Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Đề cương bài giảng giáo dục hướng nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.93 KB, 41 trang )

Sample
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN
KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

-------------------------------

TẬP THỂ KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
(Lưu hành nội bộ)

Batch PDF Merger
Hưng Yên, 2015


Sample
1.1. Hướng nghiệp
1.1.1. Khái niệm hướng nghiệp

Thuật ngữ hướng nghiệp xuất hiện trên thế giới cách đây hàng trăm năm nhưng

cho đến nay vẫn còn rất nhiều người hiểu chưa đúng hoặc chưa đầy đủ. Có người nghĩ

đơn giản hướng nghiệp là hướng dẫn, quyết định việc chọn ngành, nghề cho HS
chuẩn bị tốt nghiệp phổ thơng; có người cho rằng đây là q trình định hướng cho các

em lựa chọn những ngành, nghề có giá trị trong xã hội. Có người lại cho rằng hướng
nghiệp là cơng việc dành riêng cho nhà trường và chỉ có nhà trường mới làm được
hướng nghiệp…


Vậy, nên hiểu về hướng nghiệp như thế nào cho đúng?

“Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và

ngồi nhà trường để giúp HS có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề
nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao
động của xã hội.
Thực chất của hướng nghiệp khơng phải là sự quyết định nghề mà là giúp các em
có được những hiểu biết cần thiết về bản thân, về thế giới nghề nghiệp xung quanh, về
những yếu tố ảnh hưởng/tác động tới bản thân trong việc chọn nghề để lựa chọn nghề
phù hợp và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cá nhân với nghề, giữa cá nhân với
xã hội.
Hướng nghiệp là giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có chủ đích nhằm đảm

PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HƯỚNG NGHIỆP

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP

bảo cho các em hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp, lao động đạt hiệu suất cao và
cống hiến được nhiều nhất cho xã hội.
Hướng nghiệp khơng chỉ được thực hiện trong nhà trường bởi các thầy, cơ giáo mà còn
được tiến hành tại gia đình và cộng đồng với sự tác động, hỗ trợ của các cơ quan, đồn
thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là cha mẹ HS.
1.1.2. Mục đích của hướng nghiệp
Mục đích chính của cơng tác hướng nghiệp là “Phát hiện, bồi dưỡng tiềm năng sáng tạo
của cá nhân, giúp họ hiểu mình và hiểu u cầu của nghề, chuẩn bị cho thanh niên sự sẵn sàng
tâm lý đi vào những nghề mà các thành phần kinh tế trong xã hội đang cần nhân lực, trên cơ sở
đó đảm bảo sự phù hợp nghề cho mỗi cá nhân” 3.

Batch PDF Merger

Vì vậy, cơng tác hướng nghiệp được thực hiện với mong muốn giúp HS4: Ở bậc

THCS: Các em có thể khám phá bản thân "mình là ai". Kết quả là HS có thể lựa chọn ban

học phù hợp ở cấp THPT (tự nhiên, xã hội...) và có kế hoạch nghề nghiệp sau khi tốt
nghiệp THPT. Đối với những HS khơng thể tiếp tục học lên THPT, các em sẽ có tự tin và
1


năng lực để chọn các chương trình đào tạo nghề/trường nghề phù hợp sau khi tốt
nghiệp THCS.
Ở bậc THPT: Các em có thể hiểu biết sâu hơn "mình là ai" về năng lực/ kĩ năng/ điểm mạnh
của bản thân; hiểu được các cơ sở lao động của địa phương và quốc gia, bao gồm thị
trường lao động, nhu cầu của xã hội, các đặc tính của nghề, quy mô và cơ cấu nhân lực
tại địa phương...; hiểu rõ các tác động từ xã hội, gia đình tới việc lập kế hoạch nghề
nghiệp và ra quyết định nghề nghiệp của bản thân.
1.2. Tầm quan trọng của công tác hướng nghiệp
1.2.1. Vai trò của hướng nghiệp
Công tác hướng nghiệp cho thế hệ trẻ có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ cho
tương lai của các em mà còn có tác động đến gia đình và xã hội, thể hiện như sau:

HƯỚNG
NGHIỆP

Bản thân:
- Tự tin đưa ra quyết định
nghề
- Góp phần vào xây dựng
nền tảng cho tương lai


Gia đình:
- Tiết kiệm thời gian,
công sức, tiền của
- Xây dựng hạnh
phúc gia đình

Nhà trường:
- Phân luồng hợp lý HS PT
sau khi tốt nghiệp
- Cung cấp nguồn nhân lực
chất lượng và phù hợp

Hình 1. Vai trò của hướng nghiệp
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có một vấn đề nổi cộm dễ nhận thấy, đó là: hầu
hết các gia đình có con đi học đều muốn con thi vào đại học ngay cả khi khả năng học tập
của các em còn chưa tốt. Rất nhiều em chạy theo những ngành nghề “thời thượng”
đang được đánh giá cao trong khi hiểu biết về đầu ra của thị trường lao động hầu như
không có, khả năng của bản thân lại không phù hợp với ngành nghề đã chọn. Hậu quả là
nhiều em rất khó kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp trường đại học, nhiều em phải
xin làm những công việc trái ngành, trái nghề hoặc không cần phải có trình độ đại học…
Từ những phân tích trên cho thấy, vấn đề cấp thiết được đặt ra lúc này là làm thế
nào để nâng cao nhận thức của mọi người đối với công tác hướng nghiệp, huy động được
nhiều lực lượng xã hội, đặc biệt là cha mẹ HS tham gia hướng nghiệp một cách tích cực,
đúng hướng và hiệu quả.

2


PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HƯỚNG NGHIỆP


1.2.2. Một số quan niệm trong q trình hướng nghiệp
- Xem nhẹ việc định hướng nghề, cho rằng chỉ cần định hướng nghề cho những
em HS “khơng có kết quả học tập tốt” và khơng có khả năng học lên cao hơn;
- Coi trọng con đường học vấn, xem nhẹ việc học nghề: Trong số 572 cha mẹ
HS tham gia phỏng vấn về hướng nghiệp, có đến 88,7% người muốn con học cao lên đến
đại học. Chỉ có 10,6% người muốn con học nghề và 0,7% muốn con tham gia lao động;
- Thường hướng người học vào những ngành học đang được coi là “thời thượng”,
dễ xin việc hoặc chọn cơng việc “lương cao, nhàn hạ”, tức là chỉ chú ý đến những điểm
hấp dẫn của nghề, chưa chú ý tìm hiểu những khó khăn thử thách, các u cầu cụ thể của
nghề;
- Áp đặt ý kiến của cha mẹ, thiếu tơn trọng ý kiến của con
- Bỏ qua kế hoạch để đạt được mục tiêu nghề nghiệp;
- Bất bình đẳng về giới trong khi định hướng nghề nghiệp cho con.
Ngun nhân chủ yếu là do đa số cha mẹ còn thiếu kiến thức cơ bản về hướng
nghiệp. Họ thường hướng nghiệp cho con theo cảm tính và kinh nghiệm, bỏ qua bước
phân tích, đối chiếu xem nghề đó có phù hợp với bản thân con mình hay khơng ?
Để giúp học sinh hướng nghiệp, điều quan trọng nhất là cần biết được các bước
cần làm và cách thực hiện từng bước đó ra sao. Hình vẽ dưới đây là sơ đồ tổng qt về
các bước cần làm trong quy trình hướng nghiệp:

Bạn là ai?
( Đánh giá )
- Sở thích
- Cá tính
- Khả năng
- Giá trị
- Thành tích

Bạn đang đi về đâu?
( Tìm hiểu/Nghiên cứu)

- Thơng tin nghề nghiệp
- Thơng tin thị trường
tuyển dụng
- Nghiên cứu nghề nghiệp
- Mục tiêu ngắn và dài
hạn

Làm sao để đi đến
nơi bạn muốn đến?
( Kế hoạch hành động )
- Kỹ năng cần thiết
- Giáo dục/bằng cấp
- Xây dựng mạng lưới chun
nghiệp
- Viết đơn xin việc
- Phỏng vấn
- Trở ngại/chiến lược

3


1.2.3. Nguyên nhân lựa chọn nghề nghiệp sai lầm
Trong quá trình tìm và làm việc, đôi khi bạn bị chi phối bởi những quan niệm không
đúng. Chẳng hạn bạn cho rằng phải làm công việc liên quan đến chuyên ngành đã học mới
dễ thành công, nhưng thực tế lại không hẳn như vậy…
Dưới đây là một vài quan niệm nghề nghiệp sai lầm. Nếu bạn đang giữ quan niệm đó,
hãy mau mau thay đổi đi!
- Chọn nghề theo sự áp đặt của người lớn, người khác.
- Chọn nghề theo chuẩn của nhóm, của bạn bè và của người yêu.
- Chọn nghề may rủi.

- Chọn nghề chỉ ở bậc Đại học.
- Chọn nghề theo “mác”, theo “nhãn”.
- Chọn nghề nổi tiếng, dễ kiếm tiền.
- Chọn nghề “gấp, rút” mà không có sự kiên nhẫn, hy sinh.
- Chọn nghề không nghĩ đến những điều kiện có liên quan như: điều kiện kinh tế cá
nhân hoặc gia đình, thời gian học nghề, tuổi thọ của nghề, đầu ra của nghề…
* Ba nhầm lẫn cần tránh khi chọn nghề
Lựa chọn sự nghiệp là một việc không đơn giản chút nào. Chỉ một nhầm lẫn nhỏ
cũng có thể khiến bạn phải hối tiếc suốt đời. Dưới đây là 3 nhầm lẫn phổ biến, bạn nên
tham khảo để tránh xa.
Nhầm lẫn giữa cái bạn giỏi và cái bạn thích
Bạn không cần phải dành cả cuộc đời để ca hát chỉ bởi vì bạn có chất giọng mượt mà
như chim sơn ca. Bạn cũng chẳng cần phải trở thành một đầu bếp bởi bạn có cảm nhận
nhạy cảm bẩm sinh với các loại gia vị. Để bắt đầu tìm kiếm việc làm, hãy lập ra hai bảng
danh sách, 1 bảng liệt kê những gì bạn giỏi, và một liệt kê những gì bạn muốn làm.
Nhầm lẫn giữa sở thích và sự nghiệp
Vậy là bạn đã hoàn thành bản danh sách và nhận thấy rằng mình thích chạy, yêu luật,
ham đọc sách và chơi bóng rổ. Giờ bạn lại đau đầu vì không biết kết hợp tất cả những yếu
tố đó vào một công việc như thế nào. Đừng lo lắng. Bởi bạn không cần phải làm thế.
Ví dụ như, bạn có thể yêu thích khiêu vũ nhưng bạn biết rằng mình không thể sống
đầy đủ bằng con đường này. Do đó, khiêu vũ là sở thích lớn của bạn. Bạn có thể duy trì
hoạt động này để giải trí, thư giãn, nhưng hãy tách biệt nó với công việc chính của bạn.
Nhầm lẫn giữa một phần và toàn bộ công việc
Cái bạn thích làm không nhất thiết phải là cái chủ đạo mà bạn làm. Người ta thường
có xu hướng nghĩ rằng họ phải trở thành cái họ thích thay vì làm nó.

4


Ví dụ như một người có sở thích là viết. Thay vì tìm kiếm cơ hội được thực hiện việc

VIẾT, anh ta lại nghĩ rằng mình phải trở thành một nhà văn. Anh ta chỉ theo đuổi sự
nghiệp “nghiên bút” như tiểu thuyết gia, phóng viên, người viết slogan, trong khi đó anh ta
có thể hướng vào vị trí một bộ trưởng, một nhân viên PR, một biên tập viên hay một viên
chức vận động hành lang cho chính phủ. Ở đó, anh ta hoàn toàn có “đất” để “múa bút”
thoải mái đồng thời phát huy được những khả năng khác của bản thân.
1.2.4. Hậu quả của việc lựa chọn nghề nghiệp sai lầm
1.2.4.1. Bạn sẽ cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán và bế tắc
Bạn hãy thử tưởng tượng bạn không thích làm việc gì nhưng cứ bị ép buộc làm ngày
này qua ngày khác thì bạn cảm thấy ra sao. Rất nhàm chán và giống như tra tấn phải không
Chúng ta chỉ có một đời để sống, một ngày mai để hy vọng và một ngày hôm nay để làm
những thứ mình yêu thích. Và nghề nghiệp trong cuộc sống rất đa dạng và phong phú đủ
để bạn chọn được công việc mà mình yêu thích. Vậy tại sao bạn không chọn?
1.2.4.2. Không phát huy thế mạnh bản thân
Bạn không yêu thích công việc thì làm sao bạn có thể đào sâu suy nghĩ, tìm hiểu về
nó được. Điều đó là không thể dẫn bạn đến thăng hoa của sự nghiệp và thành công trong
cuộc sống
2.4.3. Tốn thời gian và tiền bạc
Cuối cùng, một thiệt thòi rất lớn nữa chính là hao phí thời gian và tiền bạc. Nếu lỡ
một ngày bạn chợt nhận ra cuộc sống của mình là những chuỗi ngày nhàm chán lặp đi lặp
lại, rồi bạn quyết định đi theo con đường mình thích, đó cũng là lúc bạn nhận ra mình đã
đánh mất mấy năm tuổi trẻ cho những điều vô bổ mất. Nếu làm một phép tính đơn giản cho
4 năm đại học thường, hay 6-7 năm đối với đại học y, rồi lại cần 2 đến 4 năm học lại nghề
mình thích, ngoài số tiền rất lớn chúng ta phải bỏ ra cho việc học tập thì thời gian và cơ hội
là thứ quý giá nhất bị mất mà không bao giờ quay lại. Đó là lí do tại sao bạn cần suy nghĩ
chín chắn trước khi chọn ngành chọn nghề mình theo đuổi
1.3. Nhu cầu lao động của xã hội
1.3.1. Khái niệm về thị trường lao động
Có rất nhiều khái niệm về thị trường lao động, mỗi một thị trường lao động lại có
những đặc điểm riêng của mình. Thị trường lao động khác biệt so với thị trường hàng hóa
ở chỗ, nó thể hiện phần lớn những biểu hiện kinh tế xã hội của cả xã hội và có rất nhiều

yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của nó. Vì vậy, thị trường lao động của Mỹ, Nhật, Tây
Âu, Nga, Trung Quốc và Việt Nam có rất nhiều khác nhau.
Vậy thế nào là thị trường lao động, Các tên gọi mà chúng ta thường gặp trong các ấn
phẩm khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng, tên nào chính xác hơn: “thị trường
lao động”, “thị trường sức lao động”, “thị trường dân số tích cực kinh tế”, “thị trường
5


nguồn nhân lực” ? Bản chất của chúng có gì đặc biệt và chúng khác nhau ở điểm nào? '
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường lao động là thị trường trong đó có
các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm
của lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao
động được xác định thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “… Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao
động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm, thì được gọi là thị trường lao động” ;
hoặc, “… Thị trường - đó là một cơ chế, mà với sự trợ giúp của nó hệ số giữa người lao
động và số lượng chỗ làm việc được điều tiết”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường lao động được hiểu như
một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật),
đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động”; hoặc: Hệ thống những quan
hệ được hình thành trên cơ sở giá trị giữa những người sử dụng lao động (sở hữu tư liệu
sản xuất) và những người làm thuê (sở hữu sức lao động) về vấn đề trước nhất là thoả mãn
cầu lao động và vấn đề tiếp theo là làm thuê như nguồn phương tiện để tồn tại”. “… Thị
trường lao động - đó là một dạng đặc biệt của thị trường hàng hóa, mà nội dung của nó là
thực hiện vấn đề mua và bán loại hàng hóa có ý nghĩa đặc biệt - sức lao động, hay là khả
năng lao động của con người. Như một phạm trù kinh tế thị trường sức lao động thể hiện
quan hệ kinh tế giữa một bên là người làm chủ hàng hóa này, sở hữu sức lao động - người
bán nó và bên kia, với người sở hữu vốn - mua sức lao động”.
Theo các nhà khoa học kinh tế Việt Nam khái niệm này còn đa dạng và phong phú
hơn nhiều: “Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh

vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và
sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động...), ở đó
diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử
dụng lao động”.. Hoặc: “Thị thường lao động được hình thành trong bối cảnh giải phóng
người lao động từ trong các xí nghiệp và tăng thất nghiệp. Bản thân thị trường lao động
thường xuyên đồng nhất với thất nghiệp, cũng là những người không có việc làm, nhưng
đang đi tìm nó, còn cầu là những chỗ làm việc trống”. “Thị trường lao động (hoặc thị
trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động
(người lao động làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông
qua các hình thức thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc
khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các
dạng hợp đồng hay thoả thuận khác”. “Thị trường “sức lao động” là nơi thể hiện quan hệ
6


xã hội giữa người lao động làm thuê và người thuê mướn lao động thông qua sự điều chỉnh
giá cả tiền công”. “Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có
sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng và chất
lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng”.
Bất kỳ khái niệm nào đều có những khía cạnh đúng. Chúng tôi trích dẫn trên đây chỉ
một vài trong số nhiều khái niệm để nhấn mạnh tính phức tạp của chính khái niệm “thị
trường lao động”, cùng với tính đa dạng và sự đặc biệt của nó. Tuy nhiên, theo quan điểm
của chúng tôi, phương pháp tiếp cận của một vài tác giả trên đây sẽ dẫn đến sẽ đánh giá sai
lệch một cách nghiêm trọng những tình huống đang xuất hiện trong lĩnh vực việc làm và
triển vọng hình thành, phát triển của thị trường lao động trong nền kinh tế đang chuyển đổi
mạnh mẽ sang quan hệ thị trường.
Từ đó, trong khái niệm “thị trường lao động” chúng tôi thấy cần thiết phải bổ sung
thêm, dựa vào những gì thị trường lao động tồn tại và nó hoạt động trong bối cảnh không
gian nào.
Theo ý kiến chúng tôi, khái niệm “thị trường lao động” mà nhà khoa học kinh tế Nga

Kostin Leonit Alecxeevich đưa ra là tương đối đầy đủ: “Thị trường lao động - đó là một cơ
chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong một không
gian kinh té xác định, thể hiện những quan hệ kinh tê' và pháp lý giữa họ với nhau”. Hay
nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện
giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao
động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Quá trình
sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị
trường. Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc,
nơi mà anh ta có thể làm việc, thể hiện khả năng, và nhận thụ nhập để tái sản xuất sức lao
động của mình. Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Trên thị
trường sẽ hình thành những quan hệ việc làm. Vì vậy, nó xác định nội dung đích thực của
thị trường lao động như thị trường việc làm.
1.3.2. Các yếu tố của thị trường lao động
Các yếu tố chủ yếu tạo nên thị trường lao động bao gồm bên cung sức lao động; bên
cầu sức lao động; các quan hệ giao dịch giữa bên cung và bên cầu sức lao động về giá cả
sức lao động. Trạng thái của các yếu tố này quyết định cơ cấu và đặc điểm của thị trường
lao động. Trong đó, bên cung và bên cầu sức lao động là hai chủ thể của thị trường lao
động, có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự chuyển hóa lẫn nhau của
7


hai chủ thể này quyết định tính cạnh tranh của thị trường lao động: Khi bên cung sức lao
động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hóa này, thì bên mua ở vào địa vị có lợi hơn trên thị
trường lao động (thị trường của bên mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị
trường lớn hơn cung (thị trường của bên bán) người bán sẽ có lợi thế hơn, có nhiều cơ hội
để lựa chọn công việc, giá cả sức lao động có thể được nâng cao.
1.3.2.1. Cung về sức lao động
Là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào
quá trình tái sản xuất xã hội, tức tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao
động, và cả tổng số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng trong thực tế

chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Thông thường, khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt
rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
- Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc và những người thất nghiệp;
- Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ, hoặc không có nhu cầu làm việc.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cung lao động là: quy mô và tốc độ tăng dân số,
quy định về độ tuổi lao động, tình trạng tự nhiên của người lao động, tỷ lệ tham gia của lực
lượng lao động vào thị trường lao động và một số nhân tố khác.
1.3.2.2. Cầu về sức lao động
Là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay
một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Về mặt lý thuyết, cầu về lao động cũng
được phân chia thành hai loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng.
- Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một
thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới.
- Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc có thể
có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm trong tương
8


lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, và cả những điều kiện khác nữa như chính
trị, xã hội, v.v...
Cầu về lao động bao gồm hai mặt: thứ nhất, cầu về chất lượng lao động, và thứ hai,
cầu về số lượng lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động
không biến đổi, cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu
quy mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn
xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri

thức... của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng sức lao động.
Trên cơ sở hoạt động của thị trường lao động, cũng giống như các yếu tố sản xuất
khác, nó cũng có những nguyên tắc làm cơ sở cho thị trường hàng hóa tiêu thụ và dịch vụ
phân tích quan hệ cung - cầu là phương pháp cơ bản để nghiên cứu hoạt động của thị
trường này hay thị trường kia. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường lao động có nhiều đặc
biệt, gắn với tính chất và những đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động.
- Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa - sức lao động khỏi sở hữu chủ. Trên thị
trường lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng lao động
- sức lao động, mà hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng người mua
không đơn giản là mua sức lao động như những loại hàng hóa khác, mà có quan hệ với
người có những quyền hạn nhất đỉnh như một cá nhân tự do, mà anh ta phải tuân thủ. Nếu
vi phạm những quyền hạn đó người mua phải chịu trách nhiệm pháp lý và có thể có những
tổn thất về kinh tế. Người mua này, chính xác hơn, được gọi là người thuê lao động (người
sử dụng lao động);
- Có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau giữa người bán và
người mua nếu so sánh với thị trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Điểm này đặt
một dấu ấn trong mối quan hệ tương hỗ hai bên và đóng một vai trò không ít quan trọng
trong khả năng cạnh tranh của công ty. Người lao động, như một cá thể, có thể tự kiểm
soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung
thực khác nhau với công ty đã thuê họ. Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản
lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với
người lao động một cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các
phúc lợi xã hội khác;
- Tồn tại số lớn cấu trúc thể chế loại đặc biệt (hệ thống pháp luật phân nhánh, những
chương trình kinh tế-xã hội, dịch vụ việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà

9


doanh nghiệp, v.v..) sinh ra đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường lao động. Vì

vậy, cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ;
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính, tuổi tác,
thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm việc v.v… Vì vậy,
mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ chuyên môn khác nhau của sức
lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao
động khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất.
Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh
vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả năng lao động được chuyển sang người mua
theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả ước tập thể. Quá trình trao đổi
được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động, lao động
thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có
nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương
tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu
thông hàng hóa vật chất. Từ đặc điểm nói trên đưa đến 2 kết quả: thứ nhất, thị trường lao
động liên kết xung quanh mình các thị trường khác nhau; thứ hai, tiền công lao động thực
tế được thực hiện tương ứng với kết quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm mà lao
động đó làm ra. Điểm này đặt cầu sức lao động phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương, mà
còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc, tương lai công việc và
triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập thể và quan hệ
giữa người lao động với người thuê lao động v.v….
1.3.3. Thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập
Hình thành thị trường lao động ở Việt Nam không thể diễn ra trong chốc lát, bởi vì
chúng ta đang chuyển đổi từ hệ thống tổ chức lao động tập trung sang thị trường, do vậy
phải cần một thời gian dài để tạo lập những bản tính của nền kinh tế thị trường tổng hợp.
Xây dựng thị trường lao động tự do là yếu tố quan trọng nhất cho việc chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều kiện để tăng trưởng có hiệu quả của nền kinh tế
đó. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam mới chỉ đạt được những bước đi ban đầu trên

con đường giải phóng khỏi những tồn đọng từ hệ thống kinh tế mệnh lệnh hành chính trước
đây.
10


Theo chúng tôi thì ở Việt Nam quan điểm có tính nguyên tắc của chính sách phát
triến thị trường lao động là phải giữ nguyên sự duy trì đầy đủ vai trò lớn lao của Nhà nước
đối với nhân dân trong vấn đề điều tiết việc làm. Tuy nhiên, điều tiết của Nhà nước không
phải là sử dụng để trấn áp cơ chế tự điều chỉnh của thị trường. Điểm khác biệt của nền kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa là định hướng vào việc làm có hiệu suất cao dựa trên cơ sở
tổng hợp những kết quả của nền kinh tế và xã hội. Trong nền kinh tế đó, việc đầu tư lớn
vào con người được thực sự quan tâm để đảm bảo phát huy hết tài năng của họ và hướng
tới một cuộc sống đầy đủ, ấm no và hạnh phúc. Đảm bảo việc làm có hiệu suất cao chỉ có
thể đạt được trên cơ sở kết hợp chặt chẽ những hoạt động tích cực của các cơ quan quản lý
nhà nước với sự tự điều tiết của thị trường. Điều kiện quan trọng nhất của việc thực hiện
chính sách này là phải tuân theo hàng loạt những nguyên tác như: phát triển đa dạng các
loại hình sở hữu và hoạt động kinh doanh với mục đích mở rộng những khả năng lựa chọn
các hnh vực bổ sung lao động; không được phép cưỡng bức lao động và bất kỳ hình thức
phân biệt đối xử nào - theo giới, độ tuổi, dân tộc v.v… ; tự do pháp lý và kinh tế đối với
người lao động và người thuê lao động khi thuê mướn và sa thải; tự do di chuyển lao động
và vốn; phát triển hệ thống điều tiết các quan hệ lao động, đặc biệt khi giải quyết những
tranh chấp lao động tập thể và cá nhân. Kết hợp những nguyên tắc này có nghĩa là chuyển
sang một mô hình việc làm mới dựa trên cơ sở tổng hợp những nguyên tắc điều tiết của thị
trường và sự tham gia tích cực của Nhà nước trong việc ấn định những nguyên tắc hoạt
động cho thị trường lao động, trong đó có lĩnh vực tư doanh. Chính sách việc làm phải đưa
vào và phối hợp chặt chẽ với quan niệm chung của cải cách kinh tế, phù hợp với những
nguyên tắc chùng và chiến lược thực hiện nó.
Tuy nhiên, sự liên kết phối hợp cần thiết giữa chính sách việc làm đã được chọn cho
mô hình thị trường lao động với khái niệm đổi mới toàn diện ở Việt Nam đến nay vẫn chưa
được hình thành, thiếu hẳn quan điểm thống nhất giữa mục đích trước mắt và lâu dài trong

việc quản lý các quá trình giải quyết việc làm. Trong tiến trình cải cách đồng bộ nền kinh
tế phải hình thành không chậm chạp khái niệm đó, nhưng đáng tiếc rằng, hiện tại chúng ta
môi chỉ quan tâm đến hậu quả, chứ không phải nguyên nhân xuất hiện thất nghiệp. ở nước
ta vấn đề thất nghiệp chỉ được xem xét từ một phía - đó là từ người lao động. Trong khi đó,
ở các nước phát triển, dịch vụ việc làm được trang trải tài chính tới hơn 50% từ ngân quỹ
quốc gia: Theo qui định của Bộ luật Lao động Việt Nam, tất cả các xí nghiệp, công sở,
công ty không phân biệt loại hình sở hữu đều phải chuyển vào nguồn vốn bảo hiểm xã hội
một tỷ lệ phần trăm xác định được trích từ Quỹ lương hưu (20% trong đó: người thuê lao
động 15%, người lao động 5%). Nhưng, trong thực tế vấn đề thực hiện luôn luôn không kịp
thời hoặc là hoàn toàn không được thực hiện, và mục đích sử dụng các nguồn vốn này

11


cũng không rõ ràng. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam vẫn còn áp dụng
những biện pháp hành chính cứng nhắc trong hnh vực giải quyết việc làm. Chính sách này
phần lớn cản trở việc thực hiện cải cách cấu trúc nền kinh tế kìm hãm công cuộc sắp xếp
lại các xí nghiệp nhà nước, gây nhiều khó khăn cho việc hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Thực trạng này cần phải xoá bỏ triệt để khi vận dụng những chính sách cải cách kinh tế của
Nhà nước trong tương lai và lựa chọn những giải pháp tối ưu để công việc thực hiện có
hiệu quả.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý lao động và việc làm của Việt Nam vẫn chưa được
chuẩn bị chu đáo cả về mặt tổ chức và mặt kinh tế để thích ứng năng động với việc đào tạo
lại số lượng lớn những người đang lao động, cùng những người thất nghiệp thuộc các
ngành nghề và trình độ chuyên môn khác nhau có tính toán tới những đòi hỏi ngày càng đa
dạng của người thuê lao động đối với lao động làm thuê. Mất cân đối của thị trường lao
động khu vực sẽ kéo theo việc giảm khối lượng đào tạo chuyên gia và công nhân lành
nghề, giảm cả khối lượng và chất lượng đào tạo công nhân trực tiếp sản xuất. Từ đó sẽ dẫn
tới mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu, sẽ đi kèm với thất nghiệp thường xuyên.
Khi đó tăng việc chuyển khoản của các xí nghiệp vào nguồn vốn bảo hiểm xã hội sẽ không

đem lại hiệu quả cho vấn đề đào tạo lại bởi vì nguồn vốn này thậm chí sẽ không đủ chi trả
trợ cấp. Việc định hướng vào sự giúp đỡ tài chính của các tổ chức thế giới sẽ đ ặt công cuộc
cải cách kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào các hợp đồng kinh tế đối ngoại, điều đó rất nguy
hiểm trong tình thế hiện nay. Sự thiếu hụt ngân quỹ của Việt Nam lại càng làm khó khăn
thêm việc áp dụng những biện pháp cần thiết để hỗ trợ cho người thất nghiệp (như: trợ cấp
thất nghiệp, phát triển các trung tâm đào tạo lại, những công việc xã hội và việc làm phụ
cho một nhóm dân cư). Tiềm năng của các cơ quan quản lý lao động và việc làm trong lĩnh
vực cung ứng sản xuất, kỹ thuật, tổ chức hiệu quả việc làm cho dân cư, mở rộng khả năng
cấp phép cho các trung tâm giới thiệu việc làm ở nước ta hiện nay còn bị giới hạn rất
nhiều.
Chính sách giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động không phải công
việc của riêng một bộ, một ngành, nó chỉ đem lại hiệu quả khi những chính sách ngân quỹ,
chương trình chống lạm phát và hệ thống giáo dục, đào tạo cùng đồng bộ hoạt động có
hiệu quả toàn xã hội và từng thành viên của cộng đồng phải cùng tham gia vào giải quyết
việc làm. ở đây bao gồm Nhà nước mà đại diện là các cơ quan chính quyền hành pháp và
lập pháp, từng cá nhân có mong muốn được đào tạo nghề nghiệp và chính bản thân người
thuê mướn lao động. Quá trình cải cách kinh tế xã hội sẽ không thể thực hiện có hiệu quả
nếu thiếu việc soạn thảo những chính sách đồng bộ về lao động và việc thực hiện nó, trên
cơ sở thể hiện quyền lợi chính đáng của nhân dân. Tuy nhiên, cùng với việc tăng khối
12


lượng và sự phức tạp những công việc cần giải quyết, tất cả những bất cập giữa hiệu quả
lao động và sự đảm bảo việc làm ngày càng trở lên rõ ràng và bức xúc, và cũng là động lực
thúc đẩy sự quan tâm tới hiệu quả công việc và những đảm bảo xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam, có
thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Hệ thống quản lý lao động và việc làm ở Việt Nam được hình thành trong thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đang ớ trong giai đoạn biến đổi sâu sắc;
- Bộ luật Lao động và các văn bản pháp lý khác thể hiện vai trò can thiệp tích cực

của Nhà nước để đảm bảo cho việc phối hợp hoạt động của các loại thị trường nói chung
và hiệu quả hoạt động của thị trường lao động nói riêng chưa được hoàn thiện hoặc hoàn
toàn chưa có. Cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng của thị trường lao động đang được
hình thành ở Việt Nam vẫn chưa tương thích với cơ chế thị trường. Thị trường lao động
vừa mới được hình thành và đang hoạt động trong điều kiện kém phát triển của thể chế
điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới vừa được sinh ra, và đến giờ vẫn chưa được
bao trùm hết tất cả các cấp;
- Những bất cập ngày càng lớn giữa qui mô chung và cấu trúc “cung-cầu” sức lao
động trên thị trường lao động. Hiện nay ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá
cầu và sẽ còn tiếp tục vượt trong tương lai, điều đó tạo ra một áp lực rất lớn về việc làm
cho dân cư. Hàng năm cung sức lao động tăng từ 3,2% đến 3,5%, như vậy mỗi năm chúng
ta sẽ có thêm khoảng 1,3 đến 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Đó là hậu quả của việc
bùng nổ dân số trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, phần cơ bản của lực lượng lao động
mới lại không có chuyên môn đầy đủ, vì vậy vấn đề đào tạo và đào tạo lại trở lên rất cấp
bách, nó mang tính chiến lược và là vấn đề mấu chốt để tăng chất lượng và khả năng cạnh
tranh của sức lao động trên thị trường lao động;
- Xoá bỏ sự mất cân đối, bất cập trong cơ cấu lao động cũ đã tồn tại từ nền kinh tế
bao cấp xây dựng một cấu trúc lao động mới cho phù hợp với cơ cấu nền kinh tế mới diễn
ra rất chậm chạp. Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng gay gắt khi chúng ta triệt
để tiến hành cải cách, cùng với việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế phải tổ chức lại lao động trên
phạm vi toàn xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền
kinh tế tất yếu dẫn đến hiện tượng và xu thế đẩy lao động tách ra khỏi việc làm, và làm cho
một bộ phận lớn lao động trở nên dư thừa, trước hết là trong khu vực quốc doanh. Trong
quá trình dịch chuyển này chúng ta vừa thiếu đội ngũ lao động có kỹ thuật, công nhân lành
nghề có khả năng làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao, các khu chế xuất và những xí
13


nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lại vừa thừa đội ngũ lao động phổ thông không có tay
nghề chuyên môn. Mặc dù cải cách nền kinh tế đã diễn ra gần 20 năm, Việt Nam đã có

những chuyển biến rất tích cực về cơ cấu kinh tế (tính theo GDP), nó cơ cấu lao động theo
.ngành kinh tế gần như không có chuyển biến gì đáng kể hoặc diễn ra rất chậm chạp. Bởi
vì, thứ nhất, Nhà nước chưa có một chiến lược và cơ cấu đầu tư có hiệu quả; thứ hai, sự
mất cân đối giữa các nguồn lực (khan hiếm về vốn, sử đụng và quản lý đất đai kém hiệu
quả, trình độ thấp kém của nguồn nhân lực...); thứ ba, chưa có định hướng phát triển công
nghiệp một cách hợp lý, đầu tư thiên về sử dụng nhiều vốn hơn là sử dụng nhiều lao động;
- Mâu thuẫn giữa nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn với trình độ tổ chức quản lý về
mặt nhà nước trong lĩnh vực việc làm chưa phù hợp với cơ chế mới, với hệ thống sự
nghiệp giải quyết việc làm còn phôi thai, non yếu chưa đáp ứng được yêu cầu về giải quyết
việc làm trong cơ chế thị trường;
Hệ thống định hướng nghề nghiệp, đào tạo và đào tạo lại không theo kịp với những
đòi hỏi mới của sự phát triển kinh tế xã hội, không tương thích với quá trình cải tổ khối
lượng và chất lượng chuyên gia đã đào tạo, đặc biệt đối với các ngành kinh tế như dịch vụ,
du lịch, sản xuất công nghệ cao, sản xuất hàng hóa xuất khẩu v.v. . . Theo đó, thị trường
lao động được hình thành trong bối cảnh bất lợi vì vẫn duy trì tính tự phát đào tạo công
nhân lành nghề và chuyên gia cho nền kinh tế quốc dân, lỏng lẻo trong việc ràng buộc khối
lượng và nghề nghiệp của người được đào tạo với cấu trúc cầu sức lao động, phối hợp
không ăn khớp công việc đào tạo với dịch vụ mối giới việc làm ở khu vực. Ngoài ra, vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề bất ổn và không phối hợp chặt chẽ ở nhiều khu vực lãnh thổ trong
các cấu trúc trợ giúp việc làm cho khu vực ngoài quốc doanh, và đã vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của chính quyền địa phương;
- Hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm (như các công ty nghiên cứu tâm lý, tư vấn,
giới thiệu, thông tin… ) chỉ mới được hình thành và phân bổ chưa rộng khắp cả nước. Hệ
thống này chưa có một cấu trúc tổ chức thành lập rõ ràng, chưa được đảm bảo trang bị vật
chất cần thiết và đội ngũ cán bộ không đồng bộ. Đặc biệt, cho đến nay ở Việt Nam chưa
hình thành một hệ thống thông tin về thị trường lao động một cách đầy đủ và đồng bộ,
được cập nhật theo thời gian và có các dự báo làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá các
đặc trưng và biến động của quan hệ cung-cầu sức lao động để phục vụ cho công tác kế
hoạch hóa đào tạo chung cho toàn bộ hệ thống cũng như từng cơ sở đào tạo) nhằm đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Tất cả những điều đó không

đáp ứng đầy đủ được cầu về sức lao động và về chỗ làm. Đối với Việt Nam, tính cơ động
của sức lao động theo nghề nghiệp và lãnh thổ còn rất hạn chế, phần lớn cư dân chưa sẵn
14


sàng cho cuộc sống và lao động trong điều kiện thị trường (người lao động chưa sẵn sàng
làm việc ở những chỗ bấp bênh, chưa chủ động tìm kiếm cho mình việc làm trong điều
kiện khan hiếm) ;
Cấu trúc nguồn nhân lực Việt Nam phân bổ rất bất hợp lý, có tới gần 80% lực lượng
lao động ở nông thôn, mà ở đây việc làm không đầy đủ và thất nghiệp có thể lên tới 30%.
Những lao động này tự do đi đến các thành phố và những khu công nghiệp mới với mục
đích tìm kiếm việc làm, điều đó còn làm tăng hơn nữa về cung sức lao động. Nông dân là
những người lao động không có chuyên môn, vì vậy phải luôn sẵn sàng chấp nhận những
việc làm có thu nhập thấp, do vậy lại càng làm tăng thêm sự cạnh tranh tiêu cực trên thị
trường lao động;
- Những bất cập trong chính sách và cấu trúc đầu tư, cùng với việc soạn thảo chiến
lược đổi mới công nghệ không đầy đủ, và sự chậm chạp dịch chuyển cấu trúc ngành kinh
tế trong nền kinh tế đang chuyển đổi đã kéo theo sư mất cân đối nghiêm trọng trong c ấu
trúc việc làm ở Việt Nam. Nhiều ngành (như công nghiệp rừng, đánh bắt hải sản, du lịch và
dịch vụ) có tiềm năng rất lớn trong việc tạo ra những chỗ làm việc mới, nhưng họ không
thể biến khả năng đó thành hiện thực được vì thiếu vốn, cơ sở hạ tầng yếu kém, kỹ thuật và
công nghệ lạc hậu v.v… Ngược lại, ở khu vực miền núi, đồng bằng sông Cửu Long lại rất
thiếu hụt cán bộ, nhưng việc di dân đến đó lại rất hạn chế. Đến nay Nhà nước vẫn chưa có
một chính sách khuyến khích thật hợp lý cho khu vực kinh tế gia đình, lĩnh vực phi sản
xuất, các xí nghiệp ngoài quốc doanh, nơi có rất nhiều lợi thế cho việc thu hút sức lao
động. Những chính sách hỗ trợ việc làm hầu như không đến được với các doanh nghiệp tư
nhân mặc dù họ là nguồn giải quyết việc làm mới chủ yếu trong xã hội, kể cả việc thu nhận
một đội ngũ lao động thất nghiệp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước;
- Cùng với quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động, các loại thị
trường khác như: tư liệu sản xuất, tài chính, bất động sản .v.v… cũng đã và đang hình

thành nhưng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, sự nên kết giữa chúng với nhau còn yếu, nên
chưa tạo ra được động lực để phát triển;
- Sự phân hóa thu nhập của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng giữa các vùng lãnh
thổ trên cả nước theo các chỉ số phát triển kinh tế xã hội;
- Nhìn chung mức tiền công lao động rất thấp, sự lạc hậu giữa đồng lương thực tế
của người lao động Việt Nam so với mức tiền công lao động ở các nước trong khu vực
ngày càng tăng. Mức lương trung bình hàng tháng của người lao động Việt Nam khoảng từ
25-35 USD (tức là gần 1USD/ngày), trong khi đó ở Inđônêxia khoảng 2 USD/ngày, Thái
15


Lan hơn 6 USD/ngày (chứ chưa so sánh với những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển cao). Điều đó ngay từ khởi đầu đã làm biến dạng những thành phần quan trọng nhất
của thị trường lao động là: cung và cầu. Hậu quả là giảm vai trò của cơ chế tự điều tiết,
được dựa vào những nguyên tắc giá trị hình thành tỷ lệ việc làm và cấu trúc chuyên môn
nghiệp vụ, điều chỉnh và phân bố lại sức lao động theo lĩnh vực hoạt động, ngành kinh tế,
luân chuyển cán bộ giữa các xí nghiệp và theo vùng lãnh thổ;
- Cuối cùng, Công đoàn Việt Nam, người đại diện hợp pháp cho quyền lợi của người
lao động, vẫn chưa phát huy hết khả năng của mình để thích ứng được với những nguyên
tắc hoạt động trong điều kiện thị trường. Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện được quá trình
hình thành nền tảng pháp lý và tổ chức cho việc bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp
trong nước, cũng như hoạt động tương hỗ của họ với guồng máy Nhà nước và Công đoàn.
Từ những đánh giá và kết luận trên đây chúng ta có thể nhận thấy rằng, thị trường
lao động đang được hình thành ở Việt Nam, hoạt động trong điều kiện kém phát triển của
thể chế điều tiết các quan hệ lao động xã hội chỉ mới vừa được sinh ra, và đến giờ vẫn chưa
được bao trùm hết tất cả các cấp. Đó là điều cực kỳ khó khăn khi soạn thảo những chính
sách đồng bộ và thống nhất trong các vấn đề hình thành giá cả, tiền lương, thu nhập, thuế
khoá phù hợp với việc tính toán quyền lợi cho các chủ thể khác nhau của thị trường lao
động, thực sự giảm vai trò của công cụ điều tiết và tự điều tiết khi hình thành cơ chế phân
chia và phân chia lại sức lao động dựa trên cơ sở những quan hệ giá trị.

1.4. Định hướng nghề nghiệp trong bối cảnh hội nhập
1.4.1. Chương trình và mục tiêu hướng nghiệp
1.4.1.1. Các văn bản của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo
* Văn bản của Chính phủ
Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng có ghi “Coi trọng công tác hướng
nghiệp (HN) và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên đi vào lao động
nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa
phương”.
Hướng nghiệp (HN) là một bộ phận quan trọng của giáo dục phổ thông ở nƣớc ta.
Điều này đã đƣợc khẳng định trong nhiều văn bản, nghị quyết của Đảng, Nhà nƣớc, ngành
giáo dục. Quyết định 126/CP của Chính phủ về “Công tác hƣớng nghiệp trong trƣờng phổ
thông và việc sử dụng hợp lý học sinh (HS) trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông
16


(THPT) tốt nghiệp ra trƣờng” kí ngày 19 tháng 3 năm 1981 chỉ rõ: “Công tác hƣớng
nghiệp trong nhà trƣờng phổ thông nhằm mục đích bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh
chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, đồng thời phù hợp với thể lực
và năng khiếu của cá nhân”. Như vậy, đòi hỏi HS phải hiểu rõ bản thân để chọn nghề
phù hợp với thể lực và năng khiếu của mình. Ngoài ra, HS đã phải có các hiểu biết về
nghề nghiệp và bƣớc đầu xác định đƣợc mục tiêu nghề nghiệp cho bản thân. Nghị định
75/2006/ NĐ-CP Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều Luật giáo dục: HN
trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trƣờng để giúp HS
có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn về nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp
nguyện vọng, sở trƣờng của cá nhân và nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.
Các văn bản khác như: Thông tư số 31-TT ngày 17 tháng 11 năm 1981 về việc
„Hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành theo
Quyết định số 16/ 2006/QĐ-BGDĐT 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, hoạt động
giáo dục hƣớng nghiệp đƣợc đƣa vào kế hoạch dạy học của các lớp 9, 10, 11 và 12 và các
quy định về nhiệm vụ năm học của Bộ GD&ĐT và Sở GD&ĐT đều có các hƣớng dẫn về

việc thực hiện công tác HN trong các trƣờng trung học.
Thực chất của công tác HN trong nhà trƣờng phổ thông không phải là sự quyết định
nghề cho mỗi cá nhân mà là sự điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp của thế hệ trẻ
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với nghề, giáo dục sự
lựa chọn nghề một cách có ý thức nhằm đảm bảo cho con ngƣời hạnh phúc trong lao động
và đạt năng suất lao động cao.
* Văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo
4.2. Giáo dục hướng nghiệp ở nước ta trong thời gian qua
GDHN ở nước ta đã được tiến hành nghiên cứu và triển khai khá sớm, từ đầu những
năm 80 của thế kỷ XX. Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Chính phủ đã tạo hành
lang pháp lý cho sự phát triển của công tác HN, nhất là HN cho học sinh PT.
Trong những năm 1983-1996 GDHN ở nước ta đã đạt được một số thành tựu quan
trọng, được coi là thời kỳ thịnh vượng nhất. Nhưng từ năm 1997 trở lại đây công tác GDHN
cho học sinh PT đã bị coi nhẹ, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nguồn nhân lực của đất
nước.
Trong những năm gần đây, Nghị quyết 40 của Quốc hội khoá 10; Chiến lược phát
triển GD giai đoạn 2001-2010, văn kiện đại hội IX, đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh việc
đổi mới chương trình và sách giáo khoa PT. Vấn đề dạy học công nghệ và GDHN đã được
nhiều trường chú trọng hơn, công tác GDHN cho học sinh PT vẫn chưa được các cấp quản
lý quan tâm đúng mức. Các cấp bộ Đảng, Chính quyền và xã hội chưa nhận thức được vị

17


trí và tầm quan trọng của công tác GDHN đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Học để đi
thi, học để “làm quan”, không thích làm thợ còn khá nặng nề trong nhân dân ta, đặc biệt là
trong học sinh và phụ huynh. Yếu tố tâm lý này có ảnh hưởng rất lớn đến sự định hướng
nghề nghiệp tương lai của học sinh sắp ra trường, làm cho chủ trương phân luồng học sinh
PT không thực hiện được. Có thể nói rằng, công tác HN cho học sinh PT ở nước ta còn yếu
kém, còn cách xa với các nước trong khu vực; chưa đáp ứng được nhiệm vụ chuẩn bị

nguồn lực cho công nghiệp hoá.

18


CHƯƠNG 2. THẾ GIỚI NGHỀ NGHIỆP – NHẬN THỨC BẢN THÂN
2.1. Nhận thức về thế giới nghề nghiệp
2.1.1. Khái niệm chung về nghề
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người
có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần
nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại kêu lên như vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm sáng
rõ 2 khái niệm Nghề và Chuyên môn.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người
có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần
nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất
hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị
vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim
ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã
hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên môn. Ở
Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở nước Mỹ, con số
đó lên tới 40.000.
2.1.2. Phân loại nghề
1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính
Trong lĩnh vực này, ta gặp những cán bộ, nhân viên văn phòng, đánh máy, lưu trữ,
kế toán, kiểm tra, chấm công, soạn thảo công văn… Những nghề này đòi hỏi con người
đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, chín chắn, tỉ mỉ. Mọi tác phong và thói quen
không hay như cẩu thả, bừa bãi, đại khái, thiếu ngăn nắp, thờ ơ, lãnh đạm… đều không

phù hợp với công việc hành chính.
2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người
Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo,
những người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải
có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi
mở…
Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi
v.v… đều xa lại với các công việc nói trên.
19


3/ Những nghề thợ (công nhân)
Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc
trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …),
trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong
lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái
tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ
thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không thể
thiếu được ở người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày
càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ,
Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ
xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).
4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật
Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực
sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận
hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công
nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ
còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.

5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc
trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết
trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động
văn học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà
viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn
phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng v.v… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với
họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống
có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người
làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực
tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.
6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế
giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học
phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách
quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic,
tích lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn,
20


trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.
7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên
Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt,
khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người
phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần
cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.
8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt
Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm,
du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề
này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc,

không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định
2.1.3. Họa đồ nghề nghiệp
2.1.3.1. Khái niệm
Hoạ đồ nghề là một bản mô tả khách quan những điểm quan trọng nhất của n ghề.
Trong đó bao gồm các nội dung chủ yếu của lao động: đối tượng lao động, mục đích lao
động, công cụ lao động, điều kiện lao động, các yêu cầu đối với nghề… Những đặc điểm
này được thể hiện một cách ngắn gọn, cô đọng, những chỉ tiêu về cấu trúc yêu cầu của
nghề, cấu trúc tâm lý của hoạt động nghề đã được khái quát hoá.
Hoạ đồ nghề vừa là căn cứ vừa là phương tiện để đối chiếu với năng lực của học
sinh trong quá trình tư vấn nghề nghiệp.
2.1.3.2. Ý nghĩa - mục đích - yêu cầu của hoạ đồ nghề
- Ý nghĩa, mục đích của họa đồ nghề
Mục đích sử dụng của hoạ đồ nghề rất rộng, với hình thức thông tin nghề, hoạ đồ
nghề cung cấp những đặc điểm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của nghề, tiền lương, triển
vọng của nghề… nhắm cung cấp cho học sinh những thông tin cần thiết về các nghề và
nhóm nghề.
Với lĩnh vực tư vấn nghề nghiệp, hoạ đồ nghề cung cấp những yêu cầu về phẩm
chất, năng lực cần thiết để cán bộ tư vấn nghề nghiệp đối chiếu với học sinh nhằm xác định
sự phù hợp nghề.
Với tuyển chọn nghề, hoạ đồ nghề cung cấp những thông tin để tuyển chọn người
học nghề về: trình độ văn hoá; yêu cầu về thể lực; về kỹ năng cơ bản; về năng lực nghề.
Hoạ đồ nghề cũng giúp ta những thông tin để tuyển chọn người lao động cho các
hoạt động nghề khác nhau, bao gồm các yếu tố:
- Yêu cầu về thể lực
- Yêu cầu về năng lực
- Thị trường lao động…
21


Hoạ đồ nghề còn là tài liệu hữu ích giúp cho giáo viên, các nhà giáo dục, phụ huynh

học sinh và học sinh muốn tìm hiểu về nghề nghiệp.
- Những yêu cầu đối với hoạ đồ nghề
Hoạ đồ nghề phải đảm bảo:
+ Dễ dàng đối chiếu, so sánh với những đặc điểm về phẩm chất, năng lực của người
có nhu cầu chọn nghề.
+ Tài liệu đầy đủ các thông tin cần thiết đối với việc lựa chọn nghề.
+ Tài liệu phải ngắn gọn, mang tính khắc hoạ. Hoạ đồ nghề không phải là một bài
giới thiệu về nghề, trình bày dài dòng tất cả các yếu tố có liên quan đến nghề như:
- Quá trình hình thành và phát triển nghề
- Những điều hấp dẫn, lý thú của nghề.
- Những chống chỉ định đối với người có ý muốn tham gia lao động trong nghề.
- Nội dung kỹ thuật, mô tả thiết bị
Những yếu tố trên sẽ được trình bày tỉ mỉ trong bản phân tích và mô tả của mỗi
nghề.
2.1.3.3. Phương pháp xây dựng hoạ đồ nghề
Để xây dựng được văn bản mô tả nghề, người ta thường sử dụng một số phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích tư liệu.
Bao gồm việc phân tích các văn bản, các công trình nghiên cứu, các chuyên khảo,
báo cáo khoa học, các bài báo, các biên bản, văn bản của các cơ sở sản xuất về: công nghệ,
vật tư, thời gian, về quản lý tổ chức, về y tế, an toàn lao động.
- Phương pháp chuyên gia:
Người biên soạn hoạ đồ sau khi nghiên cứu và đề xuất nội dung của hoạ đồ sẽ gửi
lại cho đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề trong cùng lĩnh vực để xin ý kiến nhận
xét, phản biện. Những người có thể xin ý kiến đóng góp cho 1 bản hoạ đồ nghề gồm: Các
cán bộ quản lý; Các chuyên gia về các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, kinh tế…; Các công
nhân, nhân viên trực tiếp lao động; Các đối tượng khác có liên quan đến nghề nghiệp và
chuyên môn đào tạo: khách hàng, người sử dụng, quản lý, các cơ quan pháp lý, y tế…
Hình thức thu thập ý kiến bằng phương pháp phỏng vấn sâu hoặc bằng bảng hỏi.
- Phương pháp quan sát quá trình làm việc.

Người nghiên cứu quan sát, ghi chép và nhận xét nhân viên làm việc theo một kết
hoạch đã dự kiến về các mặt; công cụ lao động, vật tư, giao tiếp, ứng xử. Ngoài việc thu
thập thông tin còn xác định được các yếu tố tâm lý, các phẩm chất do nghề đặt ra với người
lao động.

22


Đối với phương pháp này cần phải có những phương tiện kỹ thuật hiện đại để ghi
chép và đo đạc cẩn thận để mô tả chính sách các nội dung, yêu cầu của nghề...
Ngoài phương pháp quan sát tự nhiên nêu trên người ta còn tiến hành phương pháp
quan sát có chủ ý quá trình lao động sản xuất. Quan sát có chủ ý có hai hình thức:
Người làm việc (chuyên gia, người lao động) vừa làm việc vừa giải thích, vừa nhắc
các công việc, các công đoạn, thao tác ... cho người quan sát ghi chép.
Người quan sát tự nguyện tham gia vào hoạt động nghề nghiệp, qua đó tự học hỏi
về kỹ thuật và tự nghiên cứu, ghi chép. Phương pháp này tốn nhiều công sức, thời gian
nhưng kết quả đảm bảo độ tin cậy hơn các phương pháp nêu trên.
2.1.3.4. Nội dung và hình thức của một hoạ đồ nghề
- Bản mô tả nghề
Bản phân tích và mô tả nghề là tài liệu cơ bản để xây dựng các hoạ đồ nghề. Thông
thường, một bản phân tích và mô tả nghề gồm các nội dung sau:
1. Tên nghề (chuyên môn)
2. Loại nghề (căn cứ phân loại)
3. Kiểu quan hệ của nghề
4. Nhiệm vụ cụ thể của nghề
5. Chức năng của nghề
6. Sản phẩm của nghề
7. Đối tượng lao động của nghề: Nguyên vật liệu, con số hoặc con người...
8. Quy trình làm việc:
9. Phương tiện, thiết bị lao động: Thô sơ, hiện đại; đơn giản hay phức tạp...

10. Các mối quan hệ phối hợp trong lao động: Làm việc theo nhóm hay làm việc
độc lập...
11. Hình thức tổ chức lao động: Thủ công, bán cơ giới, cơ giới, tự động hoá...
12. Cường độ lao động: Khối lượng, định mức công việc phải đảm nhiệm; chỉ tiêu
về thời gian; nhịp độ, tốc độ phải thực hiện; những khó khăn cần vượt qua.
13. Đặc điểm về tính chất căng thẳng của công việc về các mặt thần kinh, tâm lý.
14. Những yêu cầu của nghề về các mặt xu hướng, sở thích, các phẩm chất, năng
lực, tính cách ... đối với người lao động để đảm bảo sự phù hợp và quá trình thích
ứng nghề được diễn ra thuận lợi.
15. Những yêu cầu về mặt sinh học: Sức khoẻ thể chất, kiểu hệ thần kinh, các quá
trình thần kinh...
16. Tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm lao động: Các quy định về chất lượng, số
lượng, thời gian...
17. Những sự cố, tai nạn có thể sảy ra trong khi làm việc.
23


18. Hoàn cảnh môi trường làm việc: Ngoài trời hay trong nhà, trên không hay
dưới biển... và các điều kiện vật lý khác.
19. Chế độ đãi ngộ, phúc lợi, lương, thưởng và các chế quy định trong lao động...
20. Điều kiện tuyển chọn
21. Những chống chỉ định về tâm, sinh lý, y học...
22. Những ràng buộc về mặt pháp lý, chuyên môn, phong tục tập quán...
23. Cơ sở tuyển dụng hoặc sử dụng nghề.
24. Những cơ hội phát triển nghề nghiệp
25. Các cơ sở đào tạo nghề: đại học, cao đẳng, trung cấp hoặc cơ sở gia đình...
26. Thông tin thị trường lao động đối với nghề
27. Khả năng chuyển đổi nghề
- Nội dung hoạ đồ nghề
Một bản hoạ đồ nghề bao gồm các nội dung cụ thể như sau:

1. Tên nghề và các chuyên môn
2. Đặc điểm hoạt động của nghề
+ Đối tượng lao động
+ Mục đích lao động của nghề
+ Công cụ lao động
+ Điều kiện lao động
3. Các yêu cầu đối với người làm nghề
+ Thể lực
+ Các phẩm chất tâm lý
+ Kiến thức, trình độ, kỹ năng
4. Những chống chỉ định cần thiết
5. Các cơ sở đào tạo nghề
6. Triển vọng nghề và mức thu nhập
7. Đơn vị tuyển dụng
2.2. Nhận thức bản thân
2.2.1. Tầm quan trọng của nhận thức bản thân
Nhận thức bản thân là điều quan trọng nhất trong cuộc hành trình đi tìm nghề
nghiệp của mỗi ngƣời. Khi đã hiểu rõ mình là ai, mình thích gì, mình giỏi gì, cá tính
mình ra sao, giá trị sống nào quan trọng đối với mình nhất, thì mỗi ngƣời sẽ vững bƣớc
trên con đƣờng nghề nghiệp để từ đó có thể đƣa ra câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi,
“Công việc hay nghề nghiệp nào phù hợp với tôi nhất?”
Lỗi thông thƣờng nhất trong quá trình tìm hiểu nghề nghiệp của học sinh là tìm hiểu
về thế giới nghề nghiệp trƣớc khi hiểu rõ bản thân. Hãy tƣởng tƣợng thế giới nghề nghiệp
24


×