Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

VAI TRÒ của GIÁO VIÊN TRONG CÔNG tác CHỦ NHIỆM lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.33 KB, 17 trang )

- HỌ VÀ TÊN: TÔ QUỐC CƯỜNG
- ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN TRUNG
- TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP”

1


Phần mở đầu
I. Bối cảnh chọn đề tài:
Trước bối cảnh nhiều tệ nạn xã hội đang xâm nhập và lang rộng trong học
đường như hiện nay cùng với sự xuống cấp về chữ viết của học sinh, nhất là học
sinh tiểu học. Theo đó, nhiều giáo viên trong đó có cả tôi luôn băn khoăn, trăn trở
không biết mình có thực hiện tốt vai trò chủ nhiệm của mình hay không? Làm cách
nào để thực hiện tốt vai trò này? Đó cũng là chuyện luôn được các cấp quản lý giáo
dục quan tâm hiện nay.
II. Lý do chọn đề tài:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây vì lợi ích trăm năm trồng người”. Câu nói
của Bác Hồ đã thấm nhuần vào mỗi giáo viên. Vì vậy mỗi người giáo viên, đặc biệt
là giáo viên chủ nhiệm tiểu học cần phải có nhận thức hết sức đúng đắn về vai trò
của người thầy trong lớp học. Đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp không chỉ
dạy các em về kiến thức, văn hoá mà còn dạy các em về nề nếp, cách sống, cách
làm người và làm chủ tương lai của đất nước.
Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức
vụ giáo viên chủ nhiệm lớp, nhận thức ấy chưa tương xứng với tầm quan trọng của
chức vụ này và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thời, … Ở đâu đó,
vẫn còn tồn tại giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã mắc phải những sai
lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút dép đánh học
trò trong lớp, cho cán bộ lớp dùng roi dâu đánh bạn học hàng giờ, bắt học trò liếm
ghế, quỳ gối trong lớp, phơi nắng, mỗi khi có học sinh không thuộc bài, hành xử
thô bạo với bạn bè, ngồi học không nghiêm túc hoặc thụ động không phát biểu.


Một vấn đề cũng đang cần được quam tâm và là đang được xem là một “căn bệnh”
ở giáo viên là hay lớn tiếng với học sinh sau buổi dự giờ. Nguyên nhân do các em
phát biểu không đúng hoặc làm bài sai, không đúng theo ý của giáo viên. Ngược
lại có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ, buông lỏng quản lý, thiếu trách
nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn dẫn đến
đạo đức và học lực xuống cấp một cách nghiêm trọng, đáng báo động. Nguyên
nhân do công tác chủ nhiệm chưa đạt được hiệu quả cao về xây dựng nề nếp, công
2


tác tổ chức lớp học và các hoạt động khác. Để giúp giáo viên khắc phục những
nhược điểm nêu trên, đưa lớp mình đi đúng vào quỹ đạo học tập có nề nếp và có
chất lượng tôi đã tiếp tục chọn, nghiên cứu và viết đề tài: “Vai trò của giáo viên
trong công tác chủ nhiệm lớp”.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học trường tôi
đang công tác.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh Lớp 22 của trường Tiểu học Tân Trung, năm học
2010 – 2011.
IV. Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng vai trò của giáo viên trong chủ nhiệm
để đề ra những giải pháp hợp lí nhằm giúp giáo viên có hướng đi đúng trong công
tác chủ nhiệm, rèn cho các em có những kĩ năng sống cơ bản góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện học sinh và ổn định nề nếp lớp, không còn học sinh
bỏ học cũng như hoàn thành chỉ tiêu chung của tổ chuyên môn, của trường.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Năm học 2011 – 2012 tôi áp dụng phương pháp chủ nhiệm như đã nêu trên cùng
với việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả cho học sinh thông qua các môn học cho thấy nề nếp học tập, phẩm chất đạo
đức, ý thức tiết kiệm, chất lượng học tập của học sinh lớp có tiến bộ rõ rệt so với

đầu năm học. Đặc biệt các em được trang bị một số kĩ năng sống cơ bản. Đây cũng
là một trong năm tiêu chí của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” mà nhà trường tiếp tục thực hiện trong năm học này.
- Cải thiện được chất lượng chữ viết của học sinh.

3


Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận:
Những năm gần đây nền giáo dục của nước ta có nhiều sự thay đổi và biến
động không ngừng, nhưng Đảng và nhà nước vẫn đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, đến vấn đề đảm bảo chất lượng dạy và học.
Việc nghiên cứu những căn cứ trên cho ta hình dung về một em học sinh là
thiếu niên, nhi đồng đang ngồi trên ghế trường tiểu học, đó là những học sinh đang
phát triển nhân cách, tình cảm, trí tuệ, để có những tri thức và kĩ năng cơ bản trong
giao tiếp. Để đi tới một nghiên cứu cụ thể, trước hết cần xác định công tác chủ
nhiệm lớp là vấn đề rất quan trọng. Đối với công tác chủ nhiệm lớp, người giáo
viên phải có tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là một trong
những yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của người giáo viên trong công
tác chủ nhiệm lớp. Song, với lứa tuổi học sinh lớp hai, sự nhận thức của các em
còn non trẻ, sự tư duy chưa đạt tới đỉnh cao, các em cần có người hướng dẫn chỉ
đạo cho các em đi vào nề nếp để các em dần trở thành người sống có ích trong xã
hội, đó chính là người giáo viên chủ nhiệm lớp.
II. Thực trạng của vấn đề:
1/ Thuận lợi:
Trong quá trình giáo dục luôn được các cấp quản lí, chính quyền địa phương
và các lực lượng xã hội quan, tâm tạo điều kiện giúp đỡ.
Được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo cấp trên, của Ban giám hiệu
nhà trường. Sự hỗ trợ của hội phụ huynh, của các đoàn thể.

Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ, bàn ghế,
phòng học thoáng mát, có đầy đủ ánh sáng, …
2/ Khó khăn:
- Trường tiểu học tôi đang công tác là một trường đóng trên địa bàn giáp 3
xã, có nhiều học sinh ở khá xa khu dân cư nên nhút nhát, thụ động, thiếu kĩ năng
giao tiếp nên vào lớp ít phát biểu. Ngược lại một số em ở gần khu chợ nên các em
rất hiếu động, học tập những ngôn từ không nên có ở một học sinh. Vào lớp các em
nói tục, chửi thề, hành xử thô bạo với bạn.
4


- Đa số học sinh có hoàn cảnh khó khăn, diện tích đất nông nghiệp ít nên cha
mẹ các em đều làm thuê hoặc làm ăn xa, gởi con cho người thân lớn tuổi nên các
em thiếu sự chăm sóc và giáo dục cẩn thận, dần dần cuộc sống các em thiếu nề
nếp, các em thiếu đi một số kĩ năng sống cơ bản.
- Có những hộ gia đình không có người thân nên khi đi làm ăn xa đem con
theo, buộc các em phải nghỉ học để theo gia đình.
- Đa số học sinh có chữ viết xấu. Một số âm có độ cao khác so với trước đây
nên cha mẹ các em gặp khó khăn trong việc hướng dẫn.
Qua những khó khăn trên, việc xây dựng cho học sinh những thói quen về
nề nếp học tập, sinh hoạt, có đạo đức tốt là điều thực sự cần thiết để nâng cao chất
lượng học sinh. Vì thế mà việc đưa ra những giải pháp nhằm giúp các em có nề
nếp trong học tập, sinh hoạt, có đạo đức tốt, ý thức tự giác trong học tập là điều rất
cần thiết.
III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:
Giáo viên tiểu học được coi là “Người thầy tổng thể”. Họ không những
phải giảng dạy tất cả các môn học mà còn phải làm công tác chủ nhiệm lớp.
Không giống như các bậc học khác, công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học đòi hỏi
người thầy rất nhiều đến nghệ thuật sư phạm: Vừa dạy vừa dỗ, nhưng dỗ có lẽ
nhiều hơn?

Theo đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi thì các em học sinh ở lứa tuổi tiểu học
chưa có khả năng tổ chức được các hoạt động cho mình, các em dễ chán đối với
những hoạt động nhiều thời gian.Vì vậy, rất cần đến vai trò tổ chức, hướng dẫn của
người lớn, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp. Thực tế cho thấy, muốn làm tốt
công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên cần quan tâm đến những việc làm cụ thể sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu học sinh
Bước vào đầu năm học, khi nền nếp lớp chưa được ổn định và còn lộn xộn,
hơn nữa các em chưa tự ý thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào
lớp, nội quy của nhà trường đề ra. Nên để ổn định và đi vào nền nếp quỹ đạo của
mình là rất khó và phải mất một thời gian dài mới ổn định được. Do vậy ngay từ
khi được Ban giám hiệu phân công cho dạy lớp hai, bản thân đã trực tiếp gặp giáo
5


viên chủ nhiệm lớp cũ để điều tra sơ khảo về tình hình mọi mặt để nắm mặt mạnh,
mặt yếu của lớp cũ, xem xét tình hình đạo đức và năng lực học của từng học sinh.
Về mặt đạo đức - hạnh kiểm: Bản thân đã điều tra học sinh trong lớp xem
em nào đã thực hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh, em nào chưa thực
hiện đầy đủ năm nhiệm vụ của người học sinh. Để có kế hoạch bồi dưỡng, giáo
dục cho các em.
Sơ khảo về tình hình học tập: Căn cứ vào tình hình của lớp dưới qua dự giờ,
thăm lớp và các bài thi, sổ điểm, khảo sát chất lượng đầu năm ... để biết thông tin
về học lực, danh hiệu thi đua. Sau khi đã biết được lực học, hạnh kiểm của từng
học sinh trong lớp sẽ giúp giáo viên có kế hoạch giáo dục và giảng dạy phù hợp
hơn. Ngoài ra còn điều tra thêm đội ngũ cán bộ lớp của lớp cũ có làm tốt nhiệm vụ
ở năm học vừa qua không? Quản lí nền nếp các bạn trong lớp tốt hay chưa tốt?
chưa tốt do nguyên nhân nào? Do sự chỉ đạo của cán sự lớp hay giáo viên chủ
nhiệm. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu nơi ở, hoàn cảnh kinh tế mỗi em, trình độ văn hoá
của phụ huynh. Bởi gia đình có văn hoá phản ánh được phần nào nền nếp sinh
hoạt, học tập, ngôn phong của các em. Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được điểm

mạnh, mặt hạn chế của từng học sinh từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp.
Trước tiên tôi tổ chức cho lớp bầu ra ban cán sự mới, ban cán sự phải là
người có học lực khá giỏi, đối xử hoà đồng với bạn bè, nhiệt tình trong công việc
được giao và phải được các bạn trong lớp tín nhiệm.
Đối với những học sinh nghèo, học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn thì luôn kết
hợp với nhà trường, Hội cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi
điều kiên giúp đỡ các em về mọi mặt như: tinh thần cũng như vật chất để các em
có đủ điều kiện học tập và không mặc cảm với các bạn. Có được môi trường học
thân thiện như thế thì học sinh mới học tập tích cực.
 Ví dụ: Vào đầu năm học, một số em không có sách để học thì tôi hướng
dẫn các em mượn sách ở thư viện để học hoặc viết danh sách đề nghị trợ cấp quà,
học bổng cho học sinh nghèo.
Ngoài ra tôi còn có kế hoạch phân loại học sinh ngay từ đầu năm học qua
việc khảo sát chất lượng đầu năm. Các em yếu về mặt nào, môn nào để còn kịp bồi
6


dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp. Đối với học sinh yếu kém thì phân ra
từng nhóm.
* Nhóm 1: Những học sinh yếu kém nhưng có thái độ học tập tích cực.
* Nhóm 2: Những học sinh có tư duy bình thường nhưng có thái độ học
tập chưa tốt.
Những em yếu kém chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi trên bàn đầu đồng
thời xếp một em khá giỏi ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em khá giỏi kèm bạn
yếu qua từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng thuận tiện cho
giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các
em qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy, nâng cao kiến thức bồi
dưỡng học sinh khá giỏi, học sinh có năng lực đặc biệt.
Trong giảng dạy, tôi phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy ra và
cách ứng xử với học sinh. Thực hiện công tác giáo dục toàn diện thông qua việc

kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, thường xuyên liên hệ trao đổi thông tin
hai chiều với phụ huynh hoặc đến nhà để trao đổi tình hình học tập của học sinh.
Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như: “Đôi bạn cùng
tiến”, ... Qua đó thường xuyên kiểm tra động viên khuyến khích các em bằng
phong trào: “Hoa điểm mười”.
Thực tế, công tác chủ nhiệm ở tiểu học rất quan trọng, nếu làm tốt, nó sẽ hỗ
trợ rất nhiều cho thầy cô trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh. Giáo viên tiểu
học thường có thời gian gần gũi các em rất nhiều, một số trường hợp thầy cô tiếp
xúc với học sinh còn nhiều hơn cha mẹ. Vì vậy, thầy cô chủ nhiệm không chỉ là
người dạy chữ mà còn dạy học sinh nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu
được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Làm tốt công tác chủ nhiệm giúp tôi ngăn
chặn được trẻ bỏ học, trẻ chán học, trẻ trầm uất vì gia đình, trẻ bỏ nhà đi hoang, trẻ
giải quyết bất đồng bằng bạo lực… đồng thời phát huy được những năng khiếu
tiềm ẩn ở các em, từ đó các em cũng thích đi học và thích học hơn. Để làm tốt
công tác chủ nhiệm, ngoài việc phải nắm được thông tin cá nhân từng em, tôi còn
lưu ý các trường hợp học sinh mồ côi, cha mẹ ly hôn, cha mẹ làm ăn xa (hoặc lý do
khác) phải ở với người thân, gia đình quá khó khăn về kinh tế, bản thân các em bị
7


bệnh mãn tính, bệnh phải điều trị dài hạn … Kế tiếp là các em được phụ huynh quá
cưng chiều, các em học yếu, các em thường nghịch phá chọc ghẹo bạn bè. Các
trường hợp này thường nảy sinh nhiều vấn đề trong năm học, bởi ở tuổi tiểu học,
trẻ rất nhạy cảm, hành động theo bản tính, dễ bi quan trước những điều không tốt
đẹp từ gia đình hay từ bạn bè trường lớp, … Từ những thông tin này, tôi thường
xuyên gần gũi trò chuyện tiếp xúc các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiện,
tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính
mình khi cần thiết. Qua đó, giúp tôi hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những
suy nghĩ nông cạn, sai lầm, các hành vi không hay, … hướng các em vào điều tốt
đẹp, lạc quan hơn.

Quan hệ mật thiết với phụ huynh học sinh cũng là điều hết sức quan trọng
trong công tác chủ nhiệm. Đừng đợi đến các kì họp phụ huynh hay khi các em vi
phạm nội quy trường lớp mới mời phụ huynh lên để trao đổi. Giáo viên có thể
thăm hỏi chuyện gia đình, trao đổi cách dạy dỗ con em khi có dịp gặp mặt nhau
như lúc phụ huynh đưa đón con em. Thầy cô cũng đừng để các cuộc họp phụ
huynh là lúc phê phán, chê bai việc học tập, hạnh kiểm của học sinh. Hãy làm cho
cuộc họp trở thành buổi trao đổi thân mật giữa người giáo dục trẻ em được đào tạo
bài bản ở trường sư phạm và những người giáo dục trẻ theo bản tính riêng, theo
vốn hiểu biết của bản thân. Cả hai bên đều học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cho nhau.
Làm được như thế, chắc chắn các thầy cô sẽ được sự tin yêu ở phụ huynh và họ sẵn
sàng hỗ trợ cho giáo viên trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt mà giáo viên đề
ra, cũng như dễ dàng cung cấp mọi thông tin về trẻ ở gia đình. Ngoài ra, công tác
chủ nhiệm còn phải làm cho lớp học đoàn kết, yêu thương nhau, luôn quan tâm gắn
bó với nhau. Để tạo được một lớp học như thế, tôi luôn tạo điều kiện cho học sinh
thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên trong lớp, chẳng hạn như cho các em tự
làm thiệp chúc mừng bạn trong lớp nhân ngày sinh nhật, bạn trai làm thiệp chúc
mừng bạn gái nhân ngày 8-3, thăm các bạn bị bệnh, viết nhật ký lớp (mỗi học sinh
viết 1 ngày, nêu tất cả những vui buồn của lớp trong ngày mà mình cảm nhận
được), động viên các em tham gia tất cả các phong trào của trường, của đội, nhất là
các phong trào đòi hỏi sự tham gia tập thể. Có thể nói để vừa phải đảm bảo tốt việc
8


truyền thụ kiến thức văn hóa ở nhiều môn học cho học sinh, vừa phải làm tốt công
tác chủ nhiệm, đó là việc không dễ dàng nhưng “Chính sự quan tâm, lòng yêu
thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng
của chúng” – theo John O’brien. Mong rằng các thầy cô giáo tiểu học đừng quên
điều đó.
Thứ hai: ổn định tổ chức lớp học
Dựa vào việc tìm hiểu kỹ từng em mà bố trí, sắp xếp cán bộ lớp, cán bộ Đội,

… theo năng lực từng em. Phân công nhóm, tổ học tập, tạo điều kiện thuận lợi để
học sinh trong lớp dễ dàng phối hợp với nhau trong học tập cũng như trong các
hoạt động khác.
Tôi nghĩ rằng muốn lớp mình có nề nếp tốt thì mỗi giáo viên chủ nhiệm phải
lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của tổ. Xây
dựng được nề nếp tự quản, bầu chọn được đội ngũ cán bộ lớp cốt cán của lớp gồm:
1 lớp trưởng, 2 lớp phó phụ trách từng mặt, lớp được chia làm 4 tổ, mỗi tổ bầu
chọn một em làm tổ trưởng, một em làm tổ phó. Sau khi bầu xong cán sự lớp, giáo
viên họp đội ngũ cán bộ lớp để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em,
đồng thời cho các em tự đăng kí các danh hiệu thi đua và biện pháp thực hiện từ đó
có phương hướng chỉ đạo để học sinh thực hiện tốt.
Những sự việc xảy ra trong lớp thuộc thẫm quyền giải quyết của ban cán bộ
lớp nên để ban cán bộ lớp giải quyết, giáo viên chỉ đóng vai trò là cố vấn tham
mưu cho các em. Qua đó tạo được đội ngũ cán bộ lớp vững mạnh có thể tự quản lí
tốt, các em được rèn kĩ năng tự giải quyết vấn đề.
Mỗi tổ có một quyển sổ theo dõi học tập và các mặt hoạt động của từng tổ
viên trong tổ. Cuối tuần các tổ trưởng tổng hợp báo cáo cho lớp trưởng, lớp trưởng
tổng hợp báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần.
Lớp trưởng nhận xét tình hình học tập trong tuần rồi đến giáo viên nhận xét chung
tình hình học tập của lớp: về ưu điểm và tồn tại. Sau đó nhận xét đánh giá tình hình
học tập cùng với nề nếp, tác phong, vệ sinh của từng em để các em tự rút kinh
nghiệm và khắc phục trong tuần tiếp theo. Ngoài ra còn đề xuất các em phải bầu
chọn cho được cá nhân xuất sắc đề nghị tuyên dương trong sinh hoạt dưới cờ đầu
9


tuần. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của lớp,
của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ nhiệm
lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo. Nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực nhưng phải mang

tính động viên. Vì học sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục phải
nhẹ nhàng, nghiêm túc, nghiêm khắc nhưng cởi mở gần gũi, độ lượng, luôn vị tha
đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối phải công bằng, không thiên vị,
không phê bình học sinh trước tập thể. Mỗi khi các em có lỗi tôi không trách phạt
bằng đòn roi hay lớn tiếng với các em mà bảo ban nhẹ nhàng, tạo cho các em có
một môi trường học tập thân thiện, gần gũi.
Trong giờ học tôi luôn tổ chức nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau, đặc biệt
thông qua hoạt động nhóm giúp các em nhút nhát sẽ mạnh dạn hơn và rèn được kĩ
năng hợp tác trong công việc.
Giờ sinh hoạt lớp là giờ học góp phần không nhỏ trong việc thành công ở
công tác chủ nhiệm của tôi. Đây là cơ hội để giáo viên lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng của các em cũng như các em được lắng nghe những lời giáo huấn hết sức
quý báu của giáo viên đã rút ra được sau một tuần lễ học tập.
Thứ ba: Xây dựng các nền nếp lớp học
Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nền nếp ngay từ đầu năm như truy bài
đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài tập về
nhà của các bạn trong tổ ... Vì nền nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một phần
lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học
giáo viên phải đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng nền nếp bằng cách: Cho
cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường
đề ra. Công việc xây dựng nền nếp lớp học là hết sức quan trọng, đòi hỏi rất nhiều
đến trí tuệ, nghệ thuật của giáo viên. Khi xây dựng nền nếp lớp học, giáo viên
không nên nóng vội mà phải kiên trì, tôn trọng, khuyến khích những cái học sinh
đã đạt được dù là nhỏ nhất. Xây dựng nền nếp phải được tiến hành ngay từ đầu
năm và phải thường xuyên nếu không thì khó hình thành được thói quen, nhất là
10


với học sinh đầu cấp.

Những nền nếp cần xây dựng trong lớp là:
+ Nền nếp học tập
+ Nền nếp chuẩn bị bài
+ Nền nếp truy bài đầu giờ
+ Nền nếp sinh hoạt Đội, Sao
+ Nền nếp tự quản trong sinh hoạt, tổ chức, ...
Khi nền nếp đã được học sinh ghi nhớ, các em sẽ tự giác trong các hoạt động học
tập cũng như vui chơi. Sẽ cần rất ít đến sức lực của giáo viên.
Thứ tư: Rèn chữ viết
- Đây là nhiệm vụ không kém phần quan trọng trước thực trạng chữ viết học sinh
đáng báo động như hiện nay ở tỉnh nhà. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi giáo
viên phải duy trì rèn chữ viết một cách thường xuyên trong tất cả các tiết học.
Trong họp tổ chuyên môn cần đưa ra bàn bạc, tìm biện pháp tốt nhất để rèn chữ
viết có hiệu quả. Sau mỗi tháng, giáo viên tổ chức cho các em thi viết chữ đẹp,
tuyên dương cá nhân có chữ viết tiến bộ. Để giúp các em luyện viết ở nhà, giáo
viên phô tô mẫu chữ viết theo Quyết định 31 của Bộ Giáo dục cho phụ huynh dễ
dàng hơn trong việc hướng dẫn các em. Rèn được một học sinh có chữ viết tiến
bộ là giáo viên đã giúp được học sinh đó rèn được tính kiên trì, nhẫn nại trong
công việc. Trước thực trạng bùng phát của công nghệ thông tin, người giáo viên
làm việc hầu hết dựa trên máy vi tính. Đó cũng là lúc chữ viết bị bỏ quên dần, họ
không còn chú tâm rèn chữ viết cho học sinh. Bên cạnh đó nhiều giáo viên chỉ lo
chạy đua theo chỉ tiêu, thành tích mà quên đi việc xậy dựng nền nếp học tập, làm
việc, giáo dục đạo đức của học sinh mà đó là những yếu tố hết sức cơ bản cấu
thành một con người mới mà xã hội đang cần. Trước thực trạng trên, tôi đã dựa
trên những giải pháp đã biết, tôi đã mạnh dạn xin đưa ra một số giải pháp khác
để giúp cho các em có một số kĩ năng sống cơ bản, giúp cải thiện chữ viết, đặc
biệt mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Muốn làm được tất cả điều đó,
giáo viên phải là người đi đầu, mẫu mực trong tất cả mọi vấn đề như Joubert đã
nói “Trẻ em cần sự mẫu mực hơn những lời răn đe”.
11



Yếu tố đem lại sự thành công của giải pháp trên còn là sự kết hợp một
cách nhuần nhuyễn giữa phương pháp, kĩ thuật dạy học và phương pháp giáo dục
tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiêu học.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2010 - 2011 lớp có 6 học sinh yếu.
Tôi đã áp dụng sáng kiến này tại lớp tôi chủ nhiệm đạt một số kết quả sau:
- Chỉ tiêu giao về XLGD:
XL
SĨ SỐ

30

G

K

TB

Y

8
26,7%

13
43,3%

7
23,3%


2
6,7%

- Chỉ tiêu giao về hạnh kiểm:

Xếp loại

Số lượng học sinh

Tỉ lệ %

THĐĐ 5 nhiệm vụ

28

93.3

THCĐĐ 5 nhiệm vụ

2

6,7

Tôi đã áp dụng sáng kiến này tại lớp tôi chủ nhiệm đạt một số kết quả cuối
năm học như sau:
- Học lực:
XL
SĨ SỐ


30

G

K

TB

Y

16
53.3

10
33.3

3
10.0

1
3.3

- Hạnh kiểm:
Xếp loại
Số lượng học sinh
THĐĐ 5 nhiệm vụ
30
THCĐĐ 5 nhiệm vụ
0


Tỉ lệ %
100
0

- Chữ viết:
Loại A

Đầu năm
3 HS

Cuối năm
9 HS
12


Loại B
Loại C

15 HS
12 HS

17 HS
4 HS

Như vậy học sinh khá, giỏi tăng so với chỉ tiêu, số học sinh yếu giảm, chữ
viết tiến bộ nhiều. Đặc biệt trong năm học vừa qua, các em vinh dự được Ban giám
hiệu nhà trường khen ngợi với thành tích “Lớp Nhi đồng chăm ngoan”.
Với kết quả trên, tôi nhận thấy sáng kiến này rất thành công nên tôi đang
tiếp tục áp dụng biện pháp giáo dục này vào lớp mình ở năm học 2011 – 2012. Nhờ
kết hợp với phụ huynh học sinh, tổng phụ trách đội, nhà trường để giáo dục, cuối

kì, các em đã tiến bộ hơn, ít nghỉ học, không có học sinh bỏ học và các em có cố
gắng hơn trong học tập.

13


Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm:
Muốn xây dựng một lớp có nề nếp tốt thì trước hết đòi hỏi người giáo viên
chủ nhiệm đặc biệt là giáo viên tiểu học phải có kiến thức vững chắc, phải có kỹ
năng sư phạm, phải biết giao tiếp, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để nhanh
chóng đi vào thế giới tâm hồn của trẻ thơ một cách dễ dàng. Vậy người giáo viên
phải thực sự yêu nghề mến trẻ, coi các em như chính con em của mình. Đồng thời
giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, thực sự là người cha,
người mẹ trong việc giáo dục, giáo dưỡng các em.
Không những thế mà giáo viên chủ nhiệm phải có kế hoạch cụ thể cho từng
tuần, từng tháng và cho cả năm học. Phải xây dựng đội ngũ cán sự cốt cán, rèn ý
thức tự quản tốt cho học sinh. Giáo viên cần phải nắm bắt được hoàn cảnh gia đình
của từng em và đặc điểm tâm sinh lý của từng em để có biện pháp giáo dục các em
tốt hơn, hướng các em đi vào nề nếp tốt. Luôn luôn gần gũi với học sinh, vừa là
thầy, vừa là cha mẹ, cũng có lúc phải đóng vai là bạn để lắng nghe tâm tư nguyện
vọng của các em. Ngoài ra còn phải kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, phối hợp với
các ban ngành đoàn thể trong nhà trường, địa phương, ... nhằm thắt chặt mối quan
hệ giữa gia đình với nhà trường và xã hội. Thực chất vai trò của giáo viên chủ
nhiệm cũng như người làm vườn, trồng cây, tuy không đúng hoàn toàn nhưng hoạt
động của giáo viên chủ nhiệm gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây
giống. Người làm vườn không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc tạo
điều kiện cho hạt giống nẩy mầm. Cho nên, bản thân tôi là một giáo viên chủ
nhiệm, tôi luôn tâm niệm dạy dỗ, giáo dục cho các em trở thành những con người
hữu ích cho xã hội để xứng đáng với những hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như

đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả
các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
- Sáng kiến kinh nghiệm trên giúp ổn định nề nếp lớp, tạo thành một
khối đoàn kết vững mạnh, đạt kết quả cao trong học tập.
- Tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của giáo viên về vai trò công
14


tác chủ nhiệm lớp. Từ đó giúp tôi hoàn thành được chỉ tiêu nhà trường giao.
III. Khả năng triển khai ứng dụng:
Sáng kiến trên đã áp dụng thành công ở lớp tôi và các giáo viên cùng khối
lớp. Nếu được công nhận, tôi xin đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường cho phổ
biến rộng rãi trong các tổ chuyên môn và hội đồng sư phạm nhà trường, từ đó sẽ
nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp của mỗi giáo viên.
Đề tài này có thể áp dụng cho tất cả các lớp ở tiểu học.
IV. Kiến nghị:
Đây là lần thứ 4 viết sáng kiến kinh nghiệm. Hơn nữa với tuổi đời, tuổi nghề
còn trẻ, nhưng tôi nghĩ đây lại là một điều hay với tôi khi tham gia viết sáng kiến
kinh nghiệm. Bởi lẽ qua đây sẽ giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong nghề
nghiệp. Vì thế, tôi đề nghị thư viện nhà trường cần tìm mua và bổ sung sách cũng
như những tài liệu có liên quan về hướng dẫn, bồi dưỡng công tác chủ nhiệm. Với
giáo viên cần tìm đọc và tự bồi dưỡng cho mình những kiến thức về ứng xử sư
phạm, những quy định về đạo đức nhà giáo. Ban giám hiệu nên tổ chức cho giáo
viên thi viết sáng kiến xử lí tình huống liên quan đến giáo viên chủ nhiệm trong
đợt thi phong trào 20 tháng 11 hằng năm do trường tổ chức. Với học sinh, nhà
trường cần tổ chức thêm các hoạt động ngoại khoá phù hợp với mọi đối tượng học
sinh, có hoạt động riêng cho học sinh yếu, chậm tiến. Với ngành giáo dục cần tổ
chức những lớp bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm cho giáo viên.
Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình nghiên cứu về “Vai trò của

giáo viên trong công tác chủ nhiệm lớp”. Tôi rất mong được sự đóng góp chân
thành của các bạn đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà trường và Hội đồng chấm sáng
kiến kinh nghiệm các cấp.
Xin trân trọng cảm ơn các bạn đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà trường và
Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm các cấp đã dành thời gian quý báu để đọc
bài viết này.
Xác nhận của đơn vị

Tân Trung, ngày 28 tháng 12 năm 2011
Người viết
Tô Quốc Cường
15


Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình tâm lí học đại cương Huế (2001)
- Hồ Chí Minh –Về công tác giáo dục - Nhà xuất bản Sự Thật -Tháng 11 năm 1972
- Chương trình đạo đức lớp 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.

16


MỤC LỤC
Trang
- HỌ VÀ TÊN: TÔ QUỐC CƯỜNG........................................................................1
- ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN TRUNG...............................1
...................................................................................................................................1
Phần mở đầu..............................................................................................................2
I. Bối cảnh chọn đề tài:..............................................................................................2
II. Lý do chọn đề tài:.................................................................................................2

III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:.......................................................................3
IV. Mục đích nghiên cứu:.........................................................................................3
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:....................................................................3
...................................................................................................................................3
Phần nội dung............................................................................................................4
I. Cơ sở lý luận:.........................................................................................................4
II. Thực trạng của vấn đề:..........................................................................................4
1/ Thuận lợi:....................................................................................4
2/ Khó khăn:....................................................................................4
III. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề:....................................................5
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:................................................................12
Phần kết luận...........................................................................................................14
I. Những bài học kinh nghiệm:................................................................................14
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:...................................................................14
III. Khả năng triển khai ứng dụng:..........................................................................15
IV. Kiến nghị:..........................................................................................................15

17



×