Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Tăng cường công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn TP vinh tỉnh nghệ an giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.51 KB, 63 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

TRẦN ĐÌNH KHƯƠNG

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẢM BẢO TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
VINH TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016

1


2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẢM BẢO TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
VINH TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện: TRẦN ĐÌNH KHƯƠNG


Lớp: Cao cấp lý luận chính trị Nghệ An 2014-2016
Chức vụ: Phó trưởng phòng CSGT
Đơn vị công tác: Phòng CSGT đường bộ - đường sắt
Công an tỉnh Nghệ An

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016

2


3

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô
giáo của Học viện Chính trị khu vực I, Ban Quản lý đào tạo, giáo viên chủ
nhiệm lớp Cao cấp lý luận Chính trị tỉnh Nghệ An 2014-2016, đã tạo điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt chương trình học tập. Tôi xin chân thành
cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu và hoàn thiện
đề án tốt nghiệp này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các lãnh đạo, các
đồng nghiệp và các đồng chí trong Phòng CSGT đường bộ - đường sắt
Công an tỉnh Nghệ An, nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi
hoàn thành đề án này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song đề án không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý tận tình của các thầy cô giáo để đề
án được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

3



4

MỤC LỤC

4


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Tai nạn giao thông (TNGT) đã gây ra những thiệt hại to lớn về người,
tài sản của Nhà nước và nhân dân, đang là vấn đề bức xúc được xã hội quan
tâm sâu sắc, trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, mà tất cả các quốc gia trên
thế giới không kể các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém
phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả nhân loại.
TNGT ở Việt Nam cũng trong tình trạng chung của các nước đang phát triển.
Cùng với sự bùng nổ về các phương tiện cơ giới đường bộ, tốc độ đô thị hóa
cao, kết cấu hạ tầng giao thông bất cập, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong
nhiều năm, chỉ từ năm 2003 TNGT mới có chiều hướng giảm, tuy nhiên tính
bền vững và ổn định chưa cao. Từ khi thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW, Chỉ thị
số 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, Luật Giao thông đường bộ 2008,
Nghị quyết 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007, Nghị quyết số 88/NQ-CP và các
Nghị định của Chính phủ, tai nạn giao thông hàng năm đã dần được kiềm chế
và giảm dần nhưng số người chết và số người bị thương vẫn ở mức cao.
Trên địa bàn tỉnh Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, những năm qua, tình
hình trật tự an toàn giao thông (TTATGT), có những diễn biến hết sức phức
tạp; TNGT tuy đã được kiềm chế, song số người chết và thiệt hại về tài sản do
TNGT vẫn ở mức cao. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách

quan và chủ quan khác nhau, như sự gia tăng nhanh của các phương tiện giao
thông cơ giới; cơ sở hạ tầng giao thông đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp,
mở mới và còn nhiều bất cập; công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn
giao thông còn nhiều hạn chế, chưa huy động tốt lực lượng quần chúng, lực
lượng bán chuyên trách tham gia bảo đảm TTATGT; lực lượng Cảnh sát giao
thông và Thanh tra giao thông còn mỏng, nên việc tuần tra kiểm soát xử lý vi
phạm TTATGT chưa được duy trì thường xuyên, liên tục; công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, pháp luật về trật tự an toàn giao thông đã được
5


6

tăng cường, nhưng hình thức chưa phong phú, hiệu quả chưa cao. Từ những
lý do trên, tôi chọn đề án: “Tăng cường công tác đảm bảo trật tự an toàn
giao thông nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP Vinh
tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016 - 2020” làm đề án tốt nghiệp, với mong muốn,
góp phần nhỏ bé vào công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông nhằm thúc
đầy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả quản lý trật tự an toàn giao thông của
lực lượng cảnh sát giao thông tỉnh nhằm đáp ứng các yêu cầu
giao thông vận tải và bảo đảm an toàn giao thông; giảm tai
nạn giao thông và ùn tắc giao thông trên địa bàn thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An một cách bền vững, tiến tới xây dựng một
xã hội có giao thông an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện
và bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể của đề án
- Phấn đấu đến năm 2020 hiệu quả quản lý về TTATGT

của lực lượng CSGT đối với việc duy trì trật tự, kỷ cương luật
pháp, đảm bảo TTATGT từng bước được nâng cao.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến,
giáo dục pháp luật về TTATGT đường bộ nhằm vận động quần
chúng nâng cao nhận thức, ý thức tự giác chấp hành pháp
luật khi tham gia bảo đảm TTATGT, lập lại kỷ cương pháp luật
trong giữ gìn ATGT, nhằm kiềm chế gia tăng tai nạn giao
thông, xây dựng nếp sống giao thông văn minh trên đại bàn.
- Tăng cường sự phối hợp giữa lực lượng CSGT với các lực
lực lượng cảnh sát khác không ngừng nâng cao hiệu quả công

6


7

tác tuần tra, kiểm soát, hướng dẫn, nhắc nhở, xử lý hành vi vi
phạm pháp luật về TTATGT theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường quản lý phương tiện và người điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ; nhằm đảm bảo giao thông
được thông suốt; người, hàng hoá, phương tiện tham gia giao
thông không bị xâm hại; đáp ứng được các yêu cầu phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của Nhà nước và nhu cầu đi lại của
công dân;
- Đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Vinh có nhiều
chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí: số
vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng: Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông nhằm thúc
đẩy phát triển KT- XH trên địa bàn thành phố trực thuộc tỉnh.

- Không gian: Trên địa bàn tỉnh Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Thời gian: Giai đoạn 2016 - 2020.

7


8

B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1 Cơ sở khoa học
1.1.1 Một số khái niệm liên quan
Vấn đề an toàn giao thông luôn chiếm một vị trí quan trọng đối với các
nước phát triển và đang phát triển. An toàn giao thông đang là vấn đề rất lớn
và cần thiết trong đời sống của mỗi người dân. Nhưng hiện nay, TNGT vẫn
xảy ra với con số gia tăng. Đó là hồi chuông cảnh tỉnh mọi người trong toàn
xã hội, phải thay đổi thái độ sống, thực hiện tốt an toàn giao thông.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Giao thông là việc đi lại từ nơi này đến nơi
khác của người và phương tiện chuyên chở” 1. An toàn là “yên ổn, tránh được
tai nạn, tránh được thiệt hại; làm cho an toàn, đảm bảo sự an toàn” 2. Như vậy,
an toàn giao thông là các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao gồm
việc chấp hành Luật Giao thông, phải có ý thức khi tham gia giao thông. An
toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia lưu thông trên các
phương tiện đường bộ, hàng hải, hàng không, là sự chấp hành tốt các luật lệ
về giao thông, cư xử phù hợp khi lưu thông trên các phương tiện giao thông.
An toàn giao thông đang là vấn đề “nóng” luôn được sự quan tâm của xã hội.
Trật tự an toàn giao thông là trạng thái xã hội có trật tự được hình thành
và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải
công cộng, nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, trật tự, an
toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông. Đảm bảo TTATGT là một

yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản của mọi quốc gia và xem đó là điều kiện cần thiết
để phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng và ổn định trật tự xã hội.
- Trật tự an toàn giao thông
Trật tự an toàn giao thông là vấn đề mang tính xã hội
sâu sắc; tiến hành quản lý nhà nước để đảm bảo TTATGT là
1 Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.393.
2 Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.5.

8


9

yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản của mọi quốc gia. Không phân
biệt chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội,… các
quốc gia trên thế giới đều phải tiến hành quản lý TTATGT và
luôn xem đó là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế, mở
rộng sản xuất, củng cố an ninh quốc phòng và ổn định tình
hình trật tự xã hội. Trên thực tế, việc tiến hành quản lý TTATGT
luôn có liên quan, ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến mọi
mặt hoạt động của đời sống xã hội, đến tâm tư tình cảm và
các quyền lợi cơ bản của công dân. Nhìn nhận, phân tích và
đánh giá dưới góc độ kinh tế thì hoạt động giao thông còn
được ví như mạch máu của nền kinh tế quốc dân. Sự hình
thành, tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và của
mỗi vùng đô thị hay mỗi khu kinh tế nói riêng phụ thuộc rất
nhiều vào quy mô tổ chức hoạt động giao thông và yêu cầu
đảm bảo TTATGT. Tình hình TTATGT của một quốc gia luôn là
sản phẩm chung được kế thừa kết quả của nhiều hoạt động
khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,

xã hội và an ninh, trật tự… của quốc gia đó.
Theo Từ điển Bách khoa CAND năm 2005 thì: "TTATGT là
trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải
công cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo,
nhờ đó đảm bảo cho hoạt động giao thông thông suốt, trật tự,
an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao thông, gây
thiệt hại cho người và tài sản. TTATGT cũng là một mặt của
trật tự, an toàn xã hội”. Muốn có được tình trạng TTATGT
đường bộ tốt, trước hết các cơ quan có thẩm quyền trong việc
9


10

thực hiện chức năng quản lý TTATGT phải được tổ chức và
hoạt động thực sự phát huy được vai trò, hiệu quả chức năng
quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.
1.1.2. Vị trí, vai trò của công tác đảm bảo TTATGT trong thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội
Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội. Quản lý TTATGT với mục đích là đảm bảo giao thông
được thông suốt, người và phương tiện tham gia giao thông không bị xâm hại,
hoạt động giao thông được trật tự an toàn, vệ sinh và mỹ quan, góp phần đáp
ứng kịp thời các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và các quyền lợi
cơ bản của công dân... để thực hiện được những vấn đề trên, đòi hỏi quản lý
TTATGT phải được tổ chức tiến hành khoa học.
Tính khoa học trong quản lý TTATGT phải được thể hiện từ việc phân
công trách nhiệm hợp lý giữa các ngành, các cấp, các lực lượng quản lý. Nội
dung quản lý phải phù hợp với điều kiện, khả năng và chức năng quản lý của

từng ngành. Mặt khác, nội dung các yêu cầu đưa ra để quản lý phải thiết thực,
phải phù hợp với khả năng, điều kiện thực hiện của quần chúng.
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động giao thông vận tải nói chung và
giao thông vận tải đường bộ nói riêng là một ngành kỹ thuật, việc quản lý phải
thường xuyên dựa trên cơ sở khai thác, kế thừa các thành tựu của các ngành
khoa học, như khoa học điện, điện tử, về thông tin viễn thông, tin học; về cơ
khí chế tạo máy; về tự động học, điều khiển học và các khoa học về quản lý...
để tổ chức và duy trì hoạt động mạng lưới giao thông. Đặc biệt, trong dòng
chuyển động của giao thông hiện đại ngày nay, quản lý TTATGT là sự nhất thể
hoá giữa người tham gia giao thông, phương tiện giao thông và các công trình
giao thông, môi trường giao thông. Hoạt động chỉ huy, điều khiển giao thông
không còn chỉ dừng lại ở các động tác thô sơ, thay vào đó là các phương tiện
“thông minh”, sản phẩm của khoa học công nghệ hiện đại. Từ thực tiễn trên,

10


11

“tính khoa học” trong quản lý TTATGT được hình thành như một tất yếu khách
quan, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của quản lý TTATGT.
TTATGT có tầm quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của thành
phố Vinh nói riêng và cả tỉnh Nghệ An nói chung, đặc biệt là trong thời kỳ hội
nhập kinh tế thế giới. TTATGT được đảm bảo sẽ đem lại nhiều lợi ích sau
đây:
- Tạo thuận lợi cho sự đi lại của người và phương tiện tham gia giao
thông đường bộ.
- Tạo thuận lợi cho việc buôn bán, trao đổi hàng hóa và đẩy mạnh tiến
độ công việc của người dân.
- Thu hút sự đầu tư kinh tế của cá nhân trong và ngoài nước.

- Thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển, đặc biệt là ngành dịch vụ du
lịch và vận tải. - Hiện nay vấn đề trật tự an toàn giao thông không được đảm
bảo. Những năm vừa qua thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông và ùn tắc
giao thông đường bộ.
- Thực tế tại các thành phố lớn trong đó có Thành phố Vinh, nhiều tai
nạn giao thông đường bộ xảy ra nghiêm trọng, làm thiệt hại tài sản, sức khỏe,
tính mạng con người. Và những người chết vì tai nạn giao thông đường bộ
ngày càng nhiều.
- Thêm nữa, nạn ùn tắc giao thông đang ở mức báo động, lượng người
và phương tiện tham gia giao thông ngày càng đông. Nhưng kết cấu hạ tầng
giao thông không đáp ứng kịp. Do đó thường xuyên bị ùn tắc giao thông vào
các giờ cao điểm hoặc trong các dịp lễ hội.
1.1.3. Nội dung công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông
1.1.3.1. Khái niệm quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông
Quản lý nhà nước về giao thông là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giao thông của con người do
các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính thưc hiện đề duy trì và

11


12

phát triển các hoạt động giao thông cũng như trật tự pháp luật nhằm thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Quản lý nhà nước về TTATGT là một nội dung trong quản lý nhà nước
về giao thông. Do vậy: Quản lý nhà nước về TTATGT chính là sự tác động có
tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động của con
người và phương tiện tham gia giao thông nhằm mục đích làm cho giao thông
đường bộ luôn được thông suốt, thuận tiện và an toàn.

Theo Từ điển Bách khoa CAND năm 2005 thì: “Quản lý
TTATGT là hệ thống các biện pháp quản lý của nhà nước do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được thực hiện theo quy
định của pháp luật, có sự tham gia của các đoàn thể, tổ chức
xã hội và công dân nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông
luôn ổn định, trật tự, thông suốt và an toàn, góp phần phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật trên lĩnh vực giao thông, bảo đảm quyền và lợi ích của
mọi công dân khi tham gia giao thông”.
1.1.3.2. Các đặc điểm cơ bản quản lý TTATGT
Một là, Quản lý TTATGT là hoạt động hành pháp của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; quá trình tổ chức thực
hiện phải có sự phối hợp của nhiều ngành.
Quản lý TTATGT là một nội dung quan trọng trong quản
lý nhà nước, được tiến hành đồng bộ, thống nhất bởi bộ máy
nhà nước. Chính vì vậy, yêu cầu quản lý TTATGT phải có sự
phân công, phân cấp hợp lý giữa các ngành, các lực lượng. Sự
phân công đó phải có quy định chặt chẽ trong các văn bản
pháp lý của nhà nước. Trên cơ sở đó quá trình tiến hành quản
lý TTATGT thì các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức xã hội
được giao quyền phải có quan điểm hợp tác, thường xuyên

12


13

phối hợp, hỗ trợ nhau để hoàn thành nhiệm vụ chung. Chống
các biểu hiện né tránh, đùn đẩy trong công việc.
Hai là, quản lý TTATGT thường xuyên có sự khai thác, kế

thừa và sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học, kĩ thuật
khác nhau.
Quản lý TTATGT là một lĩnh vực mang tính khoa học và
kỹ thuật cao. Ở đó không chỉ tập trung các khoa học về quản
lý xã hội như vấn đề tổ chức, duy trì hoạt động của các đối
tượng tham gia giao thông mà còn tập trung nghiên cứu, khai
thác, sử dụng các phượng tiện khoa học kĩ thuật để tổ chức,
chỉ huy, hướng dẫn điều khiển giao thông,.... Bên cạnh đó thì
quản lý TTATGT còn phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, tính
năng, tác dụng và các đặc tính kĩ thuật của các phương tiện
giao thông, các trung tâm chỉ huy điều khiển hoạt động giao
thông và kĩ thuật tổ chức mạng lưới giao thông quốc gia. Do
vậy, có thể nói chất lượng quản lý TTATGT của các chủ thể
quản lý hiện nay phụ thuộc vào nhiều kết quả nghiên cứu để
áp dụng và khai thác sử dụng các thành tựu khoa học vào
quản lý TTATGT của nhiều ngành khác nhau.
Ba là, quản lý TTATGT có liên quan đến nhiều mặt hoạt
động của đời sống xã hội và tâm tư, tình cảm và các quyền lợi
cơ bản của công dân.
Quản lý TTATGT là một nội dung quan trọng trong quản
lý xã hội của nhà nước. Do vậy, quá trình quản lý TTATGT
không những chịu sự tác động, chi phối bởi các chính sách và
các biện pháp quản lý xã hội của nhà nước, mà việc quản lý
TTATGT còn thường xuyên có tác động đến nhiều mặt hoạt
động của đời sống xã hội. Từ kinh tế, văn hóa, giáo dục đến
việc đảm bảo an ninh, quốc phòng; từ nâng cao trình độ dân
13


14


trí cho đồng bào vùng sâu, vùng xa đến việc mở rộng các
vùng đô thị; từ việc giải quyết việc làm cho người lao động,
đến việc đảm bảo những quyền lợi cơ bản của công dân trong
quá trình đi lại, vận chuyển hàng hóa. Vấn đề này không
những góp phần thực hiện các yêu cầu về kinh tế, vệ sinh, mỹ
quan, văn minh, lịch sự ở một xã hội hiện đại mà còn đáp ứng
kịp thời cá nhu cầu về tình cảm, quan hệ giao dịch, thăm hỏi
hoặc vui chơi, giải trí của Nhân dân.
1.1.3.3. Nội dung quản lý nhà nước trong bảo đảm trật tự an toàn
giao thông
Để giao thông đảm bảo được an toàn thì công tác quản lý nhà nước về
TTATGT phải thực hiện tốt. Do đó đòi hỏi vai trò quản lý của Nhà nước trong
việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông cần được thực hiện một cách khoa
học, đồng bộ. Nội dung quản lý nhà nước đảm bảo TTATGT đòi hỏi phải
quản lý toàn diện hiệu quả các mặt như:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phát
triển hạ tầng giao thông.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chương trình quốc gia về an toàn giao
thông và các biện pháp bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về giao thông.
- Tuyên truyền; phổ biến pháp luật về giao thông.
- Tổ chức quản lý, bảo trì, bảo vệ, đảm bảo kết cấu hạ tầng giao thông.
- Đăng ký, cấp, thu hồi biển số phương tiện giao thông; cấp, thu hồi
giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của
phương tiện giao thông.
- Quản lý đào tạo, sát hạch lái xe, cấp thu hồi giấy phép lái xe.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về giao thông.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm về trật
tự an toàn giao thông.

14


15

- Hợp tác quốc tế về giao thông.
1.1.3.4. Quản lý TTATGT của lực lượng CSGT
Căn cứ vào các khái niệm nói trên, xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng CSGT, tác giả đưa ra
khái niệm sau: “Quản lý TTATGT của lực lượng CSGT là việc tổ
chức thực hiện các quy định của nhà nước về đảm bảo
TTATGT đường bộ để nắm tình hình và duy trì họat động của
các đối tượng tham gia giao thông; nhằm đảm bảo giao thông
được thông suốt; người, hàng hoá, phương tiện tham gia giao
thông không bị xâm hại; đáp ứng được các yêu cầu phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của Nhà nước và nhu cầu đi lại của
công dân; đồng thời, góp phần thực hiện các yêu cầu phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật trên các tuyến, địa bàn giao thông công cộng”.
- Đặc điểm công tác quản lý TTATGT của lực lượng CSGT
như sau:
Một là, quản lý TTATGT đường bộ của lực lượng CSGT là
một nội dung quan trọng trong quản lý xã hội của nhà nước.
TTATGT là một vấn đề mang tính xã hội, không chỉ là sản
phẩm của một ngành hay một lực lượng nào đó, mà là sản
phẩm chung được kế thừa kết quả của nhiều hoạt động xã hội
khác nhau, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính
vì vậy, quản lý TTATGT được nhiều ngành, nhiều lực lượng
tham gia quản lý. Trong tổ chức bộ máy nhà nước duy trì hoạt
động quản lý TTATGT, lực lượng CSGT luôn được xác định là

lực lượng chủ yếu giữ vai trò nòng cốt trong việc đảm bảo
TTATGT. Nội dung tiến hành và kết quả thực hiện các mặt
công tác quản lý TTATGT của lực lượng CSGT có ý nghĩa quan
trọng góp phần đảm bảo giao thông thông suốt, người và
15


16

phương tiện tham gia giao thông được trật tự, an toàn. Với
những tác dụng to lớn mang lại cho phát triển kinh tế văn
hoá, xã hội và an ninh quốc phòng, công tác quản lý TTATGT
của lực lượng CSGT thực sự là một nội dung quan trọng trong
công tác quản lý xã hội của nhà nước.
Hai là, quản lý TTATGT của lực lượng CSGT là một công
tác nghiệp vụ quan trọng của ngành Công an.
Quản lý TTATGT của lực lượng CSGT là một công tác cụ
thể trong biện pháp quản lý hành chính về an ninh trật tự của
ngành Công an. Mặc dù, với đặc tính hoạt động hành chính
công khai tuân theo các quy định của pháp luật và các văn
bản hành chính Nhà nước. Song, việc tổ chức tiến hành các
mặt công tác cụ thể của quản lý TTATGT như: tiến hành xây
dựng các quy trình, tiêu chuẩn đăng ký quản lý chặt chẽ các
đối tượng tham gia giao thông; áp dụng khoa học kỹ thuật để
chống việc làm giả giấy tờ hồ sơ đăng ký quản lý phương tiện
giao thông hoặc tiến hành nghiên cứu phân tích đánh giá các
nguyên nhân, điều kiện gây TNGT... lại có tác dụng phòng
ngừa, bịt kín sơ hở trong công tác quản lý xã hội của Nhà
nước, chủ động tước bỏ các điều kiện mà tội phạm và phần tử
xấu thường chú ý lợi dụng để hoạt động gây mất trật tự xã

hội. Mặt khác, quá trình tổ chức tiến hành các công tác cụ thể
của quản lý TTATGT, như TTKS giao thông, điều tra xử lý
TNGT, lập hồ sơ quản lý phương tiện giao thông còn có tác
dụng chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm
quy tắc an toàn giao thông; cũng như ngăn chặn, trấn áp kịp
thời hoạt động của tội phạm: cướp, cướp giật, buôn lậu, vận
chuyển hàng hoá trái phép, gây rối trật tự công cộng trên các
tuyến đường, địa bàn giao thông. Cùng với các tác dụng nêu
16


17

trên, việc tổ chức thực hiện các nội dung của quản lý TTATGT
còn cung cấp các thông tin tài liệu cần thiết để phục vụ tốt
các yêu cầu xác minh về nguồn gốc phương tiện, về thời gian
hoạt động của người điều khiển phương tiện để truy tìm
phương tiện, người điều khiển phương tiện có liên quan đến
vụ án.
Từ những lý luận và thực tiễn nêu trên cho thấy quản lý
TTATGT của lực lượng CSGT là một công tác nghiệp vụ quan
trọng của ngành Công an, có vai trò quan trọng trong phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật để bảo vệ an ninh trật tự qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Quan điểm của Đảng về quản lý ATGTĐB là các cơ sở
chính trị quan trọng để Nhà nước, chính quyền các cấp, các
Ngành tổ chức thực hiện quản lý xã hội .

- Bảo đảm trật tự an toàn giao thông và hạn chế tai nạn
giao thông là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn
dân, toàn xã hội, trước hết là của các cơ quan nhà nước có
chức năng và của người tham gia giao thông.
- Thiết lập và duy trì trật tự xã hội trong lĩnh vực giao thông
đường bộ nhằm đảm bảo an toàn cho người, phương tiện khi
tham gia giao thông, bảo đảm hệ thống giao thông vận tải hoạt
động thông suốt phục vụ mục đích phát triển kinh tế-xã hội, bảo
đảm quốc phòng an ninh, hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế.
- Xây dựng các giải pháp mạnh, đột phá, đồng bộ, thực
hiện từng bước, liên tục và kiên trì nhằm cải thiện môi trường

17


18

giao thông trật tự, an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và
bền vững.
Trong những năm qua, có rất nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của
các cấp ủy Đảng về tăng cường công tác Quản lý nhà nước
nhằm bảo đảm giao thông đường bộ thông suốt, trật tự, an
toàn, thuận lợi phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước đã được ban hành. Điển hình như:
- Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 24 tháng 02 năm 2003 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác bảo đảm TTATGT"; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày
04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm TTATGT đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”.

- Chỉ thị số 12/CT-TU ngày 09/01/2013 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Nghệ An về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy
nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; Chỉ thị số 17/CT-TU
ngày 03/12/2013 Ban thường vụ Tỉnh ủy về “tăng cường chấn
chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong các cơ quan, đơn vị
trên địa bàn tỉnh”.
- Nghị quyết 40 - NQ/TW ngày 08/11/2004 của Bộ Chính trị
về Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác Công an trong
tình hình mới quy định: Lực lượng CAND được thực hiện các
biện pháp: Vận động quần chúng, biện pháp pháp luật, biện
pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học kỹ
thuật, biện pháp nghiệp vụ, biện pháp vũ trang, biện pháp biệt
phái cán bộ sang các ngành để làm nhiệm vụ liên quan đến
ANTT theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
18


19

- Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII thông
qua Luật giao thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày
01/7/2009). Luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng
cường hiệu lực quản lý đối với lĩnh vực giao thông đường bộ
đề cao ý thức, trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội
buộc các chủ thể tham gia giao thông phải tuân thủ những
quy định chung.
- Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm
2007, “Về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn

giao thông và ùn tắc giao thông”; Nghị quyết số 88/2011/NQCP ngày 24/8/2011 về “Tăng cường thực hiện các giải pháp
trọng tâm bảo đảm TTATGT”; và các Nghị định liên quan đến
công tác đảm bảo TTATGT đường bộ như: Nghị định
171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013; Nghị định 107/2014/NĐ-CP
ngày

17/11/2014;

Nghị

định

số

91/2009/NĐ-CP

ngày

21/10/2009; Nghị định số 93/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012;
Nghị định số 27/2010/NĐ-CP ngày 24/03/2010;...
- Thông tư số 13/2009/TT-BGTVT ngày 17/7/2009 quy định
về tốc độ và khoảng cách của xe cơ giới xe máy chuyên dùng
tham gia giao thông đường bộ; thay thế bằng Thông tư
91/2015/TT-BGTVT

ngày

31/12/2015

(hiệu


lực

từ

ngày

01/3/2016); Thông tư 07/2010/TT-BGTVT ngày 11/02/2010 quy
định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ...; được thay thế
bằng Thông tư số 46/2015/TT-BGTVT ngày 07/9/2015 (hiệu lực
từ ngày 01/12/2015);...
- Quyết định số 588/QĐ- BCA ngày 23 tháng 2 năm 2010
của Bộ trưởng Bộ Công an qui định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt. Quyết định của Tổng Cục Cảnh sát QLHC
19


20

về TTATXH qui định chức năng, nhiệm vụ của 7 phòng thuộc
cục Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt.
- Thông tư số 65/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát
của CSGT đường bộ; thay thế bằng Thông tư số 01/2016/TTBCA ngày 04/01/2016 (có hiệu lực từ ngày 15/02/2016);
Thông tư số 28/2011/TT-BCA ngày 10/5/2011 quy định về chỉ
huy điều khiển giao thông của CSGT;
- Thông tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 quy định
về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác
điều tra, giải quyết TNGT của lực lượng Cảnh sát Nhân dân;
Thông tư số 47/2011/TT-BCA ngày 02/7/2011 quy định huy

động lực lượng tham gia tuần tra, kiểm soát trật tự, an toàn
giao thông đường bộ trong trường hợp cần thiết;
- Thông tư số 40/2015/TT-BCA ngày 24/8/2015 quy định
về sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong
Công an Nhân dân để phát hiện vi phạm hành chính về trật
tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường;...
- UBND các cấp và Công an các cấp tỉnh Nghệ An trên cơ
sở Luật Giao thông đường bộ năm 2008, các Nghị định, Chỉ thị
của Chính phủ và các Thông tư, Kế hoạch về công tác đảm
bảo TTATGT; căn cứ tình hình thực tiễn ở địa phương hàng
năm, hàng quý đều kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị,
kế hoạch chỉ đạo các sở ngành, các lực lượng có liên quan tổ
chức triển khai thực hiện nhằm cụ thể hóa các quy định phù
hợp với thực tiễn quản lý nhà nước đối với việc đảm bảo
TTATGT đường bộ trên địa bàn.- Chỉ thị 22-CT/TW ngày 24/2/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
20


21

1.3 Cơ sở thực tiễn
Thời gian qua, mặc dù các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng
thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông, nhưng TNGT và tình
trạng ùn tắc giao thông vẫn liên tục tăng cao và ngày càng nghiêm trọng, hàng
năm làm chết và bị thương hàng chục nghìn người, gây thiệt hại lớn về vật
chất, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài,
an sinh xã hội và để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng, lâu dài cho nhiều gia
đình và xã hội.

Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác đảm bảo TTATGT,
chặn đứng và đẩy lùi TNGT, ngày 24/2/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá IX) đã ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT. Từ đó, công tác giữ gìn
TTATGT đã đạt được nhiều kết quả trên các mặt, tình hình TNGT bước đầu
được kiềm chế, TTATGT có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực thiện Chỉ thị 22CT/TW của Ban Bí thư ở một số đơn vị, địa phương chưa mạnh mẽ, thường
xuyên; chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành vào
công tác đảm bảo an toàn giao thông; nhiều địa phương, đơn vị còn khoán
trắng cho lực lượng cảnh sát giao thông và ngành giao thông thực hiện; một
số nơi chỉ mới triển khai quán triệt chỉ thị, chưa tích cực chỉ đạo triển khai
thực hiện… Cho nên, tình hình trật tự, an toàn giao thông còn diễn biến phức
tạp, số vụ TNGT xảy ra còn nhiều, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài
sản, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Ý thức chấp hành pháp luật
của người tham gia giao thông còn hạn chế, vấn đề TNGT đang là vấn đề bức
xúc của toàn xã hội.
Để đảm bảo TTATGT, làm giảm TNGT trong những năm tới, huy động
được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương trong
việc thực hiện nhiệm vụ này là yêu cầu cấp bách hiện nay.
2. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

21


22

2.1 Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1 Về điều kiện địa lý tự nhiên
Thành phố Vinh là đô thị lớn nằm ở phía Đông - Nam của tỉnh Nghệ
AN, có tọa độ địa lý từ 18°38'50” đến 18°43’38” vĩ độ Bắc, từ 105°56’30”

đến 105°49’50” kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Đông giáp huyện Nghi Lộc,
phía Nam giáp huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh, phía Tây giáp huyện Hưng
Nguyên. Vinh cách thủ đô Hà Nội hơn 300 km về phía Bắc, cách thành phố
Hồ Chí Minh 1.400 km về phía Nam. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa
nóng ẩm, nhiệt độ trung bình 24°C, nhiệt độ cao tuyệt đối 42.1°C, nhiệt độ
thấp tuyệt đối 4°C. Tổng diện tích tự nhiên là 104,97 km2, dân số là 306.000
người; trong đó khu vực nội thành gồm 16 phường và 9 xã ngoại thành.
Thành phố Vinh là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, là trung tâm tổng hợp
của tỉnh Nghệ An, trung tâm kinh tế, văn hóa vùng, đầu tàu tăng trưởng và
giải quyết các vấn đề trọng điểm về kinh tế của Nghệ An và vùng Bắc trung
bộ. Thành phố Vinh nằm trong hành lang kinh tế Đông Tây, nối liền Myanma
- Thái Lan - Lào - Việt Nam - Biển Đông. Nằm trên các tuyến du lịch quốc
gia và quốc tế. Với vị trí đó, thành phố Vinh - Nghệ An đóng vai trò quan
trọng trọng giao lưu: kinh tế, thương mại, du lịch, vận chuyển hàng hoá với cả
nước và các nước khác trong khu vực. Vinh là thành phố của quê hương Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Vinh nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ,
đường sắt, đường thủy và đường hàng không, thành phố Vinh nắm giữ vị trí
trọng yếu trên con đường vận chuyển trong nước từ Bắc vào Nam và ngược
lại. Đồng thời rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa trong khu vực
và quốc tế. Từ Vinh có thể trao đổi hàng hoá với nước bạn Lào qua cửa khẩu
Nậm Cắn, Thanh Thuỷ của Nghệ An hoặc cửa khẩu Cầu treo của tỉnh Hà
Tĩnh, hoặc thông qua đường biển qua cảng Cửa Lò với các nước khác.
Cảng Cửa Lò là cảng biển loại 1, nằm trên tuyến đường giao thông
hàng hải quốc tế, là đầu mối giao thông vận tải của khu vực Bắc Trung bộ,

22


23


trung chuyển hàng hoá đi các nước Lào và các tỉnh phía Bắc Thái Lan. Từ
cảng Cửa Lò hiện có các tuyến đường biển quốc tế đi Hồng Kông, Singapore,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Âu, Tây Âu, Châu Mỹ,... và ngược lại. Công suất
thiết kế cảng với quy mô 2 - 2,5 triệu tấn/năm, hiện đang xây dựng cảng nước
sâu Cửa Lò có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 30.000 - 50.000 DWT.
Hệ thống giao thông đô thị và giao thông đối ngoại không ngừng được mở
rộng và xây mới như: Quốc lộ 1A, quốc lộ 46 tránh Vinh, đường ven sông
Lam, đường quy hoạch 72 m Vinh - Cửa Lò,… không chỉ tạo điều kiện thuận
lợi về giao thông và phát triển du lịch mà còn tạo cảnh quan, làm thay đổi bộ
mặt và vóc dáng đô thị.
Hoạt động thương mại ngày càng phát triển: Hệ thống các trung tâm
thương mại, siêu thị (Intimex, Maximax, CK Palaza, Big C Vinh, Metro), chợ
có quy mô lớn như chợ Vinh, chợ Ga Vinh và các chợ khu vực, có thể đáp
ứng tốt nhu cầu cho người dân bản địa và khách tham quan du lịch, giao dịch
tại thành phố.
Sau 30 năm đổi mới, thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công cuộc xây dựng,
phát triển Nghệ An nói chung, thành phố Vinh nói riêng đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy
nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Vinh chưa
tương xứng với vị trí, tiềm năng. Còn nhiều vấn đề bất cập
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội chưa được giải quyết; cơ sở
hạ tầng còn nhiều bất cập; tình trạng ô nhiễm môi trường; sự
xuống cấp của cơ sở hạ tầng giao thông; nhu cầu giao lưu
kinh tế, nhu cầu lưu thông hàng hóa, giao thương buôn bán
hàng hóa giữa các khu vực, giữa các huyện, thị trong vùng và
với các vùng khác, giữa đô thị và nông thôn,... ngày một tăng;
kéo theo đó là sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện
vận tải cơ giới; nhu cầu vận tải không chỉ bó hẹp trong phạm

23


24

vi không gian hẹp, mà nó đã mở rộng ra toàn quốc và giao
thương quốc tế đã tạo nên sức ép lớn nên hạ tầng giao thông
đường bộ. Bên cạnh đó, trình độ nhận thức về pháp luật cũng
như những kiến thức xã hội của một số bộ phận Nhân dân còn
hạn chế. Phần lớn những vi phạm trong hoạt động tham gia
giao thông đều xuất phát từ sự hiểu biết chưa đúng hoặc chưa
đầy đủ về Luật giao thông đường bộ của người dân. Mặt khác,
một bộ phận Nhân dân vẫn có tư tưởng coi thường pháp luật,
văn hóa giao thông kém là những yếu tố dẫn đến chất lượng
giao thông không cao, gây ra nhiều tai nạn và những hậu quả
đáng tiếc.
Giao thông vận tải nhằm phục vụ cho nhu cầu vận tải về
nguyên vật liệu và phân phối hàng hóa đến tay người tiêu
dùng. Thực tế các nhu cầu nói trên ở Thành phố Vinh trong
mấy năm qua tăng với tốc độ chóng mặt. Mặc dù đã được đầu
tư đáng kể trong thời gian qua nhưng cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ trong vùng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn; phần lớn cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ của
Thành phố Vinh còn đang trong giai đoạn hoàn thiện, nhiều
công trình vẫn đang còn thi công, nhiều tuyến đường chưa kịp
thời được nâng cấp do còn nhiều hạn chế trong vấn đề vốn
đầu tư. Tình hình đó đang đòi hỏi các cơ quan chức năng của
thành phố Vinh, đặc biệt là lực lượng CSGT phải tăng cường
hơn nữa công tác quản lý TTATGT đường bộ, đủ sức đảm bảo
cho sự an toàn và trật tự xã hổi ổn định làm điều kiện cho

phát triển kinh tế và chất lượng cuộc sống xã hội trên địa bàn
thành phố Vinh.
Nhìn chung có nhiều yếu tố có ảnh hưởng thuận lợi và
khó khăn đến quản lý TTATGT của lực lượng CSGT trên địa bàn
24


25

thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Điều đó đã làm cản trở sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố đây thực sự là thách thức
lớn cần giải quyết trong thời gian tới.
2.2 Thực trạng công tác đảm bảo TTATGT ở Thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An
2.2.1. Khái quát về Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Nghệ An
- Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp lực lượng CSGT
trên địa bàn thành phố Vinh
Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, của Bộ Công an,
Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An quyết định thành lập Phòng
CSGT tỉnh. Hiện nay biên chế có 119 đồng chí. Việc bố trí lực
lượng thực hiện các mặt công tác được Chỉ huy Phòng căn cứ
vào tình hình thực tiễn địa bàn, công việc cụ thể từng thời
điểm để bố trí quân số linh hoạt và phù hợp. Phần lớn tất cả
Cán bộ, chiến sĩ đều được phân công luân phiên đảm nhận tất
cả các mặt công tác của lực lượng CSGT. Căn cứ các quy định
của Bộ Công an, Giám đốc Công an tỉnh cũng đã có các quyết
định về phân cấp công tác đăng ký quản lý phương tiện và
công tác TTKS, XLVP cho Công an giao thông.
Nhìn chung, trong những năm qua công tác quản lý,
phân công, phân cấp công tác cho lực lượng CSGT được sự

quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của các cấp Lãnh đạo. Việc quản lý
có quy trình, quy định cụ thể đã đi vào nề nếp và phát huy
được hiệu quả công tác đơn vị đã xây dựng được quy chế quy
định việc luân phiên thực hiện các mặt công tác. Việc luân
phiên thực hiện các mặt công tác được thực hiện công khai
dân chủ, khoa học, công bằng đã khích lệ, động viên cán bộ,
chiến sỹ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

25


×