Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Chi nhanh Chương Dương Hà Nôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.15 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, những biến động thị trường hàng hóa, thị trường tài chính thế giới
đã và đang ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới nền kinh tế đất nước trong mối quan
hệ thị trường thông qua hoạt động đầu tư, hoạt động thương mại dịch vụ giữa các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đặc biệt là các doanh ngiệp vừa và nhỏ với mơ
hình linh hoạt đã khai thác tối đa các nguồn lực về vốn, lao động, sự ưu đãi thuế
quan xuất nhập khẩu… để sản xuất các sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng phát triển, kim
ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng, các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu
hình thành ngày càng nhiều kéo theo các dịch vụ thanh toán quốc tế ở các ngân
hàng cũng phát triển mạnh. Hơn thế nữa, xu hướng của các ngân hàng hiện nay
đang hướng tới là gia tăng tỷ trọng doanh thu từ hoạt động dịch vụ nhằm phát triển
an toàn, bền vững và giảm thiểu rủi ro khi nền kinh tế có biến động. Bên cạnh đó
việc các ngân hàng 100% vốn nước ngồi được thành lập tại Việt Nam khiến sự
cạnh tranh giữa các ngân hàng nội và ngoại diễn ra quyết liệt, đòi hỏi các ngân hàng
thương mại trong nước buộc phải cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng mới tạo được lợi thế cạnh tranh để tồn tại và phát
triển mạnh. Như vậy, có thể nhận thấy rằng sự phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong hoạt động xuất nhập khẩu đã, đang và sẽ kéo theo nhu cầu, tạo điều kiện
phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với loại hình doanh nghiệp này ở các ngân
hàng thương mại tăng lên.
Đối với Ngân hàng TMCP Kỹ thương chi nhánh Chương Dương Hà Nội, bên
cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ, dịch vụ thanh tốn quốc tế đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng còn tồn tại những hạn chế. Cho nên việc
phát triển dịch vụ này tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam chi nhánh
Chương Dương Hà Nội là điều hết sức cần thiết, điều đó khơng những góp phần
phát triển hoạt động thanh tốn quốc tế tại Ngân hàng nói riêng và hệ thống các
ngân hàng thương mại nói chung mà cịn góp phấn thúc đầy hoạt động xuất nhập
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.Vì những lí do đó mà đề tài "Phát triển
dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng


TMCP Kỹ thương Việt Nam Chi nhanh Chương Dương Hà Nôi"đã được chọn.
Nội dung bài luận bao gồm :

1


Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tạo các Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng về sự phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi
nhánh Chương Dương Hà Nội
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán quốc
tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
chi nhánh Chương Dương Hà Nội

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN QUỐC TẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

2


1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ và nhu cầu thanh toán quốc tế
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân được thành lập để
sản xuất, cung ứng sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận đồng thời đáp ứng nhu cầu của xã hội. Về mặt từ ngữ, khái niệm
doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) gợi cho chúng ta tiêu chuẩn về quy mơ, kích
cỡ…Có một điều phải thừa nhận rằng trên thực tế khó có thể có một định nghĩa
mang tính phổ qt với lý do là mơi trường kinh doanh của các DNVVN thường

không đồng nhất và không ổn định, các tiêu chí được áp dụng khác nhau tùy theo
các văn bản pháp quy liên quan đến chính sách hỗ trợ các DNVVN.
Tuy nhiên, vẫn có thể chấp nhận cách phân loại truyền thống dựa vào các
tiêu chuẩn có thể định lượng được (doanh số, số nhân cơng, vốn) cũng như các phân
loại khác dựa vào phân tích các đặc điểm liên quan đến doanh nghiệp như vấn đề sở
hữu, chiến lược, mục tiêu của nhà điều hành, cấu trúc tổ chức, quan hệ với thị
trường… để từ đó, có các khái niệm rõ hơn về DNVVN.Hơn nữa, việc xác định các
tiêu chí và định mức để đánh giá quy mơ của một DNNVV có sự khác biệt ở các
quốc gia trên thế giới. Ngay trong cùng một quốc gia, những tiêu chí này cũng có
thể được thay đổi theo thời gian vì sự phát triển của doanh nghiệp, đặc điểm nền
kinh tế hay tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia đó... Tuy nhiên, các tiêu chí phổ
biến nhất được nhiều quốc gia sử dụng là: số lượng lao động bình quân mà doanh
nghiệp sử dụng trong năm, tổng mức vốn đầu tư của doanh nghiệp, tổng doanh thu
hàng năm của doanh nghiệp.
Theo quan niệm của Ngân hàng Thế giới (WB), DNVVN là những DN có
quy mô nhỏ bé về phương diện vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN có thể chia
thành ba loại cũng căn cứ vào quy mơ, đó là DN siêu nhỏ, DN nhỏ và DN vừa.
Trong đó DN siêu nhỏ là DN có số lao động dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng lao
động từ 10 đến 50 người, còn DN vừa có từ 50 đến 300 lao động. Trong khi đó,
theo khối EU, DNVVN là những DN có dưới 250 nhân công: từ 1-9 là siêu nhỏ, 1049 là nhỏ và 50-249 là vừa hoặc DNVVN là những DN có doanh số dưới 50 triệu
Euro hoặc tổng tài sản dưới 43 triệu Euro. Hay ở Nhật Bản, trong ngành sản xuất
chế tạo những DN có số lao động từ 100-300 người được coi là DNVVN. ( Phụ lục
“Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số quốc gia và khu vực”)

3


Như vậy, có thể thấy rằng, theo cách tiếp cận định lượng, đa số các nước đều
sử dụng tiêu chí số lao động bình quân để phân biệt DNVVN với DN lớn, chỉ khác
đôi chút về con số đưa ra vì cịn tùy thuộc vào trình độ phát triển cũng như chính

sách trợ giúp của mỗi quốc gia. Điều này là hợp lý hơn so với việc lựa chọn các tiêu
chí khác như doanh thu, vốn... là các chỉ tiêu có thể lượng hóa được bằng giá trị tiền
tệ. Các tiêu chí như doanh thu, vốn tuy rất quan trọng nhưng thường xuyên chịu sự
tác động bởi những biến đổi của thị trường, sự phát triển của nền kinh tế, tình trạng
lạm phát... nên thiếu sự ổn định trong việc phân loại doanh nghiệp. Điều này giải
thích tại sao tiêu chí số lao động bình qn được nhiều quốc gia lựa chọn, tiêu chí
này thường có tính ổn định lâu dài về mặt thời gian, lại thể hiện được phần nào tính
chất, đặc thù của ngành, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp đang tham gia.
Có thể khái quát như sau:" DNVVN là cơ sở kinh doanh đã đăng kí kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa tùy
theo quy mô tổng nguồn vốn ( hoặc tổng tài sản) hoặc số lao động bình quân năm".
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN có những đặc điểm riêng biệt so với DN lớn, đặc biệt là những đặc
điểm về tài chính gồm rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh.
1.1.2.1 Vấn đề sở hữu và thành lập
Các DNVVN được tạo lập khá dễ dàng, có thể quản lý theo quy mơ hộ gia
đình, hoặc quan hệ bạn bè. Đề thành lập một DNVVN chỉ cần một số vốn đầu tư
ban đầu không lớn, số lao động không nhiều nên việc tổ chức sản xuất cung ứng
dịch vụ , quản lý tương đối gọn nhẹ. Hình thức sở hữu ban đầu có thể có ảnh hướng
đến cách tổ chức và sự phát triển của DN. Chẳng hạn, các DNVVN mang tính cách
gia đình chắc chắn sẽ có phương cách tổ chức và quản lý khác với một công ty cổ
phần mà các cổ đơng góp vốn khơng nhất thiết là những người thân thuộc. Ngồi ra,
với số lao động khơng nhiều, nhà quản lý sẽ dễ tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của
người lao động, từ đó việc quản trị cơng việc diễn ra có hiệu quả hơn trong việc kết
hợp mục tiêu của doanh nghiệp và mục tiêu của cá nhân, dẫn đến hiệu quả trong
kinh doanh.
Hơn nữa, cùng với môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, các rào
cản tham gia vào thị trường hay rút lui khỏi thị trường đối với DNVVN là tương đối
thấp đã góp phần khuyến khích các cá nhân tham gia kinh doanh và thành lập doanh
nghiệp.

1.1.2.2 Mơ hình hoạt động

4


Các DNVVN có mơ hình hoạt động tương đối linh hoạt, đây chính là một ưu
điểm mơ hình của DNVVN. Ưu điểm này xuất phát từ chính khả năng, phạm vi và
lĩnh vực hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Theo đó với quy mơ vốn và lao
động có thể hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền kinh tế: từ
sản xuất, kinh doanh, chế biến, thương mại, dịch vụ, du lịch,… trong tất cả lĩnh vực
của nền kinh tế như: công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch… và
hoạt động cả ở khu vực thành thị cũng như nông thông miền núi, mà hoạt động của
các DNVVN rất năng động, linh hoạt phù hợp với nền kinh tế thị trường. Trong đó,
việc chuyển dịch, chuyển đổi cơ cấu sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường
luôn là lợi thế của DNVVN.
Tuy nhiên, các DNVVN thường chỉ quan tâm đến thị trường truyền thống và
những khách hàng thường xuyên của mình, không quan tâm đến việc củng cố và mở
rộng những thị trường mới. Hoạt động của DNVVN thiếu vững chắc, thiếu liên kết
và dễ bị tác động bởi những biến động vĩ mô: mặc dù với ưu thế linh hoạt, cơ cấu
ngành nghề đa dạng, đáp ứng được nhiều nhu cầu của thị trường nhưng do khả năng
tài chính hạn chế, DNVVN dễ bị tác động của môi trường vĩ mơ trên thị trường như
tình trạng suy thối, lạm phát, giá dầu mỏ tăng cao… trong nền kinh tế, dễ gây cho
các DNVVN rơi vào tình trạng bế tắc, thậm chí phá sản.
1.1.2.3 Về chiến lược/ mục tiêu tăng trưởng và phát triển
Nhiều nghiên cứu cho thấy các chiến lược thực thi của các nhà lãnh đạo các
DNVVN nhằm bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách giữ tính độc lập và tự chủ cho
doanh nghiệp. Ngay cả khi mục tiêu lợi nhuận cũng không hẳn giống nhau giữa các
DN lớn và các DNVVN. Các lý do có thể kể ra như sau: về mặt lợi nhuận, các DN
lớn quan tâm đến chiến lược dài hạn, trong khi các DNVVN quan tâm đến các
chính sách ngắn hạn hơn; mục tiêu của các chủ/lãnh đạo DNVVN không phải để gia

tăng giá trị DN mà là gia tăng giá trị tài sản và nhận các quyền lợi cá nhân của họ.
Hơn nữa, vì có sự hạn chế trong nguồn vốn,quy mơ sản xuất kinh doanh
không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều cùng với trình độ quản lý kinh doanh của
các chủ DNVVN còn yếu kém, thường dựa vào kinh nghiệm sống, sự từng trải
trong thương trường nên trong chiến lược phát triển dài hạn, DNVVN khó thu hút
được các nhà quản lý và lao động giỏi phục vụ cho công tác điều hành, quản lý.
1.1.2.4 Đặc điểm tài chính chuyên biệt của DNVVN
Các DNVVN có những đặc điểm tài chính tương đối khác biệt so với các DN
lớn như tính chất khó khăn trong việc tách biệt các nguồn lực tài chính của DN với
tài chính của cá nhân chủ sở hữu doanh nghiệp; các vấn đề về thừa kế, nối nghiệp

5


có thể làm cho các dự đốn về sự phát triển của DN trở nên khó khăn hơn.v.v., đặc
biệt là khối lượng rủi ro mà DNVVN có thể gặp phải.
 Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh có thể được định nghĩa như sự nhạy cảm của các hoạt động
DN trước những thay đổi đột ngột của môi trường, và sự thiếu khả năng của DN trong
việc cung ứng các sản phẩm có chi phí thấp hơn. Rủi ro kinh doanh mà DNVVN
thường gặp đó là rủi ro thương mại, rủi ro quản lý và rủi ro công nghệ/sản xuất.
Rủi ro thương mại liên quan đến những nhân tố có ảnh hưởng đến việc tăng
giảm doanh số của DN: quy mô của thị trường tiềm năng, khả năng đáp ứng chiến
lược cạnh tranh hiện tại và tương lai. Đối với các DNVVN, loai rủi ro này được bộc
lộ qua sự phụ thuộc mạnh vào một hay một số rất ít khách hàng, thiếu đa dạng hóa,
thiếu hiểu biết về nhu cầu của khách hàng v.v. Với các lý do trên, các DNVVN có
thể được tài trợ với một lãi suất cao hơn bới các chủ nợ do phần bù rủi ro cao hơn
(so với DN lớn) đã được đưa vào khi tính tốn lãi suất.
Rủi ro quản lý liên quan đến toàn bộ các hoạt động quản lý, do sự thiếu kiến
thức quản lý về quản lý nhân sự, không tổ chức quản lý và hoạch định tài chính DN,

do hệ thống tin học và kế toán yếu kém. Giới chủ và những người điều hành các
DNVVN do thường chuyên trách một cơng việc đặc biệt nào đó trong hoạt động
của DN nên ít quan tâm đến các lĩnh vực hoạt động khác. Điều nà cũng tạo theo lý
lẽ cho các chủ nợ khi cho rằng rủi ro của các DNVVN cao hơn của các DN lớn.
Rủi ro công nghệ/sản xuất có liên hệ đặc biệt đến cấu trúc sản xuất, nhân tố
xác định giá thành sản phẩm cũng như tính cạnh tranh của các sản phẩm đó. Rủi ro
cơng nghệ/sản xuất nói lên sự thiếu khả năng sản xuất ra sản phẩm với chi phí cạnh
tranh; thiếu khả năng áp dụng các cơng nghệ thích ứng; sự thiếu hiểu biết về sự tiến
triển của công nghệ và thiết bị sản xuất, thiếu các hoạt động nghiên cứu phát triển.
Loại rủi ro này có mức độ khác nhau giữa các DN, tùy theo lĩnh vực hoạt động và
các đặc điểm liên quan đến chủ/người điều hành DN.
 Rủi ro về tài chính
Thơng thường, các chủ nợ xác định rủi ro tài chính của một DN thơng qua
việc phân tích cấu trúc tài chính của nó, để nhận diện khả năng thực hiện các cam
kết cho các nghĩa vụ nợ trong tương lai. Khi phân tích các hồ sơ đề nghị vay vốn,
các định chế tài chính quan tâm đến bản chất và số lượng của các khoản nợ thể hiện
trên các tài liệu kế tốn, nhằm mục đích xác định mức độ mà họ có thể tài trợ bởi lẽ,
giữa khối lượng nợ của DN và rủi ro tài chính của DN có mối quan hệ với nhau.
Các DNVVN thường có nguồn vốn khơng lớn, khi sản xuất kinh doanh họ thường

6


phải thực hiện vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Khối lượng các khoản nợ tăng lên
cùng với rủi ro kinh doanh có thể xảy ra dẫn đến rủi ro tài chính là điều khơng thể
tránh khỏi. Rủi ro kinh doanh sẽ kéo theo sự tụt giảm của lợi nhuận, do đó DN rơi
vào tình trạng bất khả trong việc tơn trọng các cam kết đến hạn.
1.1.3 Vai trị của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bởi tính đặc trưng có mơ hình hoạt động linh hoạt, có khả năng thành lập dễ
dàng ở trên mọi lĩnh vực hoạt động cũng như mọi vùng nông thôn đến thành thị, ở

các thị trường ngách mà các DN lớn không để ý tới, cũng như việc dễ dàng chuyển
đổi sang ngành nghề khác, các DNVVN đã tạo ra một khối lượng công việc đáng kể
cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao
động. Các DNVVN có thể tham gia góp phần vào cơng việc đào tạo, nâng cao tay
nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lưc. Một bộ phận lớn lao động
trong nông nghiệp và số lao động bắt đầu tham gia vào thị trường việc làm có thể
được thu hút vào các DNVVN để thích ứng với nề nếp tác phong công nghiệp và
một số ngành dịch vụ liên quan.
Đối với sự phát triển kinh tế, các DNVVN đóng góp vào tăng trưởng của
tổng sản phẩm trong nước (GDP), đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà
nước thông qua các khoản thuế và huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã
hội nhằm đầu tư và phát triển kinh tế. Do mơ hình linh hoạt nên các DNVVN dễ
chuyển đổi và thay đổi định hướng kinh doanh đã giúp các DNVVN và DN lớn tạo
mối liên kết hiệu quả trong các chuỗi giá trị. Trong mối quan hệ với các DN lớn thì
các DNVVN cịn mang tính chất là một vệ tinh, ngành cơng nghiệp phụ trợ. Bên
cạnh đó, các DNVVN trong q trình ln chuyển hàng hóa, dịch vụ đã tạo ra sự
cân đối nền kinh tế giữa các vùng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động và phân công lao động giữa các vùng - địa phương. Sự phát triển của
DNVVN có thể thu hút ngày càng nhiều lao động ở nông thôn đồng thời một số
lượng lớn lao động bắt đầu tham gia vào thị trường việc làm, lực lượng lao động
này chủ yếu tập trung vào các ngành phi công nghiệp, công nghiệp và đã giúp
chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương, cơ cấu ngành, cơ cấu các thành phần kinh tế,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của quốc gia.
Một số vai trò khác của DNVVN: góp phần tạo mơi trường kinh doanh, tự do
cạnh tranh và giảm độc quyền, đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế; phát huy được
tiềm lực trong nước trong điều kiện nền kinh tế có xuất phát điểm với nguồn vốn
thấp, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, trình độ kỹ năng của lao động cịn yếu. Với
sự tạo lập dễ dàng, DNVVN có thể phát triển rộng rãi ở mọi vũng lãnh thổ và tạo ra

7



những sản phẩm phong phú, đa dạng đồng thời góp phần tích cực trong khâu phân
phối hàng hóa, đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của tồn xã hội và bình ổn giá cả giữa
các vùng và các địa phương. Ngoài ra, các DNVVN cũng góp phần giữ gìn và phát
triển các ngành nghề truyền thống, cụ thể là những DN được thành lập để duy trì
các đặc sản vùng miền…
1.1.4 Nhu cầu thanh toán quốc tế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tham gia vào nền kinh tế thị trường cũng đồng nghĩa với sự hội nhập kinh tế
quốc tế, sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc
gia dựa trên lợi thế, thế mạnh riêng của nước đó. Một khi hoạt động xuất nhập khẩu
phát triển sẽ kéo theo nhu cầu về thanh toán quốc tế của các DN ngày càng tăng,
đặc biệt đối với các DNVVN – chủ thể có vai trị ngày càng quan trọng trong sự
phát huy nội lực nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bởi sự hạn chế về vốn, về công
nghệ, rảo cản về khoảng cách địa lý, văn hóa giữa các nước cũng như thơng tin về
đối tác, uy tín của các bên tham gia sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện thanh tốn
giữa các bên, các DNVVN sẽ gặp rủi ro lớn nếu không tìm hiểu kỹ. Hơn nữa, đa số
các chủ DNVVN có trình độ quản lý thấp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản
thân cho nên sẽ gặp khó khăn trong việc xử lý các cơng việc mang tính chất phức
tạp, tính quốc tế từ khâu ký hợp đồng đến việc kết thúc hợp đồng, thanh tốn…gây
nên những sai sót trong thu tục, quy trình thanh tốn quốc tế, làm chậm tiến trình
trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Điều này, địi hỏi phải có một bên
tham gia giữ vai trò trung gian giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, giúp cho DN
giảm được những khó khăn trong thanh tốn quốc tế. Do đó, phát triển các dịch vụ
thanh toán quốc tế đối với DNVVN tại các NHTM là điều cần thiết.
1.2 Phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
các Ngân hàng thương mại
1.2.1 Đặc điểm của dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Dịch vụ thanh toán quốc tế đối với DNVVN cũng mang những đặc điểm
chung của thanh tốn quốc tế. Đó là:

 Thanh toán liên quan tới đồng tiền, địa điểm, phương thức và thời gian thanh
toán.
Khi tiến hành hoạt động TTQT, cần phải xác định 5 vấn đề quan trọng, đó là
đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và thời gian thanh toán. Lựa chọn
đồng tiền nào là một vấn đề quan trọng, vì khơng phải bất kỳ đồng tiền nào của
nước nào cũng có khả năng thục hiện TTQT, mà đồng tiền đó phải mạnh, được các
nước thừa nhận thực hiện trong hoạt động TTQT, tiếp đến lựa chọn đồng tiền nào

8


để phù hợp với nội dung cụ thể của hoạt động TTQT, nhằm mang lại hiệu quả
(thanh toán nhanh, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, đáp ứng được lợi ích của các
bên…). Do vậy, khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng, hay các dịch vụ, các
bên đàm phán thường thống nhất về loại ngại tệ được dùng trong giao dịch là đồng
tiền của nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hay nước thứ ba.
 Chịu ảnh hưởng của các chính sách về tỷ giá hối đối của NHNN và sự biến
động về tiền tệ
Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gặp nhiều rủi ro do sự biến động
của tiền tệ, sự bất ổn chính trị của một quốc gia, do sự khác biệt về luật pháp, cơ
chế chính sách, do vị trí địa lý của các bên tham gia cách nhau làm hạn chế việc tìm
hiểu khả năng thanh tốn của con nợ… Do vậy các nghiệp vụ đảm bảo, bảo lãnh
của ngân hàng, hoạt động tín dụng của các tổ chức tiền tệ, tài chính ra đời như là
một yếu tố khơng thể thiếu để hỗ trợ cho hoạt động TTQT.
 TTQT chịu ảnh hưởng của luật lệ và tập quán quốc tế
Ngoài những đặc điểm chung, TTQT đối với DNVVN cũng có một số đặc
điểm riêng khác với đối tượng của TTQT là doanh nghiệp lớn như : Đối tượng cung
cấp dịch vụ này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giao dịch TTQT đối với DNVVN
là các giao dịch có quy mơ nhỏ. Bởi chính vì các DNVVN thường ký các hợp đồng
ngoại thương có giá trị nhỏ; so với doanh nghiệp lớn, thì phí của dịch vụ này

thường khơng lớn cho một lần giao dịch vì giá trị hợp đồng xuất khẩu hay nhập
khẩu thường không cao; Thời gian thực hiện xong hợp đồng nhanh, do đó thì việc
thanh tốn cũng sẽ diễn ra sớm so với từ lúc thực hiện hợp đồng đến khi kết thúc;
Thủ tục và việc ký quỹ của doanh nghiệp cũng ít hơn, nhưng thường sẽ phải ký quỹ
100% giá trị hợp đồng ngoại thương. Do uy tín kinh doanh của các DNVVN cịn
hạn chế, các NHTM ít tin tưởng vào DNVVN.
1.2.2 Các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Dịch vụ thanh toán nhập khẩu
Đối với hoạt động nhập khẩu, các NHTM cung cấp dịch vụ tín dụng thư là
phổ biến. Tín dụng thư là cam kết thanh toán của Ngân hàng, đại diện cho nhà nhập
khẩu, sẽ thanh tốn cho hàng hóa và dịch vụ khi người hưởng lợi xuất trình bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định của Tín Dụng thư. Tín dụng thư
đảm bảo người mua chỉ thanh toán khi các chứng từ giao hàng được xuất trình phù
hợp với u cầu của tín dụng thư.

9


Dù doanh nghiệp sử dụng hình thức tín dụng chứng từ hay nhờ thu để thanh
tốn cho hàng hóa nhập khẩu, doanh nghiệp vẫn cần sự hỗ trợ tài chính từ ngân
hàng để thực hiện cam kết thanh toán của mình. Vì thế, tài trợ nhập khẩu cũng là
một sản phẩm dịch vụ phổ biến mà NHTM cung cấp cho các DN nhập khẩu.
1.2.2.2 Dịch vụ thanh toán xuất khẩu
Đối với hoạt động xuất khẩu, các NHTM có thể cung cấp các dịch vụ sau:
 Nhờ thu xuất khẩu: NHTM cung cấp dịch vụ này nhằm giảm thiểu chi phí
cho doanh nghiệp, trong đó có 2 loại hình nhờ thu: Nhờ thu trả ngay (D/P) - chứng
từ nhận hàng sẽ được ngân hàng giao cho nhà nhập khẩu khi nhà nhập khẩu đã thực
hiện thanh toán; Nhờ thu trả chậm (D/A) - chứng từ nhận hàng sẽ được ngân hàng
giao cho nhà nhập khẩu khi nhà nhập khẩu chấp nhận thanh tốn.

 Tín dụng thư: Ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ đa dạng về phương
thức thanh toán tín dụng chững từ sau:
- Xác nhận tín dụng thư: Với thư tín dụng xác nhận bởi Ngân hàng, doanh
nghiệp có thể được giảm thiểu rùi ro phát sinh tại quốc gia người nhập khẩu và an
tâm về những cam kết thanh tốn từ ngân hàng phát hành tín dụng thư.
- Thơng báo tín dụng thư: Ngân hang có thể kiểm tra tính chân thực của tín
dụng thư được mở cho doanh nghiệp hưởng, giúp DN tổ chức giao hàng nhanh
chóng khi ngân hàng thơng báo trước nội dung tín dụng thư cho DN bằng điện thoại
hay fax. DN cũng có thể đăng ký dịch vụ thơng báo điện tử của Ngân hàng để nhận
các bản sao điện tử của tất cả các tín dụng thư gửi qua hệ thống SWIFT và các
thông báo khác. Các dịch vụ này giúp nâng cao hiệu quả và tốc độ liên lạc.
- Dịch vụ lưu trữ tín dụng thư: với dịch vụ này, các tín dụng thư gốc được bảo
đảm cất giữ an toàn tại bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng tùy theo lựa chọn của
DN, giúp tiết kiệm không gian lưu trữ và đem đến sự an toàn cho DN.
- Các dịch vụ tài trợ xuất khẩu đa dạng của Ngân hàng giúp bù đắp sự thiếu hụt
nguồn vốn trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: tài trợ trước khi
giao hàng - Ngân hàng cung cấp các khoản vay nhằm hỗ trợ bổ sung nguồn vốn tiền
mặt trong khi DN hoàn tất các hợp đồng giao hàng; Tài trợ sau khi giao hàng Ngân hàng có thể chiết khấu các chứng từ sạch và trả cho DN giá trị đã được chiết
khấu của hóa đơn giao hàng.
- Ngồi ra, các NHTM có thể cung cấp các dịch vụ khác cho các DNVVN như
bảo tồn tín dụng - ngân hàng có thể bảo hiểm từ 90% đến 100% giá trị hóa đơn bán
hàng khi doanh nghiệp xuất khẩu hàng tới các quốc gia khác nhau; quản lý khoản

10


phải thu - Ngân hàng hỗ trợ những kiến thức quản lý thiết yếu để doanh nghiệp
quản lý công việc kinh doanh hiệu quả…
1.2.3 Vai trò của dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doah nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng thương mại

Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, các dịch vụ ngân hàng quốc tế của
NHTM cũng phát triển. Trong đó, dịch vụ TTQT ngày càng thể hiện vai trò quan
trngj, đặc biệt là vai trò của dịch vụ này đối với đối tượng là DNVVN trong bối
cảnh hội nhập và cạnh tranh quyết liệt.
Đối với khách hàng là DNVVN, vai trò trung gian của thanh tốn trong hoạt
động TTQT của các NHTM giúp q trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
được tiến hành nhanh chóng, chính xác, an tồn, tiện lời và tiết kiệm tối đa chi phí.
Trong qucs trình thực hiện thanh tốn, nếu khách hàng khơng có đủ khả năng tài
chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng thì ngân hàng sẽ chiết khấu bộ chứng từ. Qua
việc thực hiện thanh tốn, ngân hàng cịn có thể giám sát được tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp để có những tư vấn cho khách hàng và điều chỉnh chiến lược
khách hàng.
Đối với bản thân ngân hàng, có thể nói thanh tốn quốc tế đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ là một mảng đóng góp và hỗ trợ cho sự phát triển, khả năng bao
phủ thị trường của các NHTM. Điều đó được thể hiện ở những mặt sau:
- Dịch vụ TTQT đối với DNVVN giúp Ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa
dạng của DN về các dịch vụ tài chính có liên quan đến TTQT như phát triển dịch vụ
tín dụng xuất nhập khẩu.v.v. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng tăng doanh thu, nâng
cao uy tín cho ngân hàng và tạo dựng niềm tin cho khách hàng. Bởi khi khách hàng
càng nhiều thì doanh thu từ phí dịch vụ sẽ càng lớn, lợi nhuận của Ngân hàng tăng
lên. Đồng thời, TTQT không chỉ là một hoạt động đơn thuần mà còn là hoạt động
hỗ trợ cho sự phát triển các hoạt động khác của NHTM như tăng nguồn huy động
vốn từ việc ký quỹ, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh thanh toán, tài trợ thương mại…
- Hoạt động TTQT đối với DNVVN cũng làm tăng mối quan hệ đối ngoại của
ngân hàng, giúp ngân hàng thu hút được một số lượng lớn khách hàng là DNVVN.
Từ đó, khơng chỉ giúp ngân hàng mở rộng mạng lưới ngân hàng, quy mơ hoạt động
mà cịn là một ưu thế tạo nên sức cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường.
- Với sự phát triển của dịch vụ này, tạo điều kiện hiện đại hóa cơng nghệ ngân
hàng. Các ngân hàng sẽ áp dụng công nghệ tiên tiến để hoạt động TTQT được thực
hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở rộng

quy mô và mạng lưới ngân hàng.

11


- Hoạt động TTQT đối với DNVVN cũng làm tăng cường khả năng cạnh tranh
và nâng cao úy tín của Ngân hàng trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác
nguồn tài trợ của các Ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính
quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng.
1.2.4 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các Ngân hàng thương mại
Có nhiều tiêu chí để đánh giá phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với
DNVVN của các NHTM. Có thể sử dụng tiêu chí đánh giá tài chính tức là thơng
qua các chỉ tiêu về doanh số, lợi nhuận, chi phí, rủi ro… để đưa ra một nhận định là
hoạt động đó có phát triển hay khơng, phát triển có đều và ổn định hay khơng hoặc
có thể phản ánh phần nào sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng, sự bao phủ thị
trường của ngân hàng. Ngoải ra, người ta cũng có thể đánh giá sự phát triển thơng
qua tiêu chí đánh giá phi tài chính như sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ, thời gian
thanh toán…Các chỉ tiêu này đều góp phần phản ánh sự phát triển của dịch vụ trên
một cách khá toàn diện tới mức độ đến đâu.
1.2.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá tài chính
Các chỉ tiêu doanh thu và tỷ trọng:

Doanh thu TTQT
Tỷ lệ Doanh thu TTQT so tổng TNNH =

x 100
Tổng thu nhập

Chỉ tiêu này sẽ cho ta biết trong tổng thu nhập của ngân hàng thì doanh

thu do hoạt động TTQT chiếm bao nhiêu phần trăm.
Doanh thu TTQT
Tỷ lệ Dthu TTQT so với DThuDV =

x 100
Doanh thu dịch vụ

Chỉ tiêu này sẽ cho ta biết trong tổng doanh thu về dịch vụ của ngân hàng thì
doanh thu do hoạt động TTQT chiếm bao nhiêu phần trăm.
Chỉ tiêu tăng trưởng về doanh thu từ dịch vụ TTQT đối với DNVVN. Bởi
Doanh thu là con số tương đối thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, Doanh thu từ hoạt động TTQT là số tiền thực tế mà ngân hàng thu được từ
hoạt động này, bằng tổng phí thu, bao gồm phí chuyển tiền, phí nhờ thu, phí mở L/

12


C,…. Chỉ tiêu này phản ánh phần nào sự phát triển của ngân hàng đối với dịch vụ
này qua từng thời kỳ từng giai đoạn.
Chỉ tiêu lợi nhuận ròng từ hoạt động TTQT
Lợi nhuận TTQT = Doanh thu TTQT – Chi phí TTQT
Chi phí là tất cả các loại phí mà ngân hàng phải bỏ ra để phục vụ phát triển hoạt
động này, bao gồm chi phí cho cán bộ cơng nhân viên, chi phí trang thiết bị,…Để
dịch vụ TTQT càng phát triển, lợi nhuận thu được tăng lên các ngân hàng thường
tìm cách cắt giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở áp dụng
công nghệ mới và nâng cao trình độ cán bộ làm công tác TTQT.
1.2.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính
Chất lượng dịch vụ thanh tốn quốc tế đối với DNVVN
Đây là một tiêu chí quan trọng phản ánh được sức cạnh tranh của ngân hàng
trong thời ký kinh tế thị trường, cũng như phản ánh sức cạnh tranh trong việc cung

cấp dịch vụ này tốt đến mức độ nào. Bởi vì bất cứ ai, bất cứ khách hàng doanh
nghiệp nào cũng muốn được sử dụng một dịch vụ có chất lượng tốt, phù hợp với
nhu cầu. Đặc biệt với dịch vụ thanh tốn quốc tế thì lại cần một dịch vụ có tính tiện
ích, nhanh chóng, chính xác, an toàn, đơn giản và dễ thực hiện. Sự cải tiến chất
lượng ở đây có thể được đo bằng:
Thời gian xử lý một hợp đồng (hay một giao dịch) TTQT cần phải nhanh,
tránh cho khách hàng sự chờ đợi khi tham gia giao dịch. Mặt khác dịch vụ TTQT là
một dịch vụ trung gian có liên quan đến khâu luân chuyển hàng hóa quốc tế nên
càng địi hỏi tính gấp rút về thời gian.
Tính chính xác trong khâu luân chuyển và xử lý hợp đồng nhằm tránh sự
tranh chấp, kiện tụng cho các bên liên quan. Nhất là khi trách nhiệm của NHTM
ngày một cao hơn trong mỗi phương thức TTQT lại càng đòi hỏi NHTM phải xử lý
hợp đồng, giao dịch một cách đúng đắn, rõ ràng và chính xác.
Phí dịch vụ cũng là một tiêu chí để đánh giá sự phát triển của dịch vụ TTQT
đối với DNVVN tại NHTM. Một mức phí phù hợp với từng đối tượng khách hàng
là một câu hỏi khó cho khơng ít các NHTM. Mức phí phù hợp phải nằm trong giới
hạn chi trả của khách hàng va phải mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Tính thuận tiện đem lại cho khách hàng có thể được đánh giá qua sự hài lịng
của khách hàng về chất lượng dịch vụ TTQT tại NHTM. Có thể hiểu chất lượng
dịch vụ bao hàm một sự so sánh giữa sự mong đợi và thực hiện. Đó là sự đo lường
phân phối dịch vụ phù hợp với nghĩa là thực hiện sự chuyển giao dịch vụ sao cho
phù hợp với sự mong đợi của khách hàng tốt đến mức nào. Phân phối dịch vụ có

13


nghĩa là sự thực hiện sự chuyển giao dịch vụ sao cho phù hợp với những mong đợi
của khách hàng trên một nền tảng tương thích với mức độ mong đợi. Sự hài lịng
của khách hàng có liên quan tới chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ cao, mức độ
thoả mãn đạt được sự mong đợi, khách hàng sẽ vui vẻ hài lòng. Ngược lại nếu chất

lượng dịch vụ thấp, mức độ thoả mãn thấp hơn giá trị mong đợi, sẽ làm khách hàng
thất vọng. Chính vì vậy, tính thuận tiện đem lại cho khách hàng là một tiêu chí đánh
giá quan trọng nhưng lại khó đo lường và chỉ ra cụ thể.
Sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế
Bởi các dịch vụ như kinh doanh ngoại tệ, quản trị rủi ro, tín dụng xuất nhập
khẩu, ký quỹ… có ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Như
sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là đề cập đến mối quan hệ lượng hóa
giữa doanh số TTQT và doanh số kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại
qua các mốc thời gian vì trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT, khi khách hàng
có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán tiền hàng NK thì NH sẽ tiến hành bán ngoại
tệ và sẽ tiến hành mua lại ngoại tệ đối với các khách hàng có nguồn ngoại tệ thu về
do XK hàng hóa. Khi nghiệp vụ thanh toán hàng XNK qua NH càng nhiều thì sẽ
càng tạo điều kiện cho NH phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, tăng doanh thu
dịch vụ và nâng cao hiệu quả kinh doanh của NH.
Sự gia tăng về số lượng DNVVN sử dụng dịch vụ này
Đây là chỉ tiêu phản ánh được sức hút của ngân hàng trong việc phát triển
dịch vụ thanh toán quốc tế đối với DNVVN. Và thể hiện được phần nào nhu cầu
này trên thị trường cũng như sự phát triển về xuất nhập khẩu trong giai đoạn, thời
kỳ đó.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
a. Chính sách kinh tế vĩ mơ của nhà nước
Chính sách kinh tế vĩ mơ của mỗi nước đề ra nhằm mục đích điều tiết, định
hướng phát triển nền kinh tế. Một số chính sách có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động Thanh toán quốc tế của các Ngân hàng thương mại như: Chính
sách kinh tế đối ngoại, Chính sách quản lý ngoại hối, Chính sách tỷ giá, Chính sách
thuế, Chính sách quản lý xuất nhập khẩu ….
Chính sách kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực rộng lớn bao gồm hoạt động ngoại thương,

đầu tư tài chính, dịch vụ quốc tế, chuyển giao công nghệ và nhiều hoạt động kinh tế

14


khác, trong đó ngoại thương là hoạt động trọng tâm. Thanh tốn quốc tế giữa các
DNVVN về bản chất chính là việc thanh toán những khoản nợ giữa các DN của các
quốc gia trong các quan hệ: kinh tế, văn hố, chính trị …Chính sách kinh tế đối
ngoại có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hoạt động ngoại thương.
Vì vậy, chính sách kinh tế đối ngoại là cơ sở và nền tảng có tác động trực tiếp đến
hoạt động thanh tốn quốc tế.
Chính sách ngoại hối
Chính sách ngoại hối là những quy định pháp lý, thể lệ của ngân hàng nhà
nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng bạc, đá quý và các giấy tờ có giá
trị bằng ngoại tệ trong quan hệ thanh tốn, tín dụng với nước ngồi. Là trung gian
tài chính, khi thực hiện hoạt động thanh tốn quốc tế. Ngân hàng thương mại đóng
vai trị kiểm sốt dịng tiền ra vào của một quốc gia. Vì vậy, các ngân hàng thương
mại được phép tham gia hoạt động thanh toán quốc tế phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định về quản lý ngoại hối do ngân hàng nhà nước ban hành. Chính sách ngoại
hối của nhà nước có tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và ảnh hưởng đến
khả năng cân đối ngoại tệ phục vụ cho thanh tốn quốc tế.
Chính sách thuế và quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu
Thanh toán quốc tế về bản chất là một dịch vụ do ngân hàng cung cấp để
thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh giữa các quốc gia. Nó là khâu trung gian
giúp hoạt động xuất nhập khẩu được diễn ra thuận lợi hơn.
Chính sách thuế và chính sách quản lý hàng xuất nhập khẩu có tác dụng
khuyến khích hoặc thu hẹp hoạt động xuất nhập khẩu. Chẳng hạn, khi Chính phủ
quyết định tăng thuế đầu vào đối với hàng nhập khẩu. Giá của hàng nhập khẩu trở
nên đắt hơn ở thị trường nội địa, làm giảm nhập khẩu và ngược lại. Tương tự, khi
Chính phủ quyết định tăng hoặc giảm thuế xuất khẩu có thể giúp mở rộng hay thu

hẹp hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, một chính sách thuế và quản lý hàng hố xuất nhập khẩu hợp lý sẽ
có tác dụng trực tiếp tới việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động xuất nhập khẩu của
các DNVVN tại một quốc gia và cũng là điều kiện gián tiếp để ngân hàng thương
mại mở rộng hoạt động thanh tốn quốc tế đối với loại hình DN này.
b. Sự phát triển của hoạt động ngoại thương
Như đã nói ở trên, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại
thương (xuất nhập khẩu) nói riêng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán
quốc tế của các ngân hàng thương mại. Hoạt động ngoại thương phát triển làm phát
sinh nhiều nhu cầu thực hiện nghĩa vụ tiền tệ của quốc gia này đối với quốc gia

15


khác. Khi hoạt động ngoại thương càng phát triển trên phạm vi toàn cầu cả về chiều
rộng và chiều sâu giữa các chủ thể khác nhau của các quốc gia khác nhau. Điều này,
càng làm tăng tính phức tạp của hoạt động ngoại thương, làm phát sinh những nhu
cầu đảm bảo an tồn, chính xác và hiệu quả trong thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ
giữa các chủ thể tham gia. Trong điều kiện tồn cầu hố hiện nay, các ngân hàng
thương mại là cầu nối thanh toán tham gia mạnh mẽ vào các quan hệ thương mại
giữa các DN trong nước với các tổ chức và cá nhân nước ngoài, giúp các nhà kinh
doanh xuất nhập khẩu đạt được các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, thực hiện được
yêu cầu của chính sách kinh tế đối ngoại.
c. Mơi trường pháp lý
Để hội nhập vào cộng đồng quốc tế, khung pháp lý của mỗi quốc gia cần
phải được bổ sung, hồn thiện theo hướng gần với thơng lệ quốc tế. Các văn bản
pháp luật liên quan đến thanh toán quốc tế được ban hành nhằm hướng dẫn và điều
chỉnh cho các hoạt động liên quan đến thanh toán quốc tế được thống nhất và diễn
ra thuận lợi giữa các chủ thể. Tuy nhiên hoạt động thanh tốn quốc tế có tính chất
phức tạp hơn so với thanh tốn trong nước, nó khơng chỉ chịu sự điều chỉnh của

pháp luật quốc gia mà còn chịu tác động của luật quốc tế và pháp luật của các quốc
gia khác có liên quan. Do vậy, nếu các văn bản pháp luật được ban hành chồng
chéo, mâu thuẫn với thông lệ quốc tế sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng thương
mại cũng như các chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế.
1.2.5.2 Nhân tố chủ quan
a. Việc tổ chức điều hành thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế của ngân
hàng thương mại
Điều hành hoạt động thanh toán quốc tế là việc chỉ đạo thực hiện tất cả các
hoạt động liên quan để thực hiện chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế
của ngân hàng. Để hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra thuận lợi, các ngân hàng
thương mại cần đưa ra được một quy trình thực hiện nghiệp vụ làm sao vừa tạo ra
sự thuận lợi cho khách hàng, dễ thực hiện đối với cán bộ thanh toán quốc tế nhưng
vẫn đảm bảo được độ an toàn cho ngân hàng. Việc tổ chức thực hiện tốt sẽ giúp
hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và an tồn đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng.
b. Mạng lưới thanh toán quốc tế
Mạng lưới thanh toán quốc tế là cách thức tổ chức các chi nhánh, các điểm
giao dịch thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế. Mạng lưới thanh toán quốc tế ảnh

16


hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách hàng, đối tượng khách hàng mà ngân hàng
hướng tới.
Mặc dù, việc tổ chức thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế của mỗi ngân
hàng là khác nhau song thường tập trung ở các thành phố lớn nơi có sự tập trung
đơng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và phát sinh nhiều nhu cầu thanh toán quốc
tế. Tuy nhiên đây cũng là nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng
thương mại trong thu hút khách hàng.
c. Nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại

Nguồn nhân lực của ngân hàng cũng là một trong những yếu tố quan trọng
trong phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng bởi con người chính là
yếu tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế. Thanh tốn quốc tế địi hỏi đội ngũ
cán bộ phải am hiểu về luật pháp, các thông lệ quốc tế, tập quán thương mại các
nước và có khả năng nắm bắt kịp thời các thay đổi trong thương mại, các sản phẩm
dịch vụ trong hoạt động thanh toán quốc tế.Nếu cán bộ nhân viên chưa thành thạo
nghiệp vụ sẽ làm chậm q trình thanh tốn và tạo ra những sai sót khơng mong
muốn ( qua đó gián tiếp tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng khi thực hiện hợp đồng ngoại thương tại ngân hàng ). Trình độ của đội ngũ
nhân viên thanh tốn có đồng bộ thì cơng tác thực hiện mới diễn ra nhanh chóng,
khơng bị gián đoạn và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Bên cạnh đó phong
cách của mỗi cán bộ nhân viên trong khi thực hiện các giao dịch cũng ảnh hưởng
khá lớn tới kết quả của hoạt động TTQT của mỗi ngân hàng.
d. Uy tín của Ngân hàng thương mại trong thanh tốn quốc tế
Uy tín của ngân hàng trong nước và trên thị trường quốc tế là tiêu chí tổng
hợp từ rất nhiều yếu tố: chất lượng dịch vụ, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, khả năng
thanh tốn …. Một ngân hàng có uy tín sẽ là điều kiện để khách hàng (hoặc bên đối
tác của họ) lựa chọn giao dịch. Nhờ đó, uy tín của khách hàng cũng được nâng lên,
độ rủi ro giảm, khách hàng cũng giảm được chi phí phát sinh từ việc giao dịch với
ngân hàng có uy tín không cao. Đây là điều kiện quan trọng để ngân hàng thu hút
thêm khách hàng và mở rộng thị phần thanh tốn quốc tế. Tuy nhiên, uy tín của mỗi
ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng trung ương của nó mà cịn do bản
thân mỗi chi nhánh của nó quyết định
1.3 Các điều kiện phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại
Kinh tế càng phát triển, càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thanh
toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại càng cần được xem xét, hoàn thiện và

17



phát triển để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia vào q trình thanh tốn,
đặc biệt là đối với các DNVVN. Tuy nhiên, việc mở rộng và phát triển các dịch vụ
thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại cần đáp ứng các điều kiện mới
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng.
1.3.1 Điều kiện về hoạch định chiến lược phát triển các dịch vụ thanh toán quốc
tế nói chung
Để ngân hàng hay bất cứ một tổ chức, một hoạt động kinh tế nào có thể tồn
tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiệu nay đều phải xây dựng
một chiến lược kinh doanh. Từ chiến lược kinh doanh đó, ngân hàng tiến hành
hoạch định các chiến lược cụ thể cho các hoạt động của ngân hàng, trong đó khơng
thể thiếu chiến lược cung ứng các dịch vụ thanh toán quốc tế. Việc xây dựng chiến
lược phát triển chung cho hoạt động của ngân hàng hay xây dựng chiến lược phát
triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với DNVVN phải được tiến hành theo các nội
dung sau:
Phân tích mơi trường kinh doanh
Bởi môi trường kinh doanh là nơi mà mọi hoạt động của ngân hàng trong đó
có hoạt động thanh tốn quốc tế tồn tại và phát triển. Sự thay đổi của mơi trường
kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại nói chung và hoạt động thanh tốn quốc tế nói riêng. Việc xây dựng
chiến lược kinh doanh địi hỏi phải có sự phân tích, nghiên cứu kỹ mơi trường kinh
doanh. Mơi trường kinh doanh bao gồm: thứ nhất, môi trường kinh tế bởi hoạt động
thanh tốn quốc tế khơng chỉ có các đối tác là các DNVVN trong nước mà còn có
các đối tác nước ngồi, vì thế, phải phân tích thực trạng và xu hướng phát triển của
kinh tế quốc tế và khu vực trong tương lai (thường là mười năm trở lên); thứ hai,
phân tích mơi trường pháp lý: bất cứ một hoạt động kinh tế nào cũng chịu sự điều
chỉnh của hệ thống luật pháp, đặc biệt hoạt động thanh tốn quốc tế của ngân hàng
cịn liên quan đến hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đối tác.
Vì vậy phải nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán
quốc tế của các ngân hàng thương mại.

Xác định vị thế của Ngân hàng. Việc xác định tiềm lực của ngân hàng phải
được đặt trong sự xem xét đánh giá với khả năng nội tại của chúng để tìm ra hướng
khai thác và phát triển. Do vậy nhiệm vụ quan trọng trong xác định tiềm lực của
ngân hàng là phải phân tích chính xác tình hình hiện tại về các yếu tố kinh doanh, từ
đó thấy được khả năng sử dụng và khai thác các yếu tố đó. Ngồi ra, để xác định
được vị thế của mình, ngân hàng còn phải biết được tiềm lực của các đối thủ cạnh

18


tranh. Phân tích được ưu nhược điểm của mỗi hoạt động của mình (trong đó có hoạt
động thanh tốn quốc tế) với hoạt động đó của các ngân hàng thương mại khác.
Xác định nhu cầu của thị trường Ngân hàng. Muốn xác định được thị phần
phù hợp với mục tiêu phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng, trước
hết ngân hàng cần hiểu rõ về thị trường, nhu cầu của thị trường. Đặc biệt đối với
khách hàng là các DNVVN, ngân hàng càng cần hiểu rõ, nắm bắt hơn về nhu cầu
thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu của họ để có thể đáp ứng kịp
thời, chính xác.
Xác định sản phẩm và dịch vụ thanh tốn quốc tế. Từ các bước phân tích ở
trên, Ngân hàng hồn tồn có thể đưa ra ý tưởng về sản phẩm và dịch vụ thanh toán
quốc tế mà ngân hàng hướng đến phục vụ. Tuy nhiên, việc xác định thị phần của
hoạt động thanh toán quốc tế phải đảm bảo sự cân đối với các hoạt động khác của
ngân hàng và nằm trong chiến lược phát triển chung của toàn ngân hàng. Hơn nữa,
việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ cũng cần dựa trên khả năng hiện có của đơn vị.
Quyết định chiến lược phát triển dịch vụ thanh tốn quốc tế
Thơng qua các phân tích ở trên, có thể cho phép các nhà lãnh đạo ngân hàng
đưa ra chiến lược phát triển cho dịch vụ thanh tốn quốc tế của mình. Trong chiến
lược này, cần chỉ ra được: Thị trường chủ yếu, các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu,
cách thức chính để thực hiện chiến lược phát triển đã đề ra. Tuy nhiên, trong quá
trình quyết định chiến lược phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế cần chú ý đến sự

phù hợp phát triển dịch vụ TTQT với sự phát triển hoạt động khác của Ngân hàng;
sự bảo mật thông tin về chiến lược phát triển: có nội dung cần cơng khai, có nội
dung cần bảo mật với mức độ khác nhau.
1.3.2 Điều kiện về trang bị công nghệ hiện đại
Công nghệ thông tin là một công cụ quan trọng trong quản lý, kinh doanh
bảo đảm an tồn và hiệu quả, thơng qua việc tập trung hoá tài khoản khách hàng,
kiểm soát tốt nguồn vốn, mở rộng và đa dạng hố các loại hình dịch vụ hiện đại.
Những đổi mới về công nghệ thông tin sẽ tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật thúc
đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung và dịch vụ thanh toán quốc tế của các
ngân hàng thương mại nói riêng trong q trình hội nhập khu vực và thế giới. Có
nhiều cách hiểu về cơng nghệ:
Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP):
Cơng nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật
liệu và thơng tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và hệ thống
dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ.

19


Hay một cách hiểu khác, công nghệ là tập hợp các quy trình, kỹ năng và bí
quyết, cơng cụ và phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
Như vậy công nghệ không phải chỉ là máy móc thiết bị, cũng khơng chỉ là hệ
thống máy tính hay hệ thống thanh tốn của ngân hàng, dù đó có thể là một phần
lớn trong cơng nghệ thực hiện dịch vụ của ngân hàng. Cơng nghệ ngồi phần kỹ
thuật còn bao gồm: phần con người (thể hiện ở kiến thức, kỹ năng sử dụng công
nghệ); phần tổ chức (sự kết hợp bố trí các thiết bị, kết hợp các cá nhân trong sử
dụng công nghệ để đạt được hiệu quả cao nhất).
Để trang bị khoa học công nghệ ngân hàng một cách có hiệu quả phải xuất
phát từ địi hỏi của thị trường và khả năng nội tại của ngân hàng trong việc đáp ứng
nhu cầu của thị trường. Như vậy, chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị to lớn của

khoa học kỹ thuật hiện đại trong hoạt động của ngân hàng nói chung và dịch vụ
thanh tốn quốc tế đối với DNVVN nói riêng. Song vấn đề trang bị khoa học và
công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Thị trường là tấm gương cho
ngân hàng soi rọi hoạt động của mình vào đó, nó cũng là định hướng cho ngân hàng
trang bị cơng nghệ thích ứng. Từ yêu cầu của thị trường ở hiện tại và trong tương
lai, nắm bắt các xu hướng phát triển của khoa học công nghệ kết hợp với khả năng
tài chính có ưu tiên của ngân hàng để lựa chọn trang bị công nghệ cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
1.3.3 Điều kiện về phát triển các sản phẩm và dịch vụ thanh tốn quốc tế thích
ứng được với thị trường, đặc biệt là phù hợp với nhu cầu của các DNVVN
Theo cách nhìn của cơng nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thì dịch vụ nói
chung hay dịch vụ thanh tốn quốc tế đối với DNVVN nói riêng là hàng hoá gắn
liền với mong muốn và nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, nó vừa mang
yếu tố vật chất: khối lượng, giá trị … vừa mang yếu tố phi vật chất: tiện lợi, thói
quen, sở thích, thị hiếu và tập quán tiêu dùng …. Theo đó, các sản phẩm và dịch vụ
ngân hàng vừa là cái đã có, đang có và tiếp tục phát sinh trong trạng thái biến đổi
khơng ngừng của sở thích, thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngày nay với sự phát triển năng động của nền kinh tế, sự phát triển không
ngừng của hoạt động kinh tế đối ngoại, nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ thanh toán
quốc tế của khách hàng, đặc biệt là các DNVVN ngày càng tăng. Đây là điều kiện
để các ngân hàng thương mại phát triển sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế của
mình. Song vấn đề đặt ra là phát triển dịch vụ đó theo hướng nào để các sản phẩm
và dịch vụ mà ngân hàng tạo ra nhận được sự đồng tình và ủng hộ của khách hàng.

20



×