Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vài kinh nghiệm giúp GVCN nâng cao chất lượng dạy các đơn vị đo đại lượng trong môn toán lớp 3 TH phước hiệp nguyễn thị lĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.22 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số : ………………………………………………………
1. Tên sáng kiến: Vài kinh nghiệm giúp giáo viên chủ nhiệm nâng cao chất
lượng giờ dạy phân môn Tập đọc lớp 4
2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Qua nghiên cứu thực tế tôi thấy rằng chất lượng dạy tập đọc ở tiểu học
chưa cao học sinh ít có khả năng đọc hay, diễn cảm và hiểu nội dung bài một
cách đầy đủ. Học sinh không quan tâm tới phương pháp đọc của mình. Do đó,
các em đọc rất yếu. Chính vì vậy tôi chọn nghiên cứu đề tài này. Trong quá trình
thực hiện tôi thấy có những ưu điểm và hạn chế sau:
a) Ưu điểm
- Đa số học sinh đọc trôi chảy, ngắt nhịp đúng lúc, nhấn giọng đúng
chỗ, lên xuống, nhanh chậm tuỳ lúc với bài văn;
- Một số em không chỉ đọc trôi chảy, đọc lưu loát mà còn diễn đạt
tình ý cơ bản của bài văn bằng giọng đọc có xúc cảm;
- Nhiều em đọc đúng các từ ngữ có âm, vần, thanh dễ phát âm sai;
- Nhiều em đã biết đọc phân biệt lời người kể với lời các nhân vật.
b) Hạn chế

- Một số học sinh đọc còn ngắc ngứ, lý nhí, thậm chí các em còn phát âm
sai (đớt), đọc chưa tốt;
- Bên cạnh đó có một số em tốc độ đọc còn chậm, đôi lúc còn phát
âm sai các từ ngữ có âm, vần, thanh khó đọc;
- Các em đọc sai các từ ngữ có âm, vần, thanh dễ phát âm sai;
- Đa số học sinh chưa biết đọc phân biệt lời người kể và lời các nhân vật.
Khảo sát bài Tập đọc: “Người ăn xin”


+ Rất nhiều em đọc chưa trôi chảy, thậm chí các em còn phải đánh vần,


đọc nhỏ;
+ Nhiều em đọc còn sai từ, bỏ sót hoặc thêm từ;
+ Đa số các em chưa ngắt nghỉ hơi phù hợp;
+ Các em chỉ đọc cho xong bài chứ chưa thể hiện cảm xúc, chưa phân
biệt được lời người kể và lời của nhân vật.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của phân môn
Tập đọc lớp Bốn trong nhà trường tiểu học nơi tôi đang dạy. Từ đó, tìm ra một
số biện pháp để giúp học sinh đọc tốt, giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong
đọc văn bản.
3.2.2. Nội dung của giải pháp
Tính mới của giải pháp
Trước đây giáo viên là người chủ động hướng dẫn học sinh đọc, học sinh
chỉ đọc đúng. Hiện nay học sinh tự tìm ra cách đọc, biết nhấn giọng và biết đọc
đúng, đọc diễn cảm; biết chuẩn bị tư thế khi đọc; biết cách đọc đúng, đọc lưu
loát, đọc có ý thức (đọc hiểu), đọc diễn cảm.
Các bước thực hiện của giải pháp
a) Chuẩn bị cho việc đọc
Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh. Khi ngồi đọc cần ngay ngắn,
khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30 - 35 cm, cổ và đầu thẳng. Khi cô giáo
gọi đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Tư thế đứng đọc phải
đàng hoàng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
Mặt khác, tôi cho học sinh hiểu khi đọc thành tiếng: Các em đọc không
phải chỉ cho mình cô giáo nghe mà để cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe,
nên cần đọc đủ to cho tất cả nghe rõ. Nhưng không có nghĩa là đọc quá to hoặc
gào lên. Đối với học sinh đọc quá nhỏ “lý nhí”, tôi kiên nhẫn luyện và động viên

các em đọc to dần.
b) Luyện đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không
2


có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần và tiếng. Đọc đúng
bao gồm đọc đúng các âm thanh, nghỉ ngắt hơi đúng chỗ. Nhưng thực tế cho
thấy đến lớp 4 rồi các em vẫn còn mắc lỗi đọc thừa, sót tiếng thậm chí có em bỏ
qua cả một dòng, có em còn phát âm chưa đúng, ngắt nghỉ chưa đúng chỗ kể cả
những chỗ có dấu câu.
Đầu năm tôi đã phân loại để nắm được trình độ đọc của học sinh, từ đó có kế
hoạch luyện đọc cho từng em. Trước khi lên lớp, tôi dự tính các lỗi học sinh lớp tôi
dễ mắc, những từ, những câu khó lần trước chưa đọc tốt để luyện.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Người ăn xin”
Học sinh A đọc đoạn 1. Học sinh B nhận xét: bạn đọc chưa chính xác
“gặp nát”, sửa lại là: “gặm nát”, “sưng hút” sửa lại là: “sưng húp”... Tôi cho học
sinh A đọc lại cho đúng. Sau đó gọi 2 đến 3 học sinh khác nhắc lại.
Đọc đúng bao gồm đúng cả tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu: khi
nghe người khác đọc, nhờ có chỗ ngắt nghỉ của người đọc thì người nghe mới có
thể phân cắt dòng ngữ lưu ra từng ý mà tiếp nhận. Chỗ ngắt, nghỉ quan trọng
như vậy nhưng thực tế học sinh không ý thức được tầm quan trọng này nên đã
đọc không tách ý, tách câu khiến người nghe rất khó theo dõi và có khi còn phản
ánh một cách hiểu sai nghĩa của nội dung mà văn bản sẵn có. Thực tế cho thấy
khi đọc các bài văn xuôi học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu dài có
cấu trúc ngữ pháp phức tạp, còn khi đọc thơ học sinh mắc lỗi ngắt nhịp do đọc
theo áp lực của thơ một cách tự nhiên chứ không tính đến nghĩa.
Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm, lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho
phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn

giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung câu cầu khiến khác nhau. Ngoài ra còn
phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.
Dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nghỉ hơi. Để
giúp học sinh đọc đúng ngữ điệu, tôi dùng ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài:
“/” dùng khi ngắt hơi, tạo tiết tấu. Dấu “//” để nghỉ hơi dài, gạch dưới những từ
cần nhấn giọng.
3


Ví dụ: Chơi một lúc mới nhớ lời mẹ dặn, em vội chạy một mạch đến cửa
hàng / mua thuốc /rồi mang về nhà. (Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca)
Đối với những bài thơ ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Ví dụ:
Yêu nhiều / nắng nỏ trời xanh
Tre xanh / không đứng khuất mình bóng râm //
(Tre Việt Nam)
Lá trầu / khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều / gấp lại trên đầu bấy nay//
(Mẹ ốm)
Đối với một bài thơ, đoạn văn, câu văn học sinh đọc cá nhân thành tiếng
chưa ngắt nghỉ hơi đúng, tôi cho một học sinh khác đứng tại chỗ thử đọc sau đó
tôi đánh dấu chỗ ngắt nghỉ hơi, nhấn giọng rồi cho học sinh đọc lại.
Ví dụ: bài “Tre Việt Nam”
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông / lạ thường
Lưng trần phơi nắng / phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng / thân tròn của tre
* Đọc mẫu

Là giáo viên, không thể hình thành ở học sinh kĩ năng gì mà bản thân
mình không có, không thể gặt hái những gì mà chính chúng ta không có khả
năng gieo trồng. Muốn học sinh đọc tốt, trước hết giáo viên phải đọc tốt. Chính
vì vậy, tôi rất quan tâm đến việc tự rèn đọc của bản thân để từ đó có thể hướng
dẫn các em đọc tốt hơn.
* Tổ chức các trò chơi rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 4
Trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng”: được tiến hành khi luyện đọc đoạn
Mục tiêu: Giúp học sinh phát hiện và phát âm đúng tiếng, từ, cụm từ
trong bài khó đọc, đồng thời phát hiện những chỗ ngắt nghỉ sai, những chỗ đọc
4


ngữ điệu chưa đúng.
Cách tiến hành: Trò chơi này được thực hiện ở bước luyện đọc đoạn nối tiếp.
- Giáo viên nêu yêu cầu:
+ Phát hiện nhanh những chỗ bạn đọc sai;
+ Em hãy đọc lại cho đúng.
- Học sinh lắng nghe bạn đọc, sau khi kết thúc lượt đọc giáo viên yêu cầu
học sinh trình bày kết quả phát hiện của mình và thực hiện đọc lại trước lớp;
- Học sinh khác nêu nhận xét, bổ sung;
- Giáo viên kết luận và phát âm lại cho chính xác.
* Trò chơi: “Đố vui”: mang tên “Đố em bạn dừng đọc chỗ nào”.
Mục tiêu: Giúp học sinh phát hiện bạn dừng đọc chỗ nào và đọc tiếp bài.
Cách tiến hành: Trò chơi này được tiến hành khi học sinh luyện đọc cả
bài, trong quá trình một học sinh đọc trước lớp giáo viên tổ chức cho học sinh
thi phát hiện bạn “dừng đọc chỗ nào”:
- Học sinh đọc văn bản rồi đột nhiên dừng lại;
- Học sinh cả lớp thi phát hiện bạn dừng đọc ở chỗ nào. Em hãy đọc lại
câu đó và đọc tiếp phần còn lại của bài. Trò chơi này là biện pháp giúp học sinh
tập trung chú ý khi bạn đọc bài, hứng thú chăm chú hơn vào việc luyện đọc,

giúp cho việc luyện đọc hiệu quả.
Qua thực tế áp dụng hai trò chơi trên vào việc dạy học sinh luyện đọc cho
thấy học sinh chăm chú tập trung vào việc luyện đọc, tiết học sôi nổi hơn, kết
quả là số học sinh đọc đúng văn bản nhiều hơn.
c) Luyện đọc lưu loát
Đọc lưu loát là đọc không ê a, ngắc ngứ. Tốc độ đọc nhanh chỉ thực hiện
được khi đã đọc đúng. Khi đọc phải chú ý xác định tốc độ để cho người nghe
hiểu kịp được.
Nhưng đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được
của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. (Tốc độ đọc
thành tiếng lớp 4: cuối học kì I: 80 tiếng/phút, cuối học kì II: 90 tiếng/phút). Khi
đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
5


Tôi hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học
sinh đọc thầm theo. Ngoài ra, tôi còn dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc
nhẩm có sự kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Khi học sinh
đọc cá nhân toàn bài hoặc đọc một khổ thơ, một đoạn văn tôi đều nhắc cả lớp
đọc thầm theo. Tôi còn gây hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi cuối giờ
như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện... Kết thúc trò chơi bao giờ tôi cũng
cho học sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc nhanh nhất, giỏi nhất và gợi ý rút
kinh nghiệm cho lần chơi sau.
Muốn học sinh đọc nhanh, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt,
học sinh phải được đọc trước nhiều. Em nào đọc chậm tôi phải giúp các em
luyện thêm sau giờ học.
d) Luyện đọc có ý thức (đọc hiểu)
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì trong việc dạy
môn Tập đọc phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề
cần thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 4. Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì

mới có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được.
Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Sự thực
thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc thành tiếng
từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn
bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập trung để hiểu nội
dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu
nội dung văn bản đọc.
Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả đọc
thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ
những gì đọc được.
Xây dựng hệ thống câu hỏi để rèn kĩ năng đọc hiểu

.

Muốn học sinh có năng lực, có kỹ năng đọc hiểu tốt giáo viên phải có định
hướng, có kế hoạch sắp xếp thời gian cho việc tìm hiểu bài, phải coi trọng chất
lượng đọc. Không phải nói nhiều, giảng nhiều học sinh sẽ hiểu sâu, cảm thụ tốt
mà cái chính là giáo viên phải biết dừng, biết nhấn ở điểm mấu chốt quan trọng,
6


biết lướt nhanh ở những chỗ không cần thiết. Cần bám vào chủ điểm của bài để
tìm được điểm xoáy, điểm trọng tâm. Giáo viên tập trung hướng dẫn học sinh
thực hiện yêu cầu của các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa. Để giúp học sinh
định hướng hoạt động đọc hiểu, giáo viên nêu rõ câu hỏi hoặc giao nhiệm vụ cụ
thể cho học sinh trước khi đọc (đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào; đọc để biết, hiểu,
nhớ điều gì...).
Sau khi học sinh đọc thầm (hoặc kết hợp theo dõi sách giáo khoa theo một
bạn đọc thành tiếng), giáo viên có thể yêu cầu các em trả lời, trao đổi ngay trước
lớp hoặc nêu ý kiến trong nhóm rồi cử đại diện phát biểu (tuỳ đặc điểm, mức độ

yêu cầu của câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa). Cuối cùng, giáo viên chốt lại
những ý chính để học sinh nắm vững. Câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa có
thể tách thành các ý nhỏ hoặc điều chỉnh, dẫn dắt bằng câu hỏi phụ.
Để giúp các em cảm nhận sâu sắc nội dung bài đọc và dễ dàng nhận thấy
nghệ thuật miêu tả của tác giả. Người dạy cần dẫn dắt để học sinh trả lời đúng
yêu cầu của câu hỏi (tìm từ ngữ hay câu văn ...); tập cho học sinh trả lời theo ý
mình (không cầm sách đọc). Tôi thường áp dụng cách đọc rồi viết câu trả lời ra
giấy hoặc gạch nhẹ bằng bút chì các chi tiết, hình ảnh cần tìm.
Ví dụ: Bài: “Tre Việt Nam”
Cây tre tượng trưng cho con người Việt Nam. Qua hình tượng cây tre, tác
giả ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam: Giàu tình thương
yêu, ngay thẳng, chính trực. Bài thơ có nội dung rất phong phú, từ ngữ giàu hình
ảnh, ở phần tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh đọc thầm bài thơ và nêu câu hỏi
tìm hiểu (yêu cầu các em dùng bút chì gạch nhẹ trong sách giáo khoa).
Những hình ảnh nào của cây tre tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của
con người Việt Nam? (Cần cù: ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù đất sỏi đất vôi
bạc màu; Rễ siêng không ngại đất nghèo / Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Đoàn kết: Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm. / Thương nhau tre chẳng ở riêng
mà mọc thành luỹ. Tre giàu đức hy sinh: Lưng trần phơi nắng, phơi sương, có
manh áo cộc, tre nhường cho con. Ngay thẳng: Nòi tre đâu chịu mọc cong. Búp
măng non đã mang dáng thẳng thân tròn của tre). Sau khi học sinh giải nghĩa
7


một số từ ngữ, để khắc sâu về những nét đặc trưng của cây tre tượng trưng cho
phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam.
Tôi nêu yêu cầu tiếp theo:
Tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả những phẩm chất tốt
đẹp của cây tre tượng trưng cho con người Việt Nam? (nghệ thuật nhân hoá).
Qua cách miêu tả của tác giả về hình ảnh cây tre Việt Nam, em có nhận

xét gì? (Tre có những phẩm chất cũng giống như con người Việt Nam: cần cù,
chịu khó, đoàn kết, hi sinh, ngay thẳng,…).
Một điều cần chú ý trong khi xây dựng hệ thống tìm hiểu bài là câu hỏi
phải phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh. Nhất là với những em yếu cần
phải có hệ thống câu hỏi phụ, câu hỏi dễ có tính chất phát hiện vấn đề cụ thể để
tạo điều kiện cho các em làm việc. Những câu hỏi mang tính tổng hợp, khái quát
thì yêu cầu hoạt động nhóm. Đặc biệt kiêng kị những câu hỏi mà học sinh chỉ trả
lời “có” hoặc “không” hay đọc nguyên văn câu, đoạn trong sách giáo khoa.
Bên cạnh việc giúp học sinh hiểu nội dung bài Tập đọc nói về vấn đề gì
thì hệ thống câu hỏi cần đảm bảo đem lại những hiểu biết gì để mở rộng tầm
nhìn, kiến thức và giáo dục đạo đức cho các em.
Ví dụ: Bài: “Người ăn xin”
Tôi yêu cầu học sinh đọc thầm đoạn 1 và trả lời lần lượt các câu hỏi:
- Khi đi trên đường phố cậu bé gặp ai?
- Hình ảnh ông lão ăn xin đáng thương như thế nào?
- Điều gì khiến ông lão trông thảm thương đến vậy?
- Thấy ông lão đáng thương như vậy thì cậu bé đã làm gì?
- Hành động và lời nói ân cần của cậu bé chứng tỏ tình cảm của cậu bé
đối với ông lão như thế nào?
Cậu bé không có gì ngoài tấm lòng để cho ông lão ăn xin. Ông lão không
nhận được gì, nhưng yêu quý, cảm động trước tấm lòng của cậu. Hai con người,
hai thân phận, hoàn cảnh khác nhau nhưng có sự đồng cảm. Họ cho và nhận từ
nhau sự đồng điệu trong tâm hồn.
Trong phần tìm hiểu bài, sau mỗi ý đã khai thác, tôi gọi các em gối ý, tiểu
8


kết ý để khắc sâu nội dung. Cần chú ý là để các em tự nêu, tự diễn đạt theo ý cá
nhân các em, người dạy chỉ gọt dũa, bổ sung thêm mà thôi. Đây cũng chính là
biện pháp giúp người dạy khắc phục tình trạng nói nhiều giảng nhiều.

Bên cạnh việc đọc đúng, đọc hiểu cần chú ý trong phần liên hệ thực tế.
Liên hệ thực tế không chỉ góp phần củng cố bài, khắc sâu nội dung mà còn thắt
chặt mối quan hệ giữa các phân môn trong Tiếng Việt. Tuỳ vào bài có thể liên hệ
về cách đối xử trong cuộc sống hoặc nhận xét về một khía cạnh của nghệ thuật.
Ví dụ: Bài: “Người ăn xin”
Qua bài đọc, em học tập được điều gì ở cậu bé?
Khi có một người ăn xin tới nhà mình thì em sẽ làm gì?
Xây dựng hệ thống bài tập để rèn kĩ năng đọc hiểu
Dạng 1: Bài tập yêu cầu học sinh chỉ ra trong bài các từ mới hoặc từ mà
các em không hiểu nghĩa. Hình thức bài tập là gạch chân, đóng khung, ghi lại
những từ ngữ không hiểu có ở trong bài.
Lời giải của bài tập sẽ rất khác nhau, phụ thuộc vào học sinh địa phương
nào, sinh sống trong gia đình nào… Vì vậy khi chọn từ để giải nghĩa giáo viên
phải có hiểu biết về từ địa phương đồng thời giáo viên phải chuẩn bị để sẵn sàng
giải nghĩa cho học sinh bất cứ từ nào trong bài mà các em yêu cầu.
Ví dụ: Bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, yêu cầu học sinh cho biết
khổ thơ thứ nhất có từ nào em chưa rõ nghĩa.
Dạng 2: Bài tập yêu cầu giải nghĩa từ quan trọng, từ “chìa khoá” của bài.
Ví dụ: Bài “Văn hay chữ tốt”: Em hiểu thế nào là văn hay chữ tốt?
Dạng 3: Bài tập yêu cầu học sinh phát hiện những câu quan trọng của bài,
những câu nêu đại ý, chủ đề của bài.
Ví dụ: Bài “Trung thu độc lập” có câu “Anh mừng cho các em vui tết
trung thu độc lập đầu tiên…”
Dạng 4: Bài tập yêu cầu khái quát ý của đoạn, bài: Đặt tên cho đoạn văn,
bài văn hoặc viết tiếp vào câu trả lời, như bài này kể (tả, nói) về…
Ví dụ: Bài “Chị em tôi” học sinh đặt tên khác “Hai chị em” “Cô bé ngoan”.
đ) Luyện đọc diễn cảm
9



Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn bản văn
chương hoặc có các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở
kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng, ... để biểu đạt
đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu
hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm
thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng
và đọc lưu loát.
Đối với các bài thơ: Mỗi thể thơ có một cách tổ chức ngôn ngữ riêng, một
cách đọc riêng. Tôi đã chú ý khai thác các điểm khác nhau của mỗi thể thơ để
tìm cách đọc đúng và hay nhất. Khi luyện đọc cho học sinh, tôi hướng dẫn cụ
thể cách đọc làm rõ tính cách điệu của thơ mà vẫn giữ nguyên vẻ tự nhiên của
giọng đọc, tránh lên bổng, xuống trầm một cách máy móc, giả tạo, cần thể hiện
tình cảm khi đọc thơ, phù hợp với nội dung bài đọc;
Đối với văn xuôi: Thơ phản ảnh hiện thực bằng phương pháp trữ tình,
còn văn xuôi phản ánh hiện thực bằng phương thức tự sự, miêu tả (ngôn ngữ
của nhân vật, ngôn ngữ của tác giả). Mà ngôn ngữ của tác giả chính là lời
dẫn chuyện, kể, tả,… Khi đọc cần nhấn giọng vào các từ ngữ gợi tả, ngắt
giọng ở các dấu câu, hạ giọng ở cuối câu kể. Còn ngôn ngữ nhân vật thường
là ngôn ngữ đối thoại, nên phải đọc với giọng đối thoại (ngôn ngữ nói). Để
học sinh có cách đọc đúng, đọc hay tôi lưu ý học sinh một số yêu cầu sau:
- Ngắt giọng biểu cảm: Là cách ngắt giọng thiên về tình cảm, về sự
rung động nội tâm mà không phụ thuộc vào dấu câu, cách ngắt giọng này
phụ thuộc vào tâm hồn người đọc;
- Chọn ngữ điệu thích hợp: Tiếng Việt có kho ngữ điệu phong phú và
đa dạng. Tôi đã vận dụng điều đó vào đọc đúng, đọc hay bài văn, bài thơ.
Đó là sắc thái giọng đọc (vui, buồn, trang trọng, dịu dàng, hồn nhiên...). Đó
là tốc độ đọc, cách ngắt giọng, độ mạnh, độ dài của giọng khi đọc.
Nội dung của bài đọc đã qui định ngữ điệu của nó nên tôi không bao giờ
áp đặt sẵn giọng đọc bài mà để học sinh tự nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu
từ, hiểu nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe, sửa cách đọc của từng học sinh. Tôi

10


cũng luôn kích thích, động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm;
Cứ cuối mỗi giờ Tập đọc tôi thường yêu cầu học sinh:
- Em hãy đọc đoạn văn (hoặc khổ thơ) mà em thích nhất cho cô và cả lớp
cùng nghe;
- Em hãy đọc diễn cảm cả bài văn (hoặc bài thơ).
Hoặc tôi tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng
kịch… (đối với các tác phẩm có nhiều lời thoại).
Vì vậy, trong giờ Tập đọc lớp tôi các em rất thích tham gia đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm chỉ có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm
yêu cầu đọc đúng giọng, phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với
kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi
tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả theo cách cảm nhận của học sinh.
Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng (kỹ thuật
ngắt giọng biểu cảm), làm chủ được tốc độ đọc (độ nhanh, chậm, chỗ ngân hay
dãn nhịp đọc), làm chủ cường độ giọng (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không)
và làm chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng).
Ví dụ: Bài “Mẹ ốm” được viết theo thể thơ lục bát, câu 8 tiếng thường
được ngắt nhịp 4/4. Tuy nhiên có những câu nếu ngắt nhịp 4/4 sẽ mất hay, mà
phải ngắt nhịp 2/6
Truyện Kiều / gấp lại trên đầu bấy nay.
Ruộng vườn / vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Tốc độ đọc ảnh hưởng đến sự diễn cảm, đặc biệt là chỗ có thay đổi tốc độ
gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt. Lên giọng, xuống giọng khi đọc một bài tập
đọc tạo ra một hiệu quả nghệ thuật cao. Trong từng bài tập đọc, các em cũng cần
có giọng đọc thích hợp;
Ví dụ: Khi đọc bài “Trung thu độc lập” đọc chậm rãi, ngân dài ở đoạn 1,
2; nghỉ hơi dài ở câu “Anh nhìn trăng và nghĩ tới ngày mai…”, chuyển giọng

nhanh và vui hơn ở đoạn 3.
Đoạn 1: Nhấn mạnh các từ tả vẻ trong sáng, đẹp đẽ của trung thu độc lập
qua các từ: bao la, vằng vặc.
11


Đoạn 2: Nhấn mạnh các từ ngữ nói lên lòng tin tưởng của anh chiến sĩ ở
tương lai của đất nước như: Các em có quyền, các em sẽ thấy, cũng dưới ánh
trăng này...
Như vậy, ngữ điệu là sự hoà đồng của chỗ ngừng, tốc độ, chỗ nhấn giọng,
cao độ... tạo nên âm hưởng của bài đọc. Đọc diễn cảm là sự sử dụng ngữ điệu để
diễn tả cảm xúc của bài đọc. Hoà nhập được với bài văn, bài thơ, có cảm xúc
sẽ tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính văn bản qui định ngữ điệu cho người đọc
chứ không phải người đọc tự đặt ra ngữ điệu.
Để đọc diễn cảm hay, tôi luôn đàm thoại cho học sinh hiểu ý đồ tác giả,
thảo luận vì sao đọc như vậy. Sử dụng hình thức đọc phân vai. Hay khi học sinh
đọc cá nhân, giáo viên đọc mẫu, tôi thường đặt câu hỏi: Vì sao đọc như thế? Chỗ
nào trong cách đọc của cô làm con thích;
Những học sinh đọc còn kém, tôi kiên trì luyện tập thêm, không bỏ qua
mà cũng không đòi hỏi ráo riết. Tôi còn tổ chức theo nhóm để các em khá, giỏi
kèm các em kém.
e) Chú ý đọc mẫu của giáo viên và ghi bảng
Đọc mẫu của giáo viên
GV đọc mẫu tốt cũng đã dạy học sinh đọc rất nhiều. Bởi vậy, trước giờ
Tập đọc, tôi phải nghiên cứu nội dung, cách đọc và tập đọc nhiều lần.
Có nhiều cách đọc mẫu:
- Đọc mẫu toàn bài: để giới thiệu, gây hứng thú cho học sinh;
- Đọc câu, đoạn: Giúp học sinh nhận xét, giải thích, tìm ra cách đọc.
Vậy là, tuỳ theo từng bài mà giáo viên đọc cả bài hoặc một đoạn. Đọc vào
đầu tiết hay cuối tiết hoặc lúc nào cần đọc mẫu cho học sinh.

Ví dụ: Dạy bài: “Một người chính trực”, tôi đọc mẫu đoạn 3, đó là đoạn
khó đọc, học sinh đọc chưa tốt.
g) Cách trình bày bảng
Bảng lớp cũng là một đồ dùng trực quan giúp học sinh đọc tốt. Chính vì
vậy, tôi luôn trình bày bảng gọn, rõ, đảm bảo tính đặc trưng của bộ môn để học
sinh nhìn vào cũng có được cách đọc.
12


h) Các giải pháp hỗ trợ
- Giáo viên cần thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình học
tập của học sinh, đặc biệt là những em học yếu;
- Giáo viên luôn khiêm tốn học hỏi bạn bè và đồng nghiệp;
- Phụ huynh cần dành nhiều thời gian để quan tâm, động viên các em;
- Học sinh phải nêu cao ý thức tự học, tự rèn, tích cực học tập;
- Duy trì phong trào “Đôi bạn cùng tiến” giúp nhau trong học tập;
- Tổ chức sinh hoạt 15 phút đầu buổi, các buổi học ngoại khoá có chất
lượng: Thi đua nhóm đôi cách đọc một đoạn văn, đoạn thơ hay các từ ngữ khó;
- Cán bộ phụ trách học tập của lớp phải nhiệt tình, có năng lực để quản lí lớp;
- Học sinh phải nêu cao tinh thần phê và tự phê để cùng nhau tiến bộ.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Trên đây là sáng kiến nhỏ mà tôi đã áp dụng để dạy phân môn Tập đọc ở
lớp 4 trường tôi. Tôi sẽ áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao khả năng đọc cho
học sinh. Với phương pháp rèn đọc trên sẽ có tiền đề để học sinh tiếp tục học
môn Tập đọc ở lớp 5 đạt kết quả tốt. Giải pháp này có thể áp dụng cho tất cả
giáo viên dãy lớp 4 ở trường Tiểu học.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
a) Đối với thầy cô giáo
Tôi tự thấy đã tìm được hướng đúng, cách làm đúng cho việc dạy Tập đọc:

Dạy đúng đặc trưng bộ môn. Tôi thấy rất say sưa, hứng thú khi rèn đọc cho học
sinh. Các tiết dạy tập đọc của tôi không bị biến thành giờ giảng văn, cô giảng là
chính, trò chỉ ngồi nghe… nặng nề, khô khan nữa.
b) Đối với học sinh
Học sinh lớp tôi không còn ngại ngùng, e dè khi đọc diễn cảm trước cả
lớp (hay lúc có đông người dự), không còn đọc qua loa, nhanh cho xong bài.
Khảo sát bài tập đọc: “Cánh diều tuổi thơ” tôi thu được kết quả như sau:
- Đa số học sinh đọc trôi chảy, ngắt nhịp đúng lúc, nhấn giọng đúng
chỗ, lên xuống, nhanh chậm tuỳ lúc với bài văn;
13


- Một số em không chỉ đọc trôi chảy, đọc lưu loát mà còn diễn đạt tình
ý cơ bản của bài văn bằng giọng đọc có xúc cảm;
- Nhiều em đọc đúng các từ ngữ có âm, vần, thanh dễ phát âm sai;
- Nhiều em đã biết đọc phân biệt lời người kể với lời các nhân vật;
- Không còn học sinh ngắc ngứ, lý nhí;
- Các em đọc chậm, phát âm sai các từ ngữ có âm, vần, thanh khó đọc
đã giảm rõ.
Từ kết quả trên tôi nhận thấy:
- Muốn rèn cho học sinh đọc tốt, trước hết người thầy phải có nghiệp vụ
sư phạm tốt, đặc biệt là đọc mẫu của thầy. Do đó thầy cô phải có sự chuẩn bị chu
đáo;
- Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy
học đạt kết quả cao nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều
khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi;
- Giáo viên cần tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình, sách giáo
khoa, sách hướng dẫn;
- Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong soạn giảng, phát
hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trong học sinh. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn,

sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận tình, chu đáo;
- Luôn động viên, khuyến khích khi các em có tiến bộ, rèn cho các em
đọc trước đám đông.
- Mỗi bài Tập đọc là một dịp cho các em có kiến thức và rèn kĩ năng đọc.
Vì vậy giáo viên cần hết sức linh hoạt để làm cho tiết Tập đọc trở thành một tiết
học hứng thú và bổ ích. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung từng loại văn
bản mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc cho học sinh
trong giờ Tập đọc. Trong thực tế giảng dạy, mỗi người đều có những suy nghĩ,
kinh nghiệm, bí quyết riêng của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy và học./.
................, ngày ... tháng ... năm ....
NGƯỜI VIẾT
14


15



×