Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

skkn biện pháp giúp học sinh học tốt giờ kể chuyện đã nghe,đã đọc ở lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.13 KB, 11 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC AN THẠNH 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài::

BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT
GIỜ KỂ CHUYỆN ĐÃ NGHE, ĐÃ ĐỌC Ở
LỚP 5

Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: TIẾNG VIỆT
Họ và tên: VÕ THỊ HỒNG THẮM
Chức vụ: GIÁO VIÊN
Sinh hoạt tổ chuyên môn: TỔ 5

Mỏ Cày Nam, tháng 11/2011


Phần mở đầu
I . Bối cảnh của đề tài
Hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dạy là yêu cầu cấp thiết trong quá
trình cải cách giáo dục.Vấn đề này luôn được Đảng, Chính Phủ và Bộ giáo dục
quan tâm. Tuy nhiên, tình hình đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và dạy
học Tiếng Việt nói riêng. Ở môn học này có rất nhiều phân môn theo tôi được biết
phân môn kể chuyện của môn Tiếng Việt có ba dạng bài kể chuyện như: Dạng bài:
Kể chuyện nghe thầy cô kể trên lớp; Kể chuyện đã nghe, đã đọc; Kể chuyện đã
chứng kiến, tham gia. Nhưng ở kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc trong chương
trình cũ nằm trong phân môn Tập làm văn nay được chuyển sang phân môn kể
chuyện để thực sự rèn kĩ năng nói cho học sinh. Bên cạnh còn kích thích học sinh
ham đọc sách, mở rộng cánh cửa nhà trường, làm cho đời sống văn học trong nhà
trường gắn bó với đời sống văn học ngoài xã hội.


II. Lí do chọn đề tài
Học tập luôn gắn liền thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Trong
môn Tiếng Việt, phân môn kể chuyện cũng có vị trí rất đặc biệt vì giờ kể chuyện
giúp các em tiếp xúc tác phẩm văn học mà suốt 5 năm ở bậc Tiểu học, học sinh
được nghe và tham gia kể rất nhiều câu chuyện với đủ thể loại. Đó là những tác
phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ truyện cổ tích đến truyện hiện
đại…Nhờ đó, vốn văn học của học sinh được tích lũy dần và là hành trang quý sẽ
theo các em trong suốt cuộc đời mình. Nhưng quan trọng hơn là các em có hứng
thú biết mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng và sáng tạo của mình qua
việc lựa chọn một câu chuyện mà mình yêu thích khi nghe người khác kể hay đã
đọc gắn với các chủ điểm qua dạng bài kể chuyện đã nghe, đã đọc. Chính vì vậy tôi
đã nghiên cứu và mạnh dạn viết đề tài: “Biện pháp giúp học sinh học tốt giờ kể
chuyện đã nghe, đã đọc ở lớp 5”. Vì kể chuyện là một hoạt động giao tiếp tạo điều
kiện nâng cao trình độ ngôn ngữ nói cho học sinh làm cho ngôn ngữ nói gần với
ngôn ngữ viết, đồng thời tạo điều kiện phát triển ngôn ngữ viết cho học sinh. Rèn
cho học sinh kĩ năng nói, kích thích học sinh ham đọc sách, làm sao cho học sinh


biết tìm ra câu chuyện, hiểu nhớ và diễn đạt được câu chuyện đó với giọng kể tự
nhiên…
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu giúp học sinh hứng thú học tốt giờ kể chuyện đã nghe,
đã đọc.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 5 của trường.
IV. Mục đích nghiên cứu
- Trong nền giáo dục Việt Nam tôi nhận thấy chương trình Tiếng Việt có vị
trí đặc biệt quan trọng giúp các em có được các kĩ năng đọc - nói - nghe - viết một
cách thành thạo. Ở phân môn kể chuyện cũng góp phần không nhỏ vào một trong
các kĩ năng đó. Cũng như Tập làm văn, Kể chuyện có vị trí đặc biệt trong dạy học
tiếng mẹ đẻ, trước hết vì hành động kể là hành động “nói” đặc biệt trong hoạt động

giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo
điều kiện để học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt như
nghe, đọc, nói trong hoạt động giao tiếp. Vì khi nghe thầy(cô) giáo kể chuyện, học
sinh đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở dạng lời nói có âm thanh. Khi học sinh kể
chuyện là các em đang tái sinh hay sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời
nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có được cả sức mạnh của
văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống,
về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không
có học môn kể chuyện trong trường học.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Tổ chức tốt tâm thế kể chuyện cho học sinh. Giáo viên hướng dẫn học sinh
chuẩn bị cho tiết kể chuyện tuần sau. Giáo viên khơi gợi vốn sống của học sinh. Tổ
chức giờ học cho nhiều học sinh được kể chuyện, được trao đổi bằng nhiều hình
thức: kể chuyện theo nhóm; thi kể chuyện trước lớp; đối thoại, trao đổi về nhân vật,
về nội dung, ý nghĩa câu chuyện để tạo điều kiện cho mỗi học sinh đều được thực
hành kể chuyện.Vận dụng một cách tổng hợp các kĩ năng Tiếng Việt như nghe,
đọc, nói trong hoạt động giao tiếp.


Học sinh sưu tầm được các câu chuyện trong sách báo hoặc trong cuộc sống
hằng ngày( nghe người thân hoặc ai đó kể), những câu chuyện phù hợp với chủ
điểm( kể cả học sinh yếu cũng phải tìm được tên câu chuyện mặc dù không kể
được). Học sinh đọc kĩ câu chuyện tìm được để nhớ, thuộc chuyện kể tự nhiên.

Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận
Hỗ trợ công tác giảng dạy việc tìm hiểu học sinh là một cơ sở quan trọng
giúp giáo viên thực hiện cá thể hóa việc dạy học nhằm phát triển nguồn năng lực trí
tuệ và phát huy tính tích cực của học sinh để các em có được các kĩ năng nghe,
nói,đọc, viết thành thạo.Thông qua phân môn kể chuyện ở dạng bài kể lại câu

chuyện đã nghe, đã đọc mục đích chung là rèn kĩ năng nói cho học sinh, kích thích
học sinh ham đọc sách gợi mở cho các em cảm nhận cái hay, cái đẹp và hiểu phần
nào cuộc sống xung quanh, bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính,
lành mạnh, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất tốt đẹp.
Chính vì thế để phát huy tính sáng tạo tích cực của từng học sinh, của tập thể học
sinh trong quá trình dạy học. Giáo viên phải hướng dẫn và giúp đỡ hoc sinh mạnh
dạn, tự tin để học sinh mọi trình độ đều học tốt giờ kể chuyện.
II. Thực trạng của vấn đề
Trong giảng dạy trước đây học sinh rất chán học ở phân môn kể chuyện; ít
tập trung và tham gia xây dựng ở tiết học dạng bài kể chuyện đã nghe, đã đọc này;
học sinh không giới thiệu được câu chuyện có nội dung theo chủ điểm; học sinh
thường đọc thuộc lòng câu chuyện nhớ và nêu lại một cách trả bài; học sinh khó
tìm được các câu chuyện có độ dài vừa phải để kể trong khoảng 4- 5 phút,… chỉ có
vài học sinh khá giỏi có hứng thú tham gia tiết học này ...
Nguyên nhân: Học sinh hay thụ động, học sinh ít đọc truyện, chưa xác định
được chủ điểm để kể, hay ngại kể chuyện trước lớp, ít tham gia kể chuyện ở giờ kể
chuyện đã nghe, đã đọc, học sinh không tự nhiên và tự tin trong kể chuyện, rụt rè
không dám tham gia trao đổi ý kiến với bạn qua truyện kể, không biết bắt đầu kể
chuyện như thế nào?…, học sinh thường trông chờ sự gợi mở của giáo viên.


Học sinh chưa có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ nói trong kể chuyện.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là yêu cầu cấp thiết trong quá trình cải
cách giáo dục. Từ những nguyên nhân trên, ta thấy rõ sự bức thiết của việc đổi mới
phương pháp giảng dạy phân môn kể chuyện, nhưng tiến hành theo phương hướng
nào và bằng cách nào là một vấn đề không đơn giản. Giờ kể chuyện giáo viên phải
giúp cho tất cả học sinh được rèn luyên kĩ năng kể chuyện. Giờ học không nên tập
trung vào một số em khá giỏi. Phải tổ chức tốt tâm thế kể chuyện cho học sinh,
phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho tiết kể chuyện tuần sau. Với dạng bài kể

chuyện đã nghe, đã đọc này học sinh phải sưu tầm truyện. Giáo viên cũng có thể
giúp học sinh tìm những câu chuyện phù hợp với chủ điểm (đối với học sinh yếu).
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ câu chuyện tìm được để nhớ, thuộc chuyện kể lại
một cách tự nhiên hoặc học sinh có thể kể theo sơ đồ đường thẳng hay sơ đồ đường
tròn…
1/Chuẩn bị:
Giáo viên giao nhiệm vụ học tập ở nhà cho học sinh chuẩn bị trước, từng học
sinh tự chuẩn bị, tự nghiên cứu bài để đến lớp các em được tham gia xây dựng
bài,…biết đưa ra câu chuyện xác với yêu cầu bài học; biết trao đổi với nhau về nội
dung câu chuyện từ đó giúp các em tìm ra kiến thức và tiếp thu bài chắc và sâu
hơn. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn.
Ví dụ: Khi học bài: Kể chuyện đã nghe, đã đọc…nói về quan hệ giữa con
người với thiên nhiên.
Khâu chuẩn bị ở nhà: Mỗi học sinh phải nhớ lại kiến thức đã học ở lớp dưới
hoặc bài đã đọc ở sách truyện đọc, hoặc truyện ở thư viện hoặc gốc học tập của
lớp…chọn và chuẩn bị cho mình một câu chuyện phù hợp với chủ đề và sắp xếp ý
để kể. Học sinh có làm được khâu chuẩn bị hay không? Giáo viên cần phải gợi ý
giúp học sinh hình dung ra một số hình thức mở đầu câu chuyện khác nhau bằng hệ
thống câu hỏi sau:
. Em đã đọc (nghe) truyện này ở đâu? Nhân vật nào em thích nhất khi đọc
truyện ấy.


. Em đã đọc(nghe) truyện gì? Đọc truyện xong em có cảm xúc mạnh mẽ
nào?
. Em đã đọc(nghe) truyện gì? Em biết gì về nhà văn khi viết truyện này?
. Em biết có một truyện kể nào khác có nội dung nhân vật hay chủ đề tương
tự với truyện em định kể ?...
Bên cạnh đó giáo viên cũng giúp học sinh kết thúc câu chuyện với những gợi
ý sau:

Cách nói năng và hành động nói chung của nhân vật gợi cho em liên tưởng
đến điều gì trong thực tế cuộc sống?
Nêu nhận xét kết thúc câu chuyện (nếu thấy hợp lý hãy nói vì sao, nếu không
hợp lý, hãy nghĩ xem nếu em viết truyện em sẽ cho kết thúc như thế nào? ).
Khen ngợi, biết ơn về những điều truyện đưa ra cảm hóa con người, góp
phần làm cho cuộc sống tốt hơn.
2/Trên lớp:
Giáo viên tổ chức cho học sinh kể chuyện trong nhóm trước để các em tập
dượt. Trong khi học sinh kể giáo viên cần đứng đối diện học sinh, dùng ánh mắt,
cử chỉ động viên, khích lệ và giúp đỡ kịp thời khi các em gặp khó khăn. Khi tổ
chức cho cả lớp nhận xét lời kể của một học sinh, giáo viên cần hướng dẫn chỉ ra
những ưu điểm của bạn. Giáo viên cần khen ngợi một cách kịp thời những thành
công, những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh.
Giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập; học sinh quản lý đánh giá
việc học tập của mình, của bạn nhằm đạt được mục đích yêu cầu cụ thể:
Ví dụ: Cũng đối với bài học trên, sau khi tìm hiểu đề gợi ý:
- Học sinh nối tiếp nhau giới thiệu câu chuyện mình sẽ kể và nêu nội dung
câu chuyện mà các em đã chuẩn bị trước, chẳng hạn các bài ở lớp dưới như:
Bài : Tìm ngọc, Con chó nhà hàng xóm (lớp 2)
Cóc kiện trời (lớp 3)….
- Để kiểm tra học sinh chọn đúng câu chuyện, đúng chủ đề hay không ? giáo
viên hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm trao đổi câu chuyện cho nhau …. Nhận
xét bạn mình chọn có phù hợp hay không và sau đó thi kể theo nhóm …


- Từng nhóm thi kể: học sinh lắng nghe, và đặt câu hỏi trao đổi nội dung,
thắc mắc về câu chuyện bạn vừa kể gây hứng thú cho cả người kể và người nghe…
giúp học sinh giao tiếp một cách tự nhiên, thoải mái, tự tin… khẳng định câu
chuyện phù hợp với yêu cầu…
- Đồng thời tạo điều kiện cho các em tự nhiên đánh giá, bình chọn bạn kể có

câu chuyện hay, kể hay, nhập vai nhân vật, tự nhiên…Như vậy cả tiết học giáo
viên giữ vai trò người tổ chức, dẫn dắt, giúp đỡ học sinh, coi học sinh là người thực
sự làm việc và mỗi học sinh đều có kết quả do chính mình làm ra.
- Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh cả lớp đều có thể tham gia kể chuyện
để các em được giao tiếp một cách tự nhiên, biết thâm nhập vào vai nhân vật, biết
sử dụng điệu bộ, cử chỉ , ánh mắt…
- Đối với phân môn này tôi muốn phát triển kĩ năng nói và nghe cho học
sinh, củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và
tư duy logic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực đời sống qua nội dung truyện.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh trình tự kể chuyện: Giới thiệu tên câu
chuyện, tên nhân vật, dịp nghe, đọc câu chuyện. Kể đủ 3 phần( mở đầu, diễn biến,
kết thúc). Kể tự nhiên, kết hợp động tác, điệu bộ phù hợp.(Ví dụ: Hôm nay tôi sẽ
kể cho các bạn nghe câu chuyện nói về một loài vật thông minh biết nghĩ cách trở
về với rừng xanh đó là câu chuyện “Chú Vẹt tinh khôn” tôi đã tìm đọc ở truyện kể
lớp 5….)
- GV là người hướng dẫn gợi ý cho học sinh.
Ngoài những biện pháp trên học sinh cần thể hiện mức độ sáng tạo trong khi
kể lại truyện.
 Không cần thêm thắt sự kiện, biến cố chính.
 Giọng kể tự nhiên, thâm nhập được vào vai nhân vật, biết sử dụng ngữ
điệu và các yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt..
 Thêm vài lời nhân vật, vài lời giải thích về một vài chi tiết, hành động hay
câu nói nào đó của nhân vật.
 Thay đổi từ ngữ trong truyện bằng những từ đồng nghĩa, gần nghĩa hay trái
nghĩa


sắp xếp lại trình tự một số chi tiết, sự kiện trong bài theo hệ thống trình tự
của mình.
Đối với học sinh yếu động viên kịp thời bằng những câu hỏi gần gũi, gợi mở

(Em có thích câu chuyện bạn kể không? Em đã chọn câu chuyện của mình như thế
nào? Em có thể nêu tên câu chuyện em thích mà không cần kể...), học sinh nêu,
giáo viên giúp đỡ tạo điều kiện hướng các em tìm câu chuyện phù hợp nếu câu
chuyện chưa xác yêu cầu… Giáo viên khuyến khích lần sau tham gia kể…
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Bước đầu đổi mới phương pháp giảng dạy, Qua tích lũy kinh nghiệm tôi đã
áp dụng dạy cho học sinh mình trên từng tiêt học ở dạng bài này. Kết quả năm
2008 -2009 chỉ 10/29 chiếm 34,5 % học sinh của lớp tham gia kể được chuyện ở
dạng bài kể chuyện đã nghe, đã đọc; Đến năm 2009 – 2010 thì ở dạng bài này số
học sinh tìm tên câu chuyện và kể được 17/30 học sinh chiếm 56,6 % số học sinh
của lớp; Ở năm học 2010 – 2011 số học sinh tìm và kể được có tăng lên 21/30 học
sinh chiếm 70,0 % học sinh của lớp. Kết quả đạt được trong thời gian qua tuy chưa
cao nhưng giúp học sinh tự tin trong giờ kể chuyện đã nghe, đã đọc …học sinh
hiểu nhớ và diễn đạt mạch lạc câu chuyện với giọng tự nhiên, điều mà tôi đáng
mừng hơn hết là tới giờ kể chuyện học sinh tham gia kể chuyện, và đặt câu hỏi trao
đổi với bạn kể rất tốt, mạnh dạn đối thoại, trao đổi với bạn về nhân vật, nội dung, ý
nghĩa… học sinh yếu nghe bạn kể một hai lần rồi cũng tự giác tham gia kể mặc dù
chưa hoàn chỉnh nhưng cũng tạo ra niềm tin vào sự cố gắng có hiệu quả của bản
thân, giúp em bồi dưỡng tình cảm , nhân cách tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc kể
chuyện, đem lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động học tập môn tiếng Việt.

Phần kết luận
I. Bài học kinh nghiệm
- Giờ kể chuyện đã nghe, đã đọc giáo viên giúp cho tất cả học sinh được rèn
kĩ năng nói khi kể chuyện. Giờ học không chỉ tập trung vào một số em khá giỏi
mà giáo viên còn có thể giúp học sinh yếu tìm được tên những câu chuyện phù hợp


với chủ điểm. Học sinh biết tự mình đọc kĩ câu chuyện tìm được để nhớ, thuộc
truyện kể một cách tự nhiên. Học sinh biết sưu tầm truyện.

- Tổ chức tốt tâm thế kể chuyện cho học sinh. Trên lớp, giáo viên tổ chức
cho học sinh kể chuyện trong nhóm trước để các em tập dượt.
Giáo viên cần khen ngợi một cách kịp thời những thành công, những tiến bộ
dù là nhỏ nhất của học sinh, khích lệ và giúp đỡ kịp thời khi các em gặp khó khăn.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
- Đối với sáng kiến kinh nghiệm này giúp học sinh được nghe và tham gia kể
các câu chuyện, mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em. Giúp
các em tìm thấy ở trong truyện từ phong tục tập quán đến cảnh sắc thiên nhiên, từ
những thân phận và biết bao hành động nghĩa hiệp của con người trong muôn vàn
trường hợp khác nhau. Từ đó các em yêu thích nhân vật và muốn thể hiện mình
qua nhân vật.. tạo sự hứng thú cho các em mạnh dạn, tự tin nói trước đám đông,..
Bên cạnh còn rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đồng thời với nói, các kĩ năng nghe,
đọc, kĩ năng ghi chép cũng phát triển trong quá trình kể lại truyện đã nghe, kể lại
được truyện đã đọc.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai
- Bản thân vận dụng sáng kiến kinh nghiệm đã tích lũy được vào trong giảng
dạy thường xuyên, đồng thời cũng đã giảng dạy cho đồng nghiệp tham khảo và
nhận được sự đồng tình của đồng nghiệp về cách giảng dạy này.
- Hàng năm với tình hình lớp học thực tế tôi điều chỉnh, bổ sung kinh
nghiệm của bản thân vào sáng kiến này để được hoàn chỉnh hơn.
IV. Những kiến nghị, đề xuất
- Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi, trong quá trình tích lũy còn rất
nhiều hạn chế, thiếu sót… mong được sự đóng góp của đồng nghiệp để trong quá
trình giảng dạy có hiệu quả hơn.
- Ý kiến đề xuất của tôi là làm sao tạo điều kiện cho mỗi lớp có tủ sách để
các em được đọc sách tiện lợi, có hiệu quả. Còn giờ chơi thì thời gian học sinh đọc
sách ở thư viện không thoải mái và liên tục. Được như thế giúp các em có cơ hội


tham gia đọc nhiều truyện hơn thành thạo các kĩ năng ở môn Tiếng việt và các môn

khác.

Tài liệu tham khảo
Sách giáo khoa Tiếng Việt 5
Sách giáo viên 5
Nguyên tắc và phương pháp dạy - học Tiếng Việt ở Tiểu học
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy theo chương trình Tiểu học mới


Mục lục
Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài
II. Lí do chọn đề tài
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
IV. Mục đích nghiên cứu
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng của vấn đề
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Phần kết luận
I. Bài học kinh nghiệm
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
III. Khả năng ứng dụng, triển khai
IV. Những kiến nghị, đề xuất

Trang 1
Trang 1-2
Trang 2

Trang 2
Trang 2-3
Trang 3
Trang 3
Trang 4-7
Trang 7
Trang 7-8
Trang 8
Trang 8
Trang 8



×