Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của ủy ban nhân dân thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh, giai đoạn 2016 2020 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.47 KB, 57 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN ĐÌNH SƠN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
THỊ XÃ TỪ SƠN GIAI ĐOẠN 2016- 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNHTRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
THỊ XÃ TỪ SƠN GIAI ĐOẠN 2016- 2020

Người thực hiện: NGUYỄN ĐÌNH SƠN
Lớp: CCLLCT B10 - 15
Chức vụ công tác: Phó Chánh thanh tra
Cơ quan: Thanh tra thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN


Sau thời gian nghiên cứu, học tập tại Học viện Chính trị Khu vực I, được
sự giúp đỡ quý báu của các thầy giáo, cô giáo và các bạn bè đồng nghiệp tôi đã
hoàn thành Đề án: Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban
nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, giai đoạn 2016-2020.
Cho phép Tôi được bày tỏ lời cảm ơn Học viện Chính trị Khu vực I,
cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến
GVC. Thạc sĩ Đồng Ngọc Dám - Khoa Nhà nước và Pháp luật, người trực
tiếp cố vấn, đôn đốc em trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Đề án.
Tôi xin chân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Thị ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân thị xã, Thanh tra thị xã Từ Sơn và các đồng
nghiệp đã tạo điều kiện, tư vấn, giúp đỡ Tôi hoàn thành Đề án này.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn Đề án của Tôi vẫn còn có
rất nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình, góp ý của các
thầy giáo, cô giáo cùng tất cả các bạn đồng nghiệp; đó sẽ là hành trang quý
giá giúp Tôi hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 18 tháng 4 năm 2016
NGƯỜI VIẾT ĐỀ ÁN

Nguyễn Đình Sơn


DANH MỤC VIẾT TẮT
UBND:

Ủy ban nhân dân

HĐND:


Hội đồng nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VSIP:

Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ Việt Nam-Singapore


MỤC LỤC
Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về giải quyết
khiếu nại, tố cáo;.............................................................................................12


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc mở rộng
dân chủ và tăng cường pháp chế XHCN bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Việc mở rộng dân chủ phải gắn liền với xây dựng hoàn thiện hệ
thống chính trị từ Trung ương đến tận cơ sở. Đây vừa mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới đất nước.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền lợi cơ bản của công dân đã
được Hiến pháp ghi nhận. Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992
càng được ghi nhận cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc khiếu
nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo được giải quyết đúng theo quy định của pháp luật sẽ
bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của công dân, phát huy được quyền

dân chủ của công dân trong việc tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, chống các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng,
buôn lậu và các biểu hiện tiêu cực khác, góp phần bảo vệ kỷ cương pháp luật,
mở rộng thiết chế XHCN, giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, tình hình khiếu nại, tố cáo đang đặt ra
những vấn đề hết sức bức xúc, phức tạp cần giải quyết một cách toàn diện, việc
khiếu nại, tố cáo của công dân ngày một gia tăng về số lượng cũng như tính chất
phức tạp, nhiều vụ nếu giải quyết không kịp thời dễ trở thành “điểm nóng” gây ảnh
hưởng đến an ninh trật tự và tình hình kinh tế - xã hội ở một số địa phương và có
nguy cơ lây lan trong phạm vi rộng.
Về mặt chủ quan, có thể nói chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện
nay cũng còn nhiều hạn chế, tồn tại, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo ở
nhiều nơi chưa cao, tình trạng chuyển đơn vòng vo, đùn đẩy, né tránh diễn ra
khá phổ biến, dẫn đến tình trạng đơn thư gửi vượt cấp, một số vụ khiếu nại, tố


2
cáo phức tạp tồn đọng, kéo dài nhưng không được giải quyết dứt điểm, đây là
vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Mặt khác, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân chưa được thường xuyên,
liên tục và sâu rộng. Từ đó dẫn đến việc nhận thức về pháp luật còn hạn chế,
việc áp dụng pháp luật giữa các cơ quan nhà nước còn chưa thống nhất, tùy
tiện nên trong quá trình điều hành của cơ quan nhà nước, viên chức, công
chức trong khi thi hành công vụ không tránh khỏi những hạn chế, sai sót làm
nảy sinh việc khiếu nại, tố cáo của công dân, đây cũng là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng khiếu kiện hành chính hiện nay.
Phát sinh khiếu nại, tố cáo có một phần do yếu tố khách quan tác động
từ bên ngoài. Trong những người tham gia khiếu kiện có những người khiếu
tố đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công minh nhưng cũng có một

số người mặc dù khiếu kiện không liên quan đến mình đã được cơ quan có
thẩm quyền xem xét giải quyết, xử lý đúng pháp luật nhưng vì thiếu hiểu biết
hoặc cố chấp mà vẫn cố tình khiếu nại kéo dài. Một số phần tử quá khích,
thậm chí coi thường pháp luật, một số ít có động cơ chính trị cũng nhân dịp
này kích động gây rối ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị.
Một yếu tố khách quan nữa là do cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà
nước ta chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội,
nhiều lĩnh vực, nhiều ngành phát sinh nhiều mối quan hệ pháp luật nhưng
chưa có chế tài để điều chỉnh. Trong thực tế, một số văn bản hướng dẫn để thi
hành luật, pháp lệnh ban hành còn chậm, luật đã có hiệu lực nhưng chưa có
nghị định hướng dẫn, tính ổn định lâu dài của pháp luật chưa cao phải bổ
sung, điều chỉnh nhiều lần, cá biệt có một số văn bản quy phạm pháp luật còn
xung đột, thiếu sự đồng bộ, thống nhất, nên gặp khó khăn, vướng mắc trong
quá trình tổ chức thực hiện và áp dụng để giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ một vai trò vô
cùng quan trọng: Là phương tiện thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng,


3
để Nhà nước quản lý xã hội, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Trong các hoạt động quản lý xã hội không thể không nói đến hoạt động thanh
tra nhà nước, đó là một tất yếu khách quan của quản lý nhà nước, là phương
thức đảm bảo pháp chế và tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực
hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của công tác thanh tra thể
hiện trên hai mặt chính: Thanh tra và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Tuy
nhiên trên thực tế việc thực hiện pháp luật còn có các vấn đề như: thực hiện
không đúng, không đủ; năng lực áp dụng pháp luật còn hạn chế, những tiêu
cực, vụ lợi trong hoạt động quản lý…làm ảnh hưởng, không đáp ứng đủ hoặc
thiệt hại đến những quyền lợi ích hợp pháp của công dân dẫn đến tình trạng
người dân bức xúc phải khiếu kiện hoặc cũng do chính họ không hiểu hoặc vì

những động cơ cá nhân khác nhau mà cố tình khiếu kiện sai.
Từ Sơn là thị xã cửa ngõ của tỉnh Bắc Ninh, là đô thị vệ tinh của Thủ
đô Hà Nội và là một trong hai trung tâm kinh tế - văn hóa - giáo dục của tỉnh
Bắc Ninh (sau Thành phố Bắc Ninh). Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển của cả nước, Thị xã Từ Sơn tiếp tục có bước phát triển năng động, toàn
diện về nhiều mặt của đời sống xã hội, quá trình đô thị hóa và phát triển công
nghiệp trên địa bàn diễn ra mạnh mẽ với nhiều khu công nghiệp, nhiều làng
nghề truyền thống nổi tiếng như Đa Hội, Đồng Kỵ, Phù Khê, Hương Mạc...
đã giúp cho nhân dân trong và ngoài Thị xã có nhiều cơ hội tìm kiếm việc
làm, nâng cao thu nhập, đời sống của nhân dân được nâng lên cả về vật chất
lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng đó, những vấn đề bức
xúc trong đời sống nhân dân phát sinh từ việc thực hiện các chính sách về đền
bù, hỗ trợ khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để phát triển công nghiệp, tình
trạng ô nhiễm môi trường, thiếu việc làm hoặc không đáp ứng được yêu cầu
của công việc, các giá trị văn hóa truyền thống bị mai một, các tệ nạn cờ bạc,
trộm cắp, ma túy, mại dâm...có chiều hướng ra tăng. Những vấn đề trên là


4
nguyên nhân chính dẫn đến một thực trạng đó là tình hình khiếu nại, tố cáo
của người dân ngày càng phức tạp cũng như mất ổn định về an ninh trật tự xã
hội trên địa bàn thị xã.
Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập, hiệu quả chưa đạt yêu cầu. Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
chưa giảm, thậm chí có nơi tình hình khiếu kiện có diễn biến phức tạp ảnh
hưởng đến tình hình an ninh chính trị và phát triển kinh tế của địa phương.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân góp phần rất quan trọng trong việc đảm bảo ổn định an
ninh, chính trị và phát triển kinh tế - xã hội ở thị xã Từ Sơn, Tôi mạnh dạn

chọn đề án nghiên cứu với nội dung: “Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Ủy ban nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, giai đoạn
2016-2020”.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Đề án đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế để nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 2016-2020.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Từ năm 2016 đến 2020 giảm đáng kể số lượng đơn thư khiếu nại, tố
cáo sai của công dân. Các khiếu nại, tố cáo được giải quyết đúng pháp luật,
thấu tình đạt lý, công dân hài lòng với kết quả giải quyết, không khiếu nại, tố
cáo tiếp hoặc không khởi kiện ra Tòa án.
- Cán bộ, công chức, Thanh tra viên làm công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo sẽ được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đáp ứng tốt các yêu cầu
đòi hỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
- Tỷ lệ đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được giải quyết dứt điểm
luôn đạt từ 90% đến 95%/tổng số thụ lý trong năm.


5
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của UBND thị xã Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh, người trực tiếp thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
là Chủ tịch UBND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Không gian
Trên địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
3.3. Thời gian
Các số liệu thu thập, phân tích, nghiên cứu của Đề án trong thời gian

UBND thị xã Từ Sơn giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân từ
năm 2011 đến 31/12/2015; đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo của UBND thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016
đến 2020.


6
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khi xã hội chưa có giai cấp thì ban đầu là những mâu thuẫn giữa các
cộng đồng người, các bộ tộc với nhau. Điều chỉnh những mâu thuẫn đó là
những quy tắc xã hội như tập quán, tín điều, tôn giáo, được mọi người thực
hiện một cách tự nguyện. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, cùng với
nó là những mâu thuẫn trong xã hội không thể điều hòa được đã xuất hiện giai
cấp, đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Để đảm bảo giữ vững vị trí của
mình, giai cấp thống trị đã có các chính sách giải quyết phù hợp, điều hòa các
lợi ích đó là hương ước, quy ước ban đầu của xã hội để mọi người thực hiện,
đó cùng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong xã hội thời kỳ đầu phân
chia giai cấp.
Trong xã hội cũ, để yêu cầu giải quyết bất bình đẳng trong xã hội về
quyền lợi kinh tế, chính trị người dân thường tìm đến các hình thức như đánh
trống kêu oan, đến công đường kêu kiện hoặc viết đơn gửi hệ thống chính quyền
các cấp để giải bày oan ức mong được giúp đỡ đó chính là tiền đề của khiếu nại,
tố cáo. Trong thế giới hiện đại quyền con người nói chung và quyền khiếu nại
nói riêng được công nhận, cam kết, bảo đảm và được ghi trong các Công ước,
Hiệp ước, Hiến chương quốc tế.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, mặc dù trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc vì phải chống

các loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm…nhưng do thấm nhuần quan
điểm về quyền con người, quyền dân chủ, quyền hạnh phúc của người dân,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xem
xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngày 23 tháng 11 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc


7
biệt. Việc nhận đơn thư khiếu tố được đặt ở tầm cao ngang với việc đi giám
sát công việc thực tế ở các cấp chính quyền. Nếu Điều 1 ghi là: “Chính phủ sẽ
lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả công
việc và nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”, thì
Điều 2 qui định: “Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra hỏi chứng, xem
xét các giấy tờ của Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần
thiết cho công việc giám sát”.
Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng minh được vị trí và vai trò tiên
phong lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giành,
bảo vệ chính quyền, thống nhất đất nước và hiện đang xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ một đất nước phong kiến nửa thuộc địa, gánh chịu hậu quả từ nhiều
cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đánh giá rất
đúng đắn về sứ mệnh lịch sử của nhân dân lao động, quyền lợi của nhân dân
đặt tiêu chí hàng đầu là xây dựng tổ quốc Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Song không tránh khỏi những tồn
tại, hạn chế trong hoạt động quản lý xã hội, nguyên nhân từ những tàn dư của
tư tưởng phong kiến lạc hậu, trình độ của một bộ phận cán bộ thực thi nhiệm
vụ còn non kém, hệ thống chính quyền các cấp chưa được kiện toàn; Pháp
luật chưa hoàn thiện và trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên không
tránh khỏi những hành vi, vi phạm quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của nhân dân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức….
- Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức

đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật
cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Luật Khiếu nại
năm 2011).


8
- Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định
giải quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại theo luật định.
- Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức (Luật Tố cáo năm 2011).
- Giải quyết tố cáo là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và
việc quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
tố cáo theo luật định.
- Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo:
+ Một là, thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên có thể kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động
của cấp dưới. Để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu
kém và xử lí hành vi vi phạm pháp luật để xây dựng một nền hành chính vững
mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
+ Hai là, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hoạt động bảo
đảm pháp chế trong quản lí nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích của nhà Nước, xã hội, bảo vệ trật tự
kỷ cương, trật tự pháp luật, xử lí những hành vi vi phạm pháp luật.
+ Ba là, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vừa bảo đảm

quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và
sức mạnh, trí tuệ của nhân dân trong việc tham gia quản lí nhà nước, vừa bảo
đảm kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý
hành chính nhà nước.
+ Bốn là, giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, nâng cao hoạt động quản lý hành chính nhà nước và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.


9
- Đặc điểm của khiếu nại và giải quyết khiếu nại:
Một là, mục đích của khiếu nại là bảo vệ và khôi phục lại quyền và lợi
ích của người bị khiếu nại đã bị quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước xâm hại.
Hai là, về chủ thể khiếu nại, Khoản 1 Điều 1 và Điều 101 Luật khiếu
nại thì chủ thể có quyền khiếu nại bao gồm: công dân, cơ quan, tổ chức, cán
bộ công chức; cá nhân, tổ chức nước ngoài có quyền và lợi ích hợp pháp liên
quan trực tiếp đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
Ba là, đối tượng của khiếu nại hành chính là các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong các
cơ quan nhà nước.
Bốn là, khiếu nại được thực hiện theo thủ tục hành chính được quy định
trong Luật khiếu nại, Luật tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Năm là, giải quyết khiếu nại là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, chỉ được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, một lần nữa cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước xem lại
hành vi, quyết định hành chính đã ban hành
- Đặc điểm của giải quyết tố cáo:

Một là, mục đích của tố cáo không chỉ để bảo vệ quyền và lợi ích của
người tố cáo mà còn để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và của tập thể,
của cá nhân khác và nhằm phòng ngừa, trừng trị kịp thời, áp dụng các biện
pháp nghiêm khắc để loại trừ những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
Hai là, chủ thể thực hiện quyền tố cáo theo như quy định trong Luật
khiếu nại, Luật tố cáo chỉ có thể là công dân. Khác với khiếu nại, là cả công
dân, cơ quan tổ chức đều có quyền khiếu nại, nhưng thực hiện quyền tố cáo chỉ


10
quy định cho đối tượng là cá nhân, quy định này nhằm cá thể hoá trách nhiệm
của người tố cáo, nếu có hành vi cố tình tố cáo sai sự thật thì tuỳ theo tính chất,
mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Ba là, đối tượng tố cáo là các hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Bốn là, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Khác với khiếu nại, người khiếu nại
phải thực hiện quyền khiếu nại với đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại của mình thì đối với tố cáo, người tố cáo có thể tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật đến cơ quan nhà nước. Nếu không thuộc thẩm quyền giải
quyết thì cơ quan đó có trách nhiệm chuyển đơn tố cáo.
1.1.2. Khái niệm về hiệu quả và tiêu chí đánh giá
- Hiệu quả là đạt được một kết quả giống nhau nhưng sử dụng ít thời
gian, công sức và nguồn lực nhất.
Hiệu quả trong giải quyết khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo được những
yếu tố cơ bản sau:
+ Không quá thời hạn giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng theo quy định của pháp luật.

+ Quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo đảm bảo tính khả thi.
- Tiêu chí đánh giá hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Để đánh giá mức độ hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
dựa trên 3 mức:
+ Hiệu quả cao: Tỷ lệ giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo trong
năm đạt từ 90% đến 100%.
+ Hiệu quả khá: Tỷ lệ giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo trong
năm đạt từ 80% đến 90%.


11
+ Hiệu quả trung bình: Tỷ lệ giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo
trong năm đạt từ 70% đến 80%.
+ Hiệu quả thấp: Tỷ lệ giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo trong
năm nhỏ hơn 70%.
1.2. Cở sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Với bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
lấy dân làm gốc. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nhân dân là mục tiêu,
động lực hoạt động đồng thời tạo mọi điều kiện cho nhân dân phát huy quyền
làm chủ của mình. Trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
cũng như các văn bản pháp luật ghi nhận công dân có quyền khiếu nại, tố cáo.
Thông qua quyền khiếu nại, tố cáo nhân dân phát hiện ra những sai phạm,
thiếu sót của cán bộ, cơ quan nhà nước và các tổ chức... từ đó đề xuất, kiến
nghị hoàn thiện đối với các hoạt động quản lý nhà nước. Đồng thời cũng qua
giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù
hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở
thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một
vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để nâng cao

hơn nữa về trách nhiệm, hiệu quả đối với công tác lãnh chỉ đạo giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, Ban Bí Thư và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều
văn bản như:
Chỉ Thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí Thư Trung ương
Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại,
tổ cáo hiện nay:
“1. Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải đặc biệt quan tâm đến
việc tiếp dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân...


12
2. Đảng ủy, ban cán sự đảng các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư
pháp chỉ đạo rà soát, phân loại các vụ việc khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư
pháp, có kế hoạch giải quyết và chỉ đạo cấp dưới giải quyết các khiếu nại, tố
cáo đó ....
3. Cần làm tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện đúng
quyền khiếu nại, tố cáo, thực hiện việc khiếu nại, tố cáo một cách có trật tự,
đúng pháp luật, đến đúng cấp và cơ quan có thẩm quyền, đúng nơi quy định...
4. Đối với những người lợi dụng dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân để kích động, xúi giục, tổ chức đông người đi khiếu kiện và có hành vi
gây mất trật tự an ninh phải nghiêm khắc phê phán, lên án; phải vạch mặt kẻ
xấu cho nhân dân biết và cảnh giác, đồng thời xử lý nghiêm theo pháp luật....
5. Đảng đoàn Quốc hội đề nghị với ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội tăng cường thực hiện chức năng giám
sát các cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng thực hiện tốt việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân về hành chính, dân sự, kinh tế và tư pháp...
6. Các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
hữu quan tuyên truyền pháp luật khiếu nại, tố cáo để mọi người hiểu rõ chính
sách, pháp luật, biểu dương kịp thời những điển hình tốt ...”
Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị về giải

quyết khiếu nại, tố cáo;
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về “tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại,
tố cáo”.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo đúng luật, chất lượng và
hiệu quả, góp phần đảm bảo thực hiện tốt quyền lực của nhân dân, thắt chặt mối
quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, thể hiện được bản chất Nhà nước của dân,
do dân, vì dân của Nhà nước ta.


13
Như vậy, khiếu nại, tố cáo là quyền rất quan trọng của nhân dân, thể
hiện bản chất dân chủ của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, đồng thời nó cũng
là một trong những phương thức thể hiện quyền dân chủ của nhân dân, là một
trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ
máy nhà nước.
1.2.2. Cơ sở pháp lý:
Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật,
góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức;
tạo cơ sở pháp lý trong giải quyết khiếu nại, tố cáo Nhà nước ta đã ban hành:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
- Luật khiếu nại năm 2011.
- Luật tố cáo năm 2011.
- Nghị định số 75/2012 ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật khiếu nại.
- Nghị định số 76/2012 ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật tố cáo.
- Thông tư 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định về quy trình giải quyết tố cáo.

- Thông tư 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính
phủ quy định về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.
- Luật Tiếp công dân năm 2013.
Căn cứ theo các quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các văn
bản hướng dẫn thi hành, thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện (quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) như sau:
+ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với Quyết định hành chính, hành vi
hành chính của mình; giải quyết khiếu nại lần hai đối với Quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan


14
thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu
nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết;
+ Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, người đứng đầu,
cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và
cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Cùng với sự phát triển của cả nước trong công cuộc đổi mới, thị xã Từ
Sơn trải qua gần 20 năm kể từ khi tái lập năm 1999, thị xã Từ Sơn đã có
những bước phát vượt bậc triển về kinh tế, xã hội. Cùng với đó, đội ngũ cán
bộ, công chức thị xã đặc biệt là những người làm công tác tham mưu, giải
quyết khiếu nại, tố cáo đã đúc rút được những kinh nghiệm quý báu trong quá
trình thực thi công vụ.
Trải qua gần 20 năm, thị xã Từ Sơn đã thực hiện hàng ngàn lượt tiếp
công dân cũng như đã giải quyết hàng ngàn vụ việc khiếu nại, tố cáo trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đất đai trong đó có nhiều vụ
việc đông người phức tạp, bức xúc, có nguy cơ gây mất trật tự an ninh, chính
trị tại địa phương liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành từ tỉnh đến cấp cơ sở.

Ví dụ như: Vụ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của một số công dân thôn
(nay là khu phố) Dương Lôi, phường Tân Hồng liên quan đến giải phóng mặt
bằng khu công nghiệp Tiên Sơn; vụ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
một số công dân xã Phù Chẩn liên quan đến các vấn đề giải phóng mặt bằng
khu công nghiệp VSIP; vụ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của một số
công dân khu phố Trịnh Nguyễn, phường Châu Khê liên quan đến giải phóng
mặt bằng dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải thị xã Từ Sơn … Quá trình
tham gia giải quyết những vụ việc như vậy đã để lại những kinh nghiệp quý
báu trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND thị xã.


15
Mặt khác, hiện nay trên địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tại các cơ
quan làm việc của Thị xã và trụ sở tiếp công dân của UBND thị xã, UBND
các xã, phường công dân thường xuyên đến gửi đơn thư khiếu nại, tố cáo, đề
nghị trong đó có nhiều vụ việc rất phức tạp và gây bức xúc. Một số vụ việc có
thể do cá nhân đứng đơn với yêu cầu độc lập, có khi là quyền lợi của cả
nhóm, của cả tập thể nên cùng ký tên trong đơn và đòi hỏi giải quyết quyền
lợi chung. Các nội dung khiếu nại, tố cáo, đề nghị chủ yếu của nhân dân như
việc giải quyết các chính sách bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất chưa thoả
đáng, đòi lại đất cũ, chính sách xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản; kiến nghị, tố
cáo các hành vi tham ô, tham nhũng, đề nghị thực hiện các kết luận sau thanh
tra, kiểm tra… đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, xã hội trên
địa bàn.
Tuy nhiên, việc tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư và việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, đề nghị của UBND thị xã cũng như của
UBND các xã, phường trên địa bàn thị xã vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng được nhu cầu giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo, đề nghị của công dân.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND thị xã cũng như UBND các
xã, phường còn có nhiều vụ việc chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục giải quyết,

kết quả giải quyết chưa đảm bảo yêu cầu khách quan, chính xác, kết quả xử lý
khó khả thi hoặc không khả thi… gây bức xúc không nhỏ trong nhân dân.
Do vậy, yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của
UBND thị xã trong giai đoạn hiện nay vừa là yêu cầu khách quan và đồng
thời là cơ sở thực tiễn để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo
đảm pháp chế trong quản lí nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích của nhà Nước, xã hội, bảo vệ trật tự
kỷ cương, trật tự pháp luật, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh,
trí tuệ của nhân dân trong việc tham gia quản lí nhà nước, đảm bảo an ninh
chính trị, ổn định kinh tế, xã hội địa phương.


16
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, thực hiện có
hiệu quả cải cách về tư pháp và hệ thống pháp luật, trong đó nổi bật là hoạt
động cải cách thủ tục hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Cơ chế giải
quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những thể chế rất quan trọng thuộc lĩnh
vực quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Hoàn thiện cơ chế này sẽ góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hành chính công, tăng cường việc
thực thi các quyền công dân. Chính vì vậy mà quy định pháp luật về khiếu
nại, tố cáo luôn được chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện. Từ Pháp lệnh về giải
quyết khiếu nại, tố cáo năm 1991 đến Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998; sửa
đổi bổ sung năm 2004, 2005; năm 2011 Quốc hội đã ban hành 2 đạo luật mới
đó là Luật khiếu nại và Luật Tố cáo.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động hành chính của
Nhà nước được pháp luật công nhận và bảo hộ. Theo quy định tại khoản 1Điều 30 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại,
tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Mặc dù pháp luật khiếu nại, tố cáo đã được chỉnh sửa, hoàn thiện nhiều
lần nhưng thực tiễn cho thấy những năm gần đây trong cả nước có rất nhiều vụ
việc khiếu nại, tố cáo phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng,
nhiều vụ việc khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp lên Trung ương gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh, chính trị.
Tỉnh Bắc Ninh trong những năm vừa qua, tình hình đơn thư khiếu nại,
tố cáo diễn ra khá phức tạp, nảy sinh nhiều điểm nóng trên địa bàn tỉnh. Các
nội dung khiếu nại, tố cáo tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đất đai, đặc biệt là
các nội dung liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng các dự án trên
địa bàn tỉnh.


17
Trong 3 năm, từ năm 2012 đến 2015, các cơ quan hành chính nhà nước
tỉnh đã tiếp 10.206 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo 4.310 vụ việc; có 172
lượt đoàn đông người đến phản ánh 155 vụ việc. Tiếp nhận 735 đơn khiếu nại
572 vụ việc; 532 đơn tố cáo 487 vụ việc. Nội dung các vụ việc khiếu nại chủ
yếu liên quan đến đất đai, nhà ở, chính sách xã hội, kỷ luật đảng và kỷ luật
hành chính đối với cán bộ, công chức, vi phạm hành chính. Nội dung tố cáo
chủ yếu tố cáo cán bộ, công chức lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, vi phạm
trong quản lý, sử dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản,
thực hiện chính sách xã hội…
Kết quả, các cơ quan hành chính đã giải quyết 432/440 vụ khiếu nại
thuộc thẩm quyền, đạt 98%; kiến nghị thu hồi cho Nhà nước 238,5 triệu đồng;
trả lại cho công dân 78,6 triệu đồng, 1.926 m2 đất; bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho 5 người; kiến nghị xử lý vi phạm hành chính 7 người. Đã giải quyết
314/327 vụ tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt 96%; kiến nghị thu hồi cho Nhà nước
5.803 triệu đồng, 31.481 m2 đất; trả lại cho công dân 513,5 triệu đồng; minh
oan cho 51 người; kiến nghị xử lý vi phạm hành chính đối với 73 người,
chuyển cơ quan điều tra 04 vụ, 29 người.

Trên địa bàn tỉnh có 33 vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng,
kéo dài, chủ yếu là khiếu nại liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ, thực hiện
chính sách tái định cư khi nhà nước thu hồi đất làm dự án phát triển kinh tế xã hội. Đến nay đã có 13 vụ việc giải quyết hết thẩm quyền; 05 vụ đang xem
xét giải quyết; 15 vụ tiếp tục chỉ đạo các cấp, ngành tập trung giải quyết.
Trong bối cảnh đó, Từ Sơn là thị xã nằm giữa Hà Nội và thành phố Bắc
Ninh và cũng là một trong hai trung tâm của trấn Kinh Bắc xưa ; phía bắc giáp
huyện Yên Phong, có dòng sông Ngũ Huyện Khê làm ranh giới, phía đông
giáp huyện Tiên Du; phía tây và nam giáp các huyện Đông Anh, Gia Lâm (Hà


18
Nội). Thị xã Từ Sơn có diện tích 61,33km2 với 12 đơn vị hành chính gồm
7 phường và 5 xã.
Trên địa bàn Thị xã có tuyến quốc lộ 1A, đường sắt huyết mạch giao thông
từ Hà Nội lên biên giới Lạng Sơn chạy qua. Từ trung tâm thị xã còn có nhiều
đường bộ nối liền các vùng kinh tế trong và ngoài tỉnh. Vị trí đó đã tạo cho Thị
xã có thế mạnh trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa, tiêu thụ sản phẩm, phát triển
thương mại dịch vụ cũng như thu hút mạnh các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
tạo điều kiện thuận lợi phát huy tiềm năng và các nguồn lực khác để phát triển
kinh tế - xã hội, hòa nhập với nền kinh tế thị trường, phát triển công nhiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ... với mạng lưới chợ đầu mối, các trung
tâm thương mại, các chợ nông thôn hoạt động có hiệu quả. Trong những năm
qua, thị xã Từ Sơn luôn nhận được sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh
trong việc quy hoạch và phát triển các khu, cụm công nghiệp tập trung như: Khu
công nghiệp Tiên Sơn, Khu công nghiệp đô thị và dịch vụ Việt Nam-Singapore
(VSIP); và nhiều cụm công nghiệp làng nghề như: Châu Khê, Đồng Kỵ, Phù
Khê, Hương Mạc, Trang Hạ, Tam Sơn thu hút và giải quyết việc làm cho nguồn
nhân lực lớn của địa phương bị ảnh hưởng do diện tích đất nông nghiệp thu hồi
để thực hiện các dự án, khu cụm công nghiệp.
Từ những đặc điểm đó cũng là điều kiện phát sinh những khiếu kiện của

công dân do tác động, ảnh hưởng của cơ chế chính sách phát triển kinh tế-xã hội;
những sơ hở, thiếu sót cũng như những tồn tại, hạn chế chưa được giải quyết dứt
điểm trong công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống kinh tế. Giải
quyết những mâu thuẫn không những từ trong nội bộ nhân dân mà còn những
thắc mắc, phản hồi của người dân đối với cơ quan hành chính cấp huyện là yêu
cầu bức thiết của UBND thị xã, ngoài việc bảo vệ các quyền lợi ích chính đáng
của công dân còn là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, đảm bảo ổn định tình
hình an ninh chính trị, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.


19
2.2. Thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo trong 5 năm qua
Công tác tiếp dân trong những năm qua đã được Thị ủy, HĐND-UBND
thị xã quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt theo quy định của pháp luật.
Công tác tiếp công dân được thực hiện theo tiếp công dân thường xuyên và tiếp
công dân định kỳ. Việc tiếp công dân định kỳ được Chủ tịch UBND thị xã trực
tiếp tiếp dân vào ngày 01 và ngày 15 hàng tháng.
UBND thị xã đã thành lập Ban Tiếp công dân của thị xã (tiền thân là
Văn phòng tiếp công dân thị xã), ban hành quy chế tiếp công dân, bố trí
phòng và trụ sở tiếp dân đảm bảo thuận lợi cho công dân đến phản ánh, kiến
nghị. Tại các buổi tiếp dân, lãnh đạo và cán bộ tiếp dân ở các cơ quan đã trực
tiếp xem xét, giải quyết, hướng dẫn, trả lời ý kiến của công dân đồng thời giao
nhiệm vụ tham mưu, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc thủ trưởng các cơ
quan, chủ tịch UBND các xã, phường giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu
nại, tố cáo của công dân để công dân không phải đi lại nhiều lần, vượt cấp.
Mặc dù Thị ủy và UBND thị xã đã tập trung trong việc chỉ đạo, thực
hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo song chất lượng và hiệu quả giải quyết một
số đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn chưa đạt yêu cầu; vẫn còn xảy

ra tình trạng công dân khiếu kiện vượt cấp, kéo dài; tình trạng khiếu kiện tràn
lan, không có căn cứ do không hiểu biết pháp luật, lôi kéo kích động khiếu
kiện vẫn xảy ra, tính chất và nội dung khiếu kiện trên địa bàn Thị xã vẫn còn
nhiều diễn biến phức tạp.
+ Vẫn tiếp tục có các đoàn đông người đến trụ sở tiếp công dân thị xã đề
nghị xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến giải phóng mặt bằng đối với
một số dự án xây dựng công trình công cộng, dự án xây dựng khu dân cư, cụ
thể: Năm 2012 có 6 đoàn với 108 người; năm 2013 có 4 đoàn đồng người; năm
2014 có 5 đoàn, năm 2015 có 3 đoàn đông người.


20
+ Tình trạng công dân khiếu kiện vượt cấp vẫn xảy ra, cụ thể như: Vụ
việc UBND thị xã đã thụ lý, đang giải quyết, chưa hết thời hạn nhưng công
dân khiếu kiện lên UBND tỉnh, gửi tới nhiều cơ quan như: Đoàn đại biểu
Quốc hội, HĐND, UBND, VKSND tỉnh…(vụ khiếu nại của ông Nguyễn Tiến
Bính ở xã Phù Chẩn khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và
Quyết định cưỡng chế công trình xây dựng trái phép trên đất lấn chiếm của
Chủ tịch UBND xã Phù Chẩn đối với hành vi lấn chiếm và xây dựng công
trình trên đất lấn chiếm của gia đình ông Bính) hoặc các nội dung công dân
khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã nhưng công dân chưa gửi
đơn ra UBND xã, phường mà lên thẳng UBND thị xã. Khi UBND thị xã
chuyển đơn về xã, phường và thông báo công dân liên hệ để được xem xét,
giải quyết nhưng công dân tiếp tục lên thị xã vào kỳ tiếp dân sau mặc dù
UBND xã, phường đang giải quyết, chưa quá thời hạn (vụ ông Nguyễn Văn
Thành ở thôn Mai Động, xã Hương Mạc tố cáo ông Trưởng thôn Mai Động).
Một số vụ việc công dân khiếu kiện kéo dài, UBND thị xã đã giải quyết dứt
điểm, có Công văn trả lời hết thẩm quyền, công dân có đơn gửi lên tỉnh. Thẩm
quyền giải quyết thuộc UBND tỉnh nhưng phòng Tiếp công dân tỉnh vẫn
chuyển đơn về UBND thị xã nhiều lần, ví dụ như vụ khiếu nại của ông Thang

Văn Đoan ở khu phố Cẩm Giang, phường Đồng Nguyên.
+ Ngoài ra vẫn còn tình trạng lãnh đạo một số xã, phường trong quá
trình tiếp công dân chưa giải thích rõ hoặc trả lời chưa thấu đáo cho công dân
về các nội dung công dân đang kiến nghị, thắc mắc. Có một số vụ việc công
dân đang bức xúc nhưng Chủ tịch UBND xã, phường không trực tiếp tiếp
công dân mà giao cho cán bộ chuyên môn hoặc cấp dưới giải thích, hướng
dẫn công dân không chu đáo dẫn đến công dân mất lòng tin, vượt cấp lên thị
xã và cấp trên.
Tổng hợp kết quả tiếp công dân, phân loại, xử lý đơn thư do UBND thị xã
Từ Sơn tiếp nhận từ năm 2011 đến năm 2015 được thể hiện qua biểu tổng hợp
như sau:


×