Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn Một số biện pháp giúp giáo viên chủ nhiệm giúp đỡ học sinh lớp 5 học yếu Toán tiến bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.74 KB, 12 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: …………………………………
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp giáo viên chủ nhiệm giúp đỡ học
sinh lớp 5 học yếu Toán tiến bộ.
2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học.
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Toán và Tiếng Việt là hai môn khoa học cơ bản nhất, trong đó Toán là
môn khoa học cơ sở, tạo nền móng đề học tất cả các môn khoa học tự nhiên
khác. Nắm chắc kiến thức môn Toán ở Tiểu học, các em có thể vận dụng tốt vào
trong cuộc sống và có cơ sở để học tiếp các cấp học khác. Nếu học yếu, các em
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và rất khó lĩnh hội những kiến thức ở
cấp học sau. Tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5. Qua quá trình
giảng dạy, tôi thấy một số học sinh còn học yếu Toán do bị hổng các kiến thức
và kỹ năng cơ bản. Là giáo viên tôi không thể hờ hững được vì đây là nhiệm vụ
của mình. Vậy làm thế nào để không còn học sinh học yếu môn Toán nữa, đó
chính là lý do tôi chọn đề tài này.
a) Ưu điểm
- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao, kiểm soát chất
lượng chặt chẽ, đặc biệt quan tâm và có kế hoạch bồi dưỡng học sinh yếu cụ thể;
- Phần lớn học sinh ngoan, có ý thức tự giác học tập, phụ huynh quan tâm
đến con em mình;
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa và các đồ dùng học tập;
- Giáo viên chủ nhiệm đã dạy nhiều năm lớp 5, có chuyên môn vững
vàng, có nhiều biện pháp kèm cặp học sinh yếu có hiệu quả;
- 100% học sinh được học 2 buổi/ngày nên giáo viên chủ nhiệm có nhiều
thời gian kèm cặp học sinh yếu.



b) Tồn tại
- Học sinh hổng, quên kiến thức cơ bản; kỹ năng tính toán yếu;
- Học sinh chưa nắm chắc các kiến thức của lớp dưới, nên các em không
có kiến thức để học và vận dụng vào giải các bài toán của lớp đang học. Khi học
bài mới trên cơ sở vận dụng các kiến thức cũ thì các kiến thức cũ này đối với các
em dường như rất mới, rất xa lạ, khiến các em càng khó lĩnh hội nội dung bài
học đó;
- Học sinh chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy
bị hạn chế: Những học sinh này thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng
lực tư duy toán học kém phát triển. Việc ghi nhớ các nội dung, quy tắc, lí thuyết
còn chậm, hiểu bài không nhanh nên việc vận dụng vào trong bài tập còn lúng
túng, khó khăn. Khi tính toán, các em còn phải lần tìm lại những kiến thức cũ
nên giải bài rất chậm;
- Học sinh mải chơi, lười học, không hứng thú học môn: Do ham chơi, các
em thường tính ẩu, làm nhanh xong các bài tập để làm các việc riêng khác.
Trong lớp các em không chú ý nghe giảng, lười suy nghĩ. Ở nhà, các em không
chịu học những kiến thức lí thuyết cơ bản, chỉ làm xong những yêu cầu của cô
giáo giao cho mà không kiểm tra lại kết quả. Các em không hứng thú trong học
tập mà chỉ chú ý vào những trò chơi, trò nghịch ngợm;
- Thiếu điều kiện học tập (hoàn cảnh gia đình khó khăn nên thiếu phương
tiện học tập, nhà ở chật chội, nhà buôn bán ồn ào, không có phòng học riêng…
ảnh hưởng đến việc học).
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
- Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác
thực hành các kiến thức đã học; rèn luyện kỹ năng tính toán là bước tập dượt
vận dụng kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn;
- Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương
pháp và kỹ năng suy luận, khả năng quan sát, tìm tòi.

3.2.2. Nội dung của giải pháp
2


Tính mới của giải pháp:
Những tính mới của đề tài mà tôi áp dụng là:
- Gây hứng thú học tập cho các em;
- Bù lấp chỗ hổng kiến thức; hướng dẫn một số thủ thuật tính toán,
phương pháp học Toán;
- Thực hành luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức;
- Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi, nhóm trưởng để kèm cặp học sinh
yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản;
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh yếu kém.
Các bước thực hiện của giải pháp:
Để giúp đỡ học sinh yếu vươn lên trong học tập, trước hết tôi xác định và
phân loại đối tượng học sinh theo từng nhóm như trên để có biện pháp bồi
dưỡng thích hợp và tiến hành một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu như sau:
a) Gây hứng thú học tập cho các em
- Trong những học sinh học yếu môn Toán có nhiều học sinh không hứng
thú học môn Toán. Vậy để kích thích học sinh có húng thú học môn Toán tôi xác
định điều đầu tiên quan trọng là phương pháp dạy của giáo viên. Dạy phát huy
tính tích cực của học sinh, dạy sát đối tượng bằng cách trong các giờ học Toán
tôi có các câu hỏi, bài tập phù hợp với từng đối tượng học sinh để cả học sinh
yếu cũng được làm việc, được tham gia vào các hoạt động học tập để tránh tình
trạng học sinh yếu không được hoạt động dễ gây ra nhàm chán, thụ động;
- Sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy kết hợp hài hoà với các
phương pháp dạy học khác;
- Để tạo hứng thú cho các em học tập, tôi tạo không khí lớp học thoải mái,
nhẹ nhàng, không để học sinh sợ giáo viên và tạo ra nhiều trò chơi Toán học
như: giải đố toán; thi giải toán đúng, nhanh; lựa chọn các phép tính đúng giải

toán tiếp sức; chữ số bí ẩn; . . . tạo không khí vui vẻ, cởi mở mà vẫn học tập tốt;
Ví dụ: Dạy về nhân số thập phân tôi có các bài tập nhận diện như sau:
Thi ai nhanh ai đúng: Đúng viết Đ sai viết S vào ô trống
1, 36

1, 3 6
3


x 2,5

x 2,5

680

680

272

272

3400

3, 4 0 0

Trò chơi này tôi dành gọi học sinh trung bình và học sinh yếu, qua trò
chơi này đã cũng cố khắc sâu cho học sinh kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích
khi đã thực hiện xong bước nhân như nhân 2 số tự nhiên, vì điều quan trọng nhất
của nhân số thập phân là kỹ năng viết thêm dấu phẩy vào tích và đây cũng là
bước học sinh hay quên nhất.

- Giúp học sinh tự tin rằng mình có thể học giỏi Toán như các bạn bằng
cách thường xuyên gọi học sinh báo cáo trước lớp kết quả làm việc của bản thân
hay của nhóm mình;
- Trong mỗi giờ học, hướng dẫn và kèm cặp các em thật tỉ mỉ, kiến thức kĩ
năng cơ bản. Yêu cầu các em làm từng bài tập cho thật hoàn chỉnh rồi mới
chuyển sang bài sau, không đòi các em theo kịp các bạn trong lớp;
- Xác nhận và động viên sự tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất;
- Chú ý đôn đốc, nhắc nhở, dùng tập thể để động viên cổ vũ, giúp đỡ để
các em tự nhận biết và cố gắng học tập;
- Không lạm dụng trách phạt, sử dụng phương pháp kỉ luật tích cực đối
với những học sinh này. Nêu những tấm gương sáng về người nghèo nhưng hiếu
học và đã trở thành những người nổi tiếng để các em noi theo;
- Thường xuyên gần gũi, tìm hiểu, quan tâm lắng nghe mong muốn của
học sinh, tạo điều kiện cho học sinh nói lên những suy nghĩ của mình để giáo
viên nắm bắt được tâm sự, nguyện vọng, sở thích thái độ học tập của học sinh từ
đó sẽ có tác động đúng hướng kích thích các em học tập;
- Động viên kịp thời học sinh làm đúng, trả lời gần đúng bằng các câu nói
khích lệ, khuyến khích: Có cố gắng, gần đúng rồi,…Dùng phương pháp nêu
gương mỗi khi các em làm đúng bài tập, phép tính;
- Trực tiếp gặp gỡ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của gia đình. Cùng gia
đình các em trao đổi, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em học tập. Trao
4


đổi, kết hợp với phụ huynh học sinh chọn phương pháp thích hợp nhất để thúc
đẩy các em ham thích học tập và quản lí việc học ở nhà, từng bước đưa các em
vào nề nếp học tập;
- Trao phần thưởng cho từng học sinh có tiến bộ sau mỗi đợt thi đua;
- Khen ngợi, động viên kịp thời các em. Không chê và phân tích tỉ mỉ
những chỗ sai, chỗ yếu của từng em để các em biết cách khắc phục và tự tin hơn

trong học tập;
- Thường xuyên kiểm tra việc làm bài tập của các em: ở lớp, ở nhà. Gọi
học sinh yếu lên bảng chữa bài, phát biểu và nhận xét bài nhiều lần;
- Trong khi báo cáo kết quả của hoạt động nhóm thường xuyên gọi các
bạn học yếu đại diện nhóm phát biểu ý kiến trước lớp để tạo cho các bạn tự tin
trước tập thể, mạnh dạn trong học tập; học sinh yếu kém có điều kiện thể hiện
mình trước lớp bằng những câu trả lời ngắn, những bài tập dễ chỉ áp dụng công
thức, quy tắc để học sinh yếu được cuốn hút vào các hoạt động học tập.
b) Bù lấp chỗ hổng kiến thức, hướng dẫn một số thủ thuật tính toán,
phương pháp học Toán
Kiến thức toán học được cấu trúc theo hướng đồng tâm xoáy trôn ốc. Như
vậy chỉ cần một chỗ hổng hay một vùng kiến thức nào của học sinh bị thiếu
đồng nghĩa với việc học sinh khó có thể tiếp thu được cái kiến thức tiếp theo và
đó là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến học sinh học yếu môn Toán. Như vậy
trong quá trình giảng dạy môn Toán ngay từ đầu năm tôi thường phát hiện
những chỗ hổng mà học sinh mắc phải và kịp thời bù lấp những chỗ hổng đó.
Hổng về bảng cửu chương:
- Cho học sinh ôn lại các bảng: Bảng nhân, bảng chia, cách cộng, trừ, . . .
- Kiểm tra bảng cửu chương hàng ngày - có thể mỗi ngày thuộc một bảng
(đọc - viết ra giấy);
Ví dụ: Thứ hai thuộc bảng nhân 4.
Thứ ba thuộc bảng chia 4.
- Kiểm tra thường xuyên các bảng chủ yếu là bảng nhân và chia của học
sinh yếu trong từng tiết học;
5


- Thực hành rèn luyện các kĩ năng nhân, chia thường xuyên.
Hổng về các dạng toán cơ bản:
Liệt kê lại các dạng toán của các lớp dưới (Ví dụ đối với học sinh lớp 5

tôi liệt kê lại các dạng toán cơ bản của lớp 4):
- Dạng toán trung bình cộng;
- Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó;
- Dạng toán Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó;
- Dạng toán Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó;
- Dạng toán về hình học; Hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình
thoi; Hoặc một số dạng toán cơ bản của lớp 5 (Toán về tỷ số phần trăm, toán tỷ
lệ..);
- Nhắc lại cho học sinh cách giải từng dạng toán, phân biệt sự khác nhau
giữa các dạng toán và yêu cầu học sinh học thuộc.
Ví dụ: ở lớp 5 học sinh thường nhầm lẫn 2 dạng toán về tỉ số phần trăm:
dạng tìm một số khi biết số phần trăm của nó và dạng toán tìm số phần trăm của
một số. Tôi cho học sinh giải đồng thời 2 bài toán sau:
Bài 1: Tìm 25 % của 120.
Bài 2: Tìm một số khi biết 50 % của nó là 120.
Học sinh đưa ra cách giải:
Bài 1: 25% số đó là: 120: 100 x 25 = 30
Bài 2: Số phải tìm là: 120: 50 x 100 = 240
Tôi cho học sinh phân tích để học sinh tự thấy sự khác nhau của 2 dạng
toán ngay trong khi thực hiện bước chia cho 100 (bài 1) là để tìm 1% của 120 rồi
mới nhân với 25 để tìm 25% của 120; và chia cho 50 (dạng 2) cũng để tìm 1%
của 120 rồi nhân với 100 để tìm số phải tìm (vì số phải tìm là 100%). Phân tích
kỹ như vậy học sinh mới hiểu được bản chất của 2 dạng Toán và không bị nhầm
lẫn dạng 2 và dạng 3 của Toán tỷ số phần trăm.
Cho học sinh giải đi giải lại nhiều bài tập có liên quan đến các dạng toán đó.
Thường xuyên kiểm tra bài làm của học sinh về các dạng Toán cơ bản
trong đó có so sánh đối chiếu các dạng toán; chữa tỉ mỉ, chỉ ra chỗ chưa đúng
6



của học sinh đồng thời giải thích chưa đúng do đâu, yêu cầu học sinh đó làm lại
nếu cần.
Với những bài toán lời văn cần cho học sinh hiểu đề bài, phân tích tỉ mỉ
đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để giúp học sinh biết cách giải.
c) Hướng dẫn học sinh kỹ năng và một số thủ thuật tính (thủ thuật
nhân, chia các số có nhiều chữ số)
* Kĩ năng cộng, trừ các số có nhiều chữ số:
- Đặt tính đúng (các hàng phải thẳng cột với nhau);
- Thực hành tính từ phải sang trái, lần lượt từ trên xuống dưới;
- Thử lại để kiểm tra kết quả.
* Kĩ năng nhân:
- Đặt tính;
- Thực hiện nhân: Viết các tích riêng thật đúng, thật thẳng hàng với nhau.
Mỗi tích riêng sau lùi sang trái một hàng so với tích riêng trước.
* Kĩ năng chia:
Yêu cầu:
- Học sinh phải nắm chắc cách cộng, trừ, nhân các số có nhiều chữ số;
- Học sinh có khả năng cộng, trừ, nhân nhẩm và biết ước lượng thương;
- Đặc biệt, các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng tính toán nhất là phép
chia vì kĩ năng chia là tổng hợp kĩ năng tính toán (trong phép chia có cả cộng,
trừ, nhân, chia). Để rèn luyện thành thạo các kĩ năng cho học sinh, tôi luôn
hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm vững: Mối quan hệ giữa các phép tính (giữa
phép cộng và phép trừ, giữa phép nhân và phép chia, ....);
- Để cho học sinh dễ tính toán và làm bài nhanh, cần cung cấp cho học
sinh thủ thuật che bớt hoặc làm tròn để các em ước lượng được nhanh hơn.
Ví dụ 1: Tính: 573 : 81
Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau:
- Che chữ số hàng đơn vị (học sinh che 3 và 1)
- Nêu phép chia còn lại? (57 : 8)
- Ước lượng thương (được 7)

7


- Thử vào phép chia: 573 81
06 7
Vậy: 537 : 81 = 7 ( dư 6 ).
Ví dụ 2: Tính 628 : 49
Ta có thể hướng dẫn học sinh như sau:
- Làm tròn số bị chia và số chia (628 làm tròn thành 630; 49 làm tròn
thành 50);
- Nêu phép chia với các số vừa làm tròn (630 : 50);
- Che chữ số 0 rồi ước lượng thương (che chữ số 0 còn 63 : 5, vậy thương
là 12).
- Thử vào phép chia: 628

49

138

12

40
Vậy 628 : 49 = 12 (dư 40)
Với các phép tính với các số thập phân, cách tính tương tự các số tự nhiên,
khi các em đã thực hiện tốt các phép tính với số tự nhiên, giáo viên chỉ cần lưu ý
các em cách xử lí dấu phẩy cho phù hợp.
Các phép tính cộng, trừ với số thập phân: Lưu ý các em đặt các chữ số
cùng hàng thẳng cột với nhau, dấu phẩy ở tổng (hiệu) thẳng cột với dấu phẩy
của các số hạng (số bị trừ, số trừ).
- Phép nhân: Dấu phẩy được đánh bằng cách đếm các chữ số ở phần thập

phân của hai thừa số rồi dùng dấu phẩy tách ở tích ra bấy nhiêu chữ số kể từ
phải sang trái;
- Phép chia: Lưu ý học sinh xác định phần thập phân của số chia có bao
nhiêu chữ số, dịch chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang phải bấy nhiêu chữ số rồi
bỏ dấu phẩy ở số chia;
- Thường xuyên kiểm tra các quy tắc tính trong từng bài, từng tiết học.
- Cho học sinh làm các bài tập giống các bài mẫu để học sinh nắm thật
chắc các kĩ năng tính toán. Sau đó cho học sinh vận dụng giải các bài có độ khó
cao hơn đòi hỏi sự so sánh, đối chiếu, . . . để học sinh nắm kĩ về các dạng toán.
8


d) Hướng dẫn học sinh phương pháp học môn Toán
- Cần luyện tập nhiều lần;
- Học lý thuyết xong mới thực hành;
- Với những bài toán lời văn cần làm tuần tự theo các bước: Tìm hiểu đề
bài, gạch chân các từ quan trọng, phân tích đầu bài, tìm hướng giải, trình bày lời
giải, thử lại.
đ) Thực hành luyện tập nhiều lần một đơn vị kiến thức
- Học sinh yếu kém thường chậm nhớ nhanh quên. Vì vậy nếu một kiến
thức mà học sinh chưa thành thạo thì học sinh rất dễ quên do đó tôi thường tăng
các bài tập cùng loại. Cho học sinh thực hành nhiều lần một kiến thức dựa trên
các bài mẫu (có thể thay số) nhằm tạo thành đường mòn thì học sinh sẽ nhớ lâu,
tăng các bài tập vào các giờ tự học, buổi hai;
Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ, với học sinh yếu tôi cho giải bài toán “10 người
làm xong một công việc hết 7 ngày. Nay muốn làm xong công việc đó trong 5
ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người như nhau)”
Bài thứ 2: tôi chỉ cần cho học sinh tự thay số khác ra một đề toán mới và
giải như: “10 người làm xong một công việc hết 14 ngày. Nay muốn làm xong
công việc đó trong 7 ngày thì cần bao nhiêu người? (mức làm của mỗi người

như nhau)”
- Cho các em làm các bài toán gắn với thực tế cuộc sống, các bài toán vui
để các em dễ liên tưởng và hình dung. Sau đó cho học sinh thực hành làm các
bài tập dạng khác nhau đòi hỏi có sự tư duy cao hơn như: so sánh, đối chiếu,
phân tích nhưng phải đảm bảo tính vừa sức.
Ví dụ: Khi học toán tỷ lệ, tôi cho học sinh đề bài “Lớp 5B trường Tiểu
học Nguyễn Bá Ngọc có 36 học sinh quét xong sân trường hết 40 phút. Nếu bổ
sung thêm 4 bạn học sinh nữa thì lớp 5B quét xong sân trường hết bao nhiêu
thời gian.(Mức làm của mỗi bạn là như nhau)”
- Trên lớp, giảng thật chậm, kĩ và hướng dẫn tỉ mỉ khi gặp những dạng
toán mới, khó, kiên trì không nóng vội.

9


e) Tận dụng ngay học sinh khá, giỏi, nhóm trưởng để kèm cặp học
sinh yếu, tăng cường hoạt động của hội đồng tự quản
- Trong một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút một giáo viên ngoài
việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả
các đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh khá giỏi và học sinh yếu
kém, tuy nhiên thời gian có hạn nên lớp có từ 5-6 học sinh yếu thì giáo viên
không có đủ thời gian để hướng dẫn tỉ mỉ đến tất cả các em học sinh yếu do đó
đôi khi một số học sinh yếu bị bỏ rơi;
Trong năm học 2015-2016 tôi áp dụng tổ chức lớp học và áp dụng linh
hoạt phương pháp dạy học theo mô hình mới tôi đặc biệt chú ý việc kiểm soát
của nhóm trưởng và sự hướng dẫn của nhóm trưởng với học sinh yếu;
- Giao cho hội đồng tự quản, trưởng ban học tập, nhóm trưởng thường
xuyên kèm cặp hướng dẫn, kiểm tra việc học của các học sinh này;
- Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị của các bạn học sinh
yếu qua giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng lại chỗ

bạn chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài khi sai. Nhóm trưởng,
trưởng ban học tập có thể trao đổi lại với giáo viên chủ nhiệm về bạn mình được
phân công kèm cặp khi cần;
- Trong hoạt động nhóm tôi tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên gọi
các bạn học yếu này đại diện cho nhóm báo cáo ý kiến thảo luận của nhóm
mình. Phân cho nhóm trưởng kiểm tra, giúp đỡ việc chuẩn bị bài, hướng dẫn các
bạn học yếu trong quá trình làm bài tập, vận dụng lí thuyết vào thực hành.
g) Thường xuyên theo dõi, kiểm tra học sinh yếu kém
- Thường xuyên theo dõi ý thức, thái độ học tập của các em phát hiện kịp
thời những học sinh có biểu hiện lười học, chán học để có biện pháp giáo dục
phù hợp;
- Hàng tháng, hàng tuần phải theo dõi sát sao kiến thức mà các em lĩnh
hội, nếu đơn vị kiến thức nào học sinh chưa hiểu giáo viên bù lấp và hướng dẫn
ngay tránh trường hợp giáo viên buông lỏng việc theo dõi học sinh yếu để học

10


sinh chồng chất những kiến thức chưa hiểu thì học sinh không thể học những
kiến thức mới được;
- Thường xuyên tự ra đề để khảo sát học sinh yếu, chấm, chữa tỉ mỉ, chỉ ra
lỗi sai và yêu cầu học sinh làm lại khi cần.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Theo tôi, đề tài này áp dụng cho lớpkhối 5 bậc Tiểu học và nên thực hiện từ
đầu năm học đến cuối năm học để tiện theo dõi, đánh giá chất lượng của đề tài. Đề
tài này được tiếp tục nghiên cứu, có thể mở rộng phạm vi cho khối lớp khác.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được dự kiến có thể thu được do áp dụng giải
pháp
Từ các biện pháp trên, với sự cố gắng, quan tâm sát sao của giáo viên, sự
giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và

phụ huynh học sinh, kết quả học tập của học sinh đã tăng lên rõ rệt:
- Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính
xác, ham học, chất lượng học tập được nâng lên;
- Số lượng học sinh ham thích giải toán ngày càng tăng;
- Các em tự tin hơn tro ng việc giải toán và kết quả ngày càng cao hơn;
- Học sinh phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo trong giải
tóan;
- Học sinh nhớ lại cách giải và áp dụng rành mạch;
Cuối học kì I tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát để nhận biết chất lượng
chung của lớp đã thu được kết quả sau:
Điểm 9 - 10
14 – 43,8%

Điểm 7 - 8
12 – 37,5%

Điểm 5 - 6
6 – 18,7%

Điểm dưới 5
0

Từ những kết quả đạt được nêu trên, tôi rút ra được bài học:
- Cần có sự đầu tư, nghiên cứu, chuẩn bị kĩ càng trước mỗi bài toán giải, ở
mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng cách: đọc kỹ, nghiên cứu
đề, phân tích bằng nhiều phương pháp (mô hình, sơ đồ đoạn thẳng, suy luận ....)
để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt nội dung bài hơn;
11



- Không nên dừng lại ở kết quả ban đầu (giải đúng bài toán) mà nên có
yêu cầu cao hơn đối với học sinh là giải theo nhiều cách, chọn cách giải hay; tự
đặt đề bài theo tóm tắt và giải bài toán một cách hợp lý, khoa học;
- Giáo viên phải luôn thay đổi phương pháp dạy cho phù hợp với mỗi bài
toán và bằng nhiều hình thức như: Tổ chức trò chơi, đố vui, thảo luận nhóm,....
phù hợp với từng đối tượng học sinh: “Lấy học sinh làm trung tâm để hướng vào
hoạt động học; thầy cô giáo là người tổ chức, hướng dẫn, đánh giá; học sinh chủ
động trong nhận thức và giải toán ”;
- Trong giảng dạy, giáo viên cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân
tích, tổng hợp, khả năng suy luận lô gích cho học sinh, nhằm giúp các em nắm
vững kiến thức. Cụ thể: với bài toán có lời văn, đó là cách giải và trình bày lời
giải. Giáo viên cần sử dụng tốt tất cả các phương pháp dạy học toán;
- Trong khi thực hiện giải bài toán, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự đặt
câu hỏi: “Thực hiện phép tính đó để làm gì ”, để các em có hướng giải đúng;
- Giáo viên cần tạo cho học sinh có thói quen: Sau mỗi bài giải phải kiểm
tra lại kết quả đã làm, nhằm giúp các em tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề./.
................, ngày ... tháng ... năm ....
NGƯỜI VIẾT

12



×