD) trong năm2003, tức là gần 9% GDP. Tổng
đầu tư của khu vực nhà nước, kể cả từ nguồn ngân sách vàvốn của doanh
15
nghiệp vào khoảng mức 18% GDP năm 2002. tăng sản lượng lần lượt là
19% và 15%. Nguyên nhân của xu hướng này là tỷ lệ doanh
nghiệp mới được thành lập đạt mức cao trong năm 2002.
1.2.5. Cơ cấu nền kinh tế dịch chuyển theo hướng kinh tế thị trường
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng
trưởng. Ngành
chế biến tiếp tục tăng mạnh với khu vực tư nhân trong nước và đầu tư nước
ngoài đạt tỷ lệ với mức tăng sản lượng 12% năm sau so với năm trước, sản
xuất công nghiệp của khu vực nhà nước có khiêm tốn hơn. Điều này phản
ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang kinh tế thị trường, nhiều
doanh nghiệp nhà nước ngày càng phải đứng trước áp lực cạnh tranh và việc
hạn chế ngân sách cứng rắn hơn. Giá trị gia tăng trong khu vực tư nhân đã
vượt khu vực nhà nước, ít nhất kể từ năm 1997.

1.3.Những tồn tại cần giải quyết.
- Khung pháp lý cho vận hành thị trường chưa được hoàn thiện, văn
bản phápcao nhất của thị trường hiện nay là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày
11/7/1998 của Chphủ được soạn thảo và ban hành trong điều kiện TTCK ở
Việt Nam chưa đi vào hoạt độdo vậy, qua một thời gian hoạt động một số
nội dung không còn phù hợp với hoạt động thị trường hiện tại cũng như với
nội dung mới của Luật Doanh nghiệp. Khi Dự thảo nđịnh thay thế Nghị định
48/NĐ-CP vẫn trong quá trình thẩm định để ban hành, làm nhiều văn bản
hướng dẫn rất khó thực hiện. Tóm lại là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu
Á, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam có giảm nhưng đã hồi phục trở lại kể từ
năm 2000. Tuy nhiên, về lâu về dài thì nền kinh tế của Việt Nam cũng còn
có những vấn đề tồn tại cần phải được quan tâm .
1.3.1.về hàng hóa.
- Hàng hoá trên TTCK tuy đã tăng về số lượng nhưng thực sự là chưa
nhiều và chưa đa dạng về chủng loại, trong đó khối lượng trái phiếu niêm
yết chiếm tỷ trọng lớn, nhưng giao dịch chứng khoán trên thị trường chủ yếu
tập trung vào cổ phiếu. Cổ phiếu niêm yết phần lớn cổ phiếu của các DNNN
CPH (21/22 doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường- tính đến thời điểm
hiện nay) là những doanh nghiệp có tình hình tài chính tương đối lành mạnh,
hoạt động có hiệu quả nhưng đa phần vồn kinh doanh nhỏ.
16
- Về hoạt động kinh doanh và quản trị của các Công ty niêm yết. Hiện tại,
các công ty có tỷ lệ doanh thu cao nhưng phần lớn các công ty có qui mô
vốn nhỏ; sản phẩm của các
công ty này có khả năng cạnh tranh còn khiêm tốn trên thị trường, đặc biệt
là trên thị trường nước ngoài; cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán, kiểm
toán có những điểm chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Bước đầu tham gia thị trường các tổ chức
niêm yết chưa thấy hết được tầm quan trọng của công việc công khai thông
tin. Do đó chưa chủ động, tự giác

cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư, chính điều này phần nào ảnh
hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư.
- Hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, còn hạn chế về mô hình
tổ chức và trình độ kỹ thuật. Do TTGDCK là một đơn vị sự nghiệp có thu
trực thuộc UBCKNN kiêm thêm chức năng lưu ký, đăng ký, thanh toán bù
trừ chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu của thị trường. Về lâu dài, Trung tâm
giao dịch cần phải được tổ chức lại theo hướng nâng cao tính tự chủ trong
việc tổ chức vận hành hoạt động của thị trường. Bộ phận
lưu ký, đăng ký, thanh toán cần hải được tách biệt thành một trung tâm độc
lập, có chức năng chuyên trách để có thể phát triển theo hướng chuyên sâu
và mở rộng qui mô hoạt
động. Về năng lực kỹ thuật, hệ thống giao dịch hiện nay của TTGDCK chỉ là
hệ thống bán tự động với mạng cục bộ, năng lực hoạt động còn hạn chế,
mức độ tự động hoá của các hệ
thống còn thấp dẫn đến công suất và hiệu quả chưa cao và khó khăn trong
việc thực hiện chức năng giám sát thị trường. Hệ thống công bố thông tin thị
trường hiện nay tuy đã cung
cấp được một số thông tin về giá, khối lượng chứng khoán giao dịch hàng
ngày, tuy nhiên lượng thông tin cung cấp một mặt chưa đáp ứng nhu cầu của
các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các thông tin về Công ty niêm
yết, thông tin về quản lý thị trường.
1.3.2. Tỷ lệ chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn khá lớn
Điều này cho thấy nền kinh tế phát triển phụ thuộc khá nhiều vào vốn
vay nước ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm dù có gia tăng nhanh chóng nhưng còn thấp
hơn rất nhiều so với tỷ lệ tiết kiệm tại một số quốc gia láng giềng trong khu
vực Mức tăng trưởng tiết kiệm quốc gia tăng kỷ lục trong năm 1999 có thể
sẽ không duy trì được. Lý do là sự lo lắng về mức tăng trưởng kinh tế sau
cuộc khủng hoảng Châu Á khiến cho người dân tiết kiệm nhiều hơn trong
năm 1999; nhưng những dự đoán về khả năng hồi phục mạnh từ năm 2000
sẽ khiến mức tiết kiệm của dân chúng giảm đi. Hơn nữa, các số liệu về tiết

17

×