Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích mối quan hệ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để thực hiện mục tiêu của nhà nước đề ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.36 KB, 6 trang )

Đề tài: Phân tích mối quan hệ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để thực
hiện mục tiêu của nhà nước đề ra.
Mục lục
I.
II.
III.

IV.

Tổng quan...............................................................................................2
Giới thiệu đề tài.......................................................................................2
Nội dung:.................................................................................................2
1. Một vài nét cơ bản về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.......2
2. Mối quan hệ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa...............3
3. Sự phối hợp hai chính sách để thực hiện mục tiêu quốc gia.............3
Kết luận...................................................................................................5

Tài liệu tham khảo..................................................................................................6

I.

Tổng quan
1


Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô như sản lượng, việc làm, ổn định giá cả,
nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Hai trong những
chính sách đang được chính phủ các nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là Chính sách tiền tệ và Chính sách tài
khóa. Hai chính sách này tuy có những chức năng riêng nhưng lại có mối quan hệ
mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế của nhà


nước.
II.

Giới thiệu đề tài:

Trong giai đoạn hiện nay, các quyết sách về tiền tệ và tài khóa phải đối mặt với yêu
cầu cần phối hợp chặt chẽ để đạt được mục tiêu tốc độ tăng trưởng dương và
không có sự đổ vỡ hệ thống. Tuy vậy, việc thể chế hóa nội dung và kênh phối hợp
giữa hai chính sách này đòi hỏi sự thay đổi về tư duy cũng như nền tàng điều hành
chính sách vĩ mô. Đề tài này sẽ chỉ ra những vấn đề khi phối hợp hai chính sách và
đề xuất các giải pháp nâng cao sự phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa.
III.

Nội dung đề tài:

1. Một vài nét cơ bản về chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa:
a. Chính sách tiền tệ:

Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể
là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để đạt
được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy
trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ có thể chia làm: chính sách mở rộng và chính sách thu hẹp.
Chính sách mở rộng là tăng cung tiền lên hơn mức bình thường.
b. Chính sách tài khóa:

Chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ
thuế và đầu tư công cộng để tác động tới nền kinh tế.
Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi

tiêu (đầu tư công cộng) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi làchính sách
tài khóa nới lỏng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện
tượng nóng, thì nhà nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho

2


nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa như
thế này gọi là chính sách tài khóa thắt chặt.
2. Mối quan hệ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa:

Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai công cụ giữ vai trò
trọng yếu trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hai chính sách này có
những chức năng riêng, nhưng đều cùng thực hiện mục tiêu kinh tế quốc gia. và có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau.
CSTT là công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín
dụng, kết quả là chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu
chính sách đề ra. CSTK kiểm soát thu chi ngân sách vì những khoản thu chi này có
tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác.
CSTK tác động đến CSTT trước hết qua kênh tài trợ thâm hụt ngân sách: Nếu thâm
hụt ngân sách được tài trợ từ vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh
toán, nếu tài trợ bằng cách vay từ NHTW thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và
mặt bằng giá cả, nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách vay từ các
NHTM thì nguồn vốn cho vay các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giảm, hạn
chế năng lực đầu tư của các khu vực kinh tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Ngoài ra, CSTK còn ảnh hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng
của NHTW trong việc kiểm soát luồng ngoại tệ, nếu chính sách thu chi ngân sách
không hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả phân bổ nguồn lực và làm tăng
rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
CSTT tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT, một

CSTT thắt chặt sẽ làm giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn thu ngân sách,
một sự giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ qui đổi,
nếu NHTW điều chỉnh tăng lãi suất thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ giảm và ảnh
hưởng đến khả năng cân đối ngân sách.
Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mô hình IS-LM. Theo
mô hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm
lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất
vì khi đó cung tiền giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều
chỉnh CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền
kinh tế. Bên cạnh đó, mô hình Timbergen của nhà kinh tế học cùng tên người Hà
Lan có thể giúp các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tìm kiếm được sự phối
hợp hiệu quả giữa CSTT và CSTK.

3. Sự phối hợp hai chính sách để thực hiện mục tiêu quốc gia:
3


a. Những vấn đề nảy sinh trong thực tế khi phối hợp hai chính sách

Thứ nhất, việc cân đối ngân sách chưa lành mạnh. Qui mô chi ngân sách quá cao,
chi tiêu dàn trải cho nhiều đối tượng, thiếu quy hoạch và chi tiêu trong trung và dài
hạn, sử dụng nguồn vốn ngân sách lãng phí, hiệu quả thấp, tham nhũng, vấn đề
quản lý và giám sát chi tiêu còn chưa hợp lý hay vấn đề phân cấp trong quản lý
ngân sách các cấp. Những điều này dẫn đến việc điều tiết chính sách tài khóa
không đem lại tính chất bền vững, thêm vào đó, chính sách tiền tệ còn phải gánh
những vấn đề của chính sách tài khóa.
Thứ hai, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chưa có sự phối hợp trong việc
hạch định và việc thực hiện mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn. Chính
sách tiền tệ luôn được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách tài
khóa đôi khi còn chưa thắt chặt trong thời kỳ lạm phát cao và chưa phát huy hết vai

trò trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế. Việc xây dựng mục tiêu chính sách còn hình
thức, giảm lòng tin tới thị trường và ảnh hưởng đến sự phối hợp các chính sách
một cách chủ động.
Thứ ba, còn thiếu nền tảng kỹ thuật làm căn cứ cho sự phối hợp chính sách. Nền
tảng dự báo những biến động vĩ mô trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
trong và ngoài nước là căn cứ quan trọng cho việc xây dựng mục tiêu, lựa chọn
công cụ chính sách và vạch ra lộ trình thực hiện chính sách. Tuy nhiên hiện nay
nền tảng dữ liệu, hệ thống thông tin, kỹ thuật dự báo, đội ngũ chuyên gia, tư vấn
trong dự báo chưa được quan tâm đúng mức. Các kết quả dự báo đôi khi mâu
thuẫn và độ tin cậy chưa được thẩm định.
Cuối cùng, việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình giữa các cơ quan chính
sách chưa được thiết lập một cách chính thức. Thị trường không được cung cấp
thông tin đầy đủ và liên tục cập nhật dẫn đến các nhà chính sách mất đi mọt kênh
triển khai chính sách hiệu quả. Việc cung cấp thông tin ở mức độ thấp trong trách
nhiệm giải trình các cơ quan chính sách còn gây nên sự thiếu tin tưởng thị trường
đồng thời không tạo cho các nhà chính sách áp lực trong việc xây dưng và cam kết
thực hiện mục tiêu.
b. Các giải pháp nâng cao sự phối hợp:

Một là, nên có sự phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc
xác định mục tiêu kinh tế vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối
chung cho mục tiêu đó.
4


Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên có sự phối hợp trong việc xác
định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho
mục tiêu đó. Đồng thời, Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển đổi khung mục tiêu
chính sách theo hướng thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt nhằm
hướng CSTK và CSTT vào mục tiêu chung.

Trên cơ sở các mục tiêu chung, NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng tham gia xác định
khung mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế chủ động và linh hoạt
trong quá trình phối hợp để đạt mục tiêu, xây dựng kế hoạch tài chính - tiền tệ tổng
thể cho từng năm trong đó các vấn đề về bội chi ngân sách, đầu tư công, hiệu quả
đầu tư cần phải được tính toán và xem xét cụ thể trên các vấn đề có liên quan tới
CSTT như tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng... để đảm bảo việc
thực thi 2 chính sách được đồng bộ và hiệu quả.
Hai là, phải nhất quán giữa các mục tiêu chính sách ngắn hạn và dài hạn trong phối
hợp CSTK và CSTT.
Về ngắn hạn, CSTK và CSTT cần phối hợp chặt chẽ nhằm đạt được mục tiêu ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức dưới một con số và hỗ trợ tăng
trưởng, đồng thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất - kinh
doanh, ngăn chặn tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
Về dài hạn, CSTK phải hướng tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tăng trưởng bền vững.
Ba là, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, thực hiện minh bạch đối với các kỳ
vọng chính sách cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và
thực thi chính sách.
Trong thời gian tới, cần sớm khắc phục tình trạng thông tin chưa kịp thời, không
đầy đủ, thiếu chính xác làm cho việc ra quyết định thiếu căn cứ đầu vào đầy đủ.
Đồng thời cần hoàn thiện và nâng cao tính pháp lý của các quy định về chế độ báo
cáo thông tin, cơ chế chia sẻ thông tin.
Bốn là, tiến tới thực hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài
khóa.
Với việc xác định mục tiêu phối hợp tài khóa - tiền tệ giai đoạn tới tập trung vào việc
xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thì việc áp dụng chính sách khuôn khổ
lạm phát mục tiêu và nâng cao kỷ luật tài khóa là lựa chọn thích hợp đối với CSTT CSTK của Việt Nam.
Năm là, phối hợp CSTK - CSTT phải tính đến sự phối hợp với các chính sách vĩ mô
khác, đặc biệt là các biện pháp giám sát thận trọng vĩ mô.
Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng và được quan tâm nhiều trong bối cảnh Việt Nam

tham gia ngày càng nhiều vào các khu vực thương mại, các hiệp định thương mại
tự do (AEC, TPP, Việt Nam - EU...), nhằm hạn chế sự biến động của các dòng vốn
vào - ra , đồng thời tạo sự ổn định tài chính trong nền kinh tế.
5


IV.

Kết luận

Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, có
sự tác động qua lại với nhau. Để đạt được những mục tiêu về kinh tế do nhà nước
đề ra, hai chính sách này cần được phối hợp và bổ sung cho nhau một cách hợp lý.
Thiếu sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nền kinh tế sẽ
phải đối diện với những thách thức to lớn về cân đối thu chi ngân sách nhà nước và
ổn định tiền tệ, khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững./.

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế vĩ mô, nxb Đại học Kinh tế Quốc dân
2. TS Nguyễn Viết Lợi (2016), “Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền

3.
4.
5.

6.

tệ ở Việt nam giai đoạn 2011-2015 và giải pháp đến năm 2020”, Tạp chí tài
chính kỳ I + II, tháng 1/2016
Cổng thông tin điện tử Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và

đầu tư
Nguyễn Đại Lai (2005), “Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa”,www.sbv.gov.vn.
Nguyễn Đại Lai (2005), “Những thành tựu và những bất cập trong việc phối
hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tại VN trong vòng 10 năm
qua”,
Tào Hữu Phùng (2006), “Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền
tệ với chính sách tài khóa”, Tạp chí Tài chính, 3(497), tr.8 – 9.

6



×