Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân tỉnh Nam Định giai đoạn 2015 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.53 KB, 62 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

TRẦN THỊ HUỆ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN HỘI NÔNG DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỘI VIÊN HỘI NÔNG DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

Người thực hiện

:

Trần Thị Huệ

Lớp

:

Cao cấp lý luận chính trị B1 - 14 (2014 - 2015)



Chức vụ

:

Phó Trưởng ban Tổ chức - Kiểm tra

Đơn vị công tác :
Người hướng dẫn:

Hội Nông dân tỉnh Nam Định
Ths Bùi Giang Nam - Giảng viên khoa Chính trị
- Học viện Chính trị khu vực I

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề án, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới các thầy cô giáo của Học viện Chính trị khu vực I, đã quan
tâm hướng dẫn và tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành đề án này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Ths. Bùi Giang Nam Giảng viên Khoa Chính trị học - Học viện Chính trị khu vực I, người đã
trực tiếp hướng dẫn tận tình, chu đáo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
làm đề án.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của lãnh đạo cơ quan Hội
Nông dân tỉnh Nam Định cùng các đồng nghiệp.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã tận tình giúp đỡ, động
viên tôi trong suốt thời gian qua.
Do điều kiện thời gian có hạn, Đề án của tôi không tránh khỏi những sai
sót, khuyết điểm. Tôi rất mong nhận được sự cảm thông, chia sẻ và đóng góp
ý kiến của các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2015
Học viên

Trần Thị Huệ


1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện
tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật,
sống và làm việc theo pháp luật. Vì vậy công tác giáo dục pháp luật có vai trò
hết sức quan trọng, là khâu đầu tiên để đưa pháp luật đi vào cuộc sống và là
nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó có Hội Nông dân Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu này, song song với việc xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, một trong những vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt là phải đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật cho mọi nhóm đối
tượng, trong đó có hội viên nông dân là đối tượng chiếm số đông trên địa bàn
nông thôn. Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết mang tính khách quan, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XI của Đảng ta khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa… Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [23, tr.85].
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác bồi dưỡng, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, Đảng ta xác định “Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng Luật
ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng tuyên truyền, giáo dục
pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh”; các chỉ thị
về việc đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 32/CT-TW,
ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành


2

pháp luật của cán bộ nhân dân; Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 7-01-1998 về
tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay;
Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg, ngày 16-12-2004 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt chương trình hành động quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ nhân dân ở xã,
phường, thị trấn từ năm 2005 đến 2010; Quyết định 554/QĐ-TTg, ngày 4-52009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Tuyên truyền phổ biến pháp
luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2009 đến
năm 2012”.
Trên cơ sở đó, trong thời gian qua công tác giáo dục pháp luật đã đạt
được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật,
nâng cao văn hóa pháp lý cho nhân dân nói chung, hội viên nông dân nói
riêng bước đầu tạo sự ổn định trong lối sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật ở các đối tượng cụ thể.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được ở nước ta vẫn còn một bộ
phận không nhỏ người nông dân nói chung, hội viên nông dân nói riêng và

các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, việc vi phạm
pháp luật của các chủ thể có thể gây hại cho nền kinh tế, cho xã hội. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác giáo dục pháp
luật vẫn chưa thực sự được coi trọng, nhận thức của người dân giữa các vùng,
miền không đồng đều; phương pháp giáo dục vẫn chậm đổi mới. Do vậy, tăng
cường đổi mới công tác giáo dục pháp luật đang là một yêu cầu nhiệm vụ đặt
ra hết sức cần thiết và mang tính chiến lược ở nước ta hiện nay, trong đó có
đối tượng hội viên nông dân.
Đối với tỉnh Nam Định, là tỉnh nằm ở trung tâm của vùng Nam đồng
bằng sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1.652 km2, dân số năm 2013 là
1.939.000 người, số người sống trên địa bàn nông thôn là 1.505.000 người.


3

Toàn tỉnh có 238.484 hộ nông nghiệp, chiếm xấp xỉ 70% so với tổng số hộ
trên địa bàn. Hội Nông dân tỉnh Nam Định có 341.418 hội viên, chiếm tỷ lệ
90,2% so với hộ nông dân, là lực lượng nòng cốt trên lĩnh vực nông nghiệp,
nông dân, nông thôn và phong trào xây dựng nông thôn mới. Nhưng đây cũng
là đối tượng dễ gánh chịu các rủi ro trong các quan hệ xã hội do thiếu hiểu biết
về pháp luật nên khi có tranh chấp xảy ra thì thường dẫn tới khiếu kiện vượt cấp,
nhất là khiếu kiện liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai,
các chính sách xã hội... vì vậy việc tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đối
tượng này đang là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Bản thân là một cán bộ Hội Nông dân tỉnh, và từ những lý do trên, nên
học viên chọn đề án “Giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân tỉnh
Nam Định giai đoạn 2015 - 2020”.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và chấp hành

pháp luật của hội viên Hội Nông dân, góp phần ngăn chặn và hạn chế vi phạm
pháp luật, giữ gìn an ninh và trật tự an toàn xã hội.
2.1. Mục tiêu cụ thể
Đến hết năm 2020, công tác giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông
dân tỉnh Nam Định phấn đấu đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây:
- 100% hội viên nông dân được tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật.
- Trên 90% đội ngũ cán bộ Hội, cộng tác viên, tuyên truyền viên pháp
luật của Hội được bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ về công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.


4

- 100% cơ sở Hội đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục
pháp luật theo hướng thiết thực, hiệu quả phù hợp với nhu cầu và đối tượng
hội viên Hội Nông dân.
- Trên 90% chi, tổ Hội thường xuyên đưa nội dung tuyên truyền, giáo
dục pháp luật vào sinh hoạt định kỳ.
3. Giới hạn của đề án
- Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Giới hạn về đối tượng: Công tác giáo dục pháp luật cho hội viên Hội
Nông dân.
- Giới hạn về thời gian: Từ năm 2015 - 2020.


5

B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm
Trong đời sống xã hội, giáo dục pháp luật với tính cách là một hoạt
động xã hội đã xuất hiện từ khá lâu, song quan niệm về nó lại không hoàn
toàn thống nhất.
Hiện nay ở Việt Nam khái niệm về giáo dục pháp luật vẫn có nhiều
quan niệm khác nhau và mỗi quan niệm đều có cơ sở để chứng cho kết luận
của mình, về cơ bản có một số quan niệm sau.
- Một là, giáo dục pháp luật là việc tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến
các văn bản pháp luật.
Theo quan niệm này thì thực chất của việc GDPL chỉ là hoạt động
tuyên truyền, cổ động khi Nhà nước mới ban hành một văn bản pháp luật nào đó
như bảo vệ môi trường, phòng chống bạo lực gia đình, đảm bảo an toàn giao
thông, phòng chống tệ nạn xã hội... Cứ thực hiện tốt hoạt động này là đã thực hiện
tốt công tác giáo dục pháp luật và đây thường chỉ là công việc của các phương
tiện thông tin đại chúng, của hệ thống bộ máy làm công tác tuyên truyền.
- Hai là, đồng nhất GDPL với giáo dục chính trị - tư tưởng và giáo dục
đạo đức.
Theo quan điểm này, khi tiến hành giáo dục chính trị - tư tưởng và giáo
dục đạo đức cho nhân dân đạt hiệu quả thì có thể đạt được sự tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của công dân, hình thành nên ý thức pháp
luật của họ. Điều này cũng có nghĩa: Sự hình thành ý thức pháp luật của công
dân chỉ là “sản phẩm phụ” của quá trình giáo dục chính trị - tư tưởng và đạo
đức. Có thể nói đây là quan niệm sai lầm, phi khoa học và trên thực tiễn đã
hòa tan giáo dục pháp luật vào giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục đạo đức.


6

Ba là, phủ nhận giáo dục pháp luật, cho rằng không cần phải giáo dục

pháp luật vì pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, mọi người phải
có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Do vậy không thể đặt vấn đề giáo dục pháp
luật. Cái gọi là giáo dục pháp luật thực chất là phổ biến pháp luật, nội hàm
của nó không bào hàm tuyên truyền, giải thích. Pháp luật không thể là cái gì
đó có thuộc tính tuyên truyền, quảng cáo.
- Theo nghĩa rộng, giáo dục pháp luật là quá trình ảnh hưởng của nhiều
yếu tố khách quan như: Chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,
phong tục tập quán, môi trường sống... và cả tác động của nhân tố chủ quan
như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và có định hướng của
con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối
tượng giáo dục.
- Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được
các mục tiêu nhất định. Trong thực tiễn tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều
kiện khách quan rất lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người
song các nhà lý luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến các yếu
tố tác động hàng đầu, quan trọng, thậm chí còn mang tính quyết định của
nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục hiện nay thường
được hiểu theo nghĩa hẹp.
Có thể nhận thấy khái niệm GDPL được hình thành từ nghĩa hẹp của
khái niệm giáo dục và có thể hiểu khái niệm giáo dục pháp luật như sau:
Giáo dục pháp luật là hoạt động chủ động, có tổ chức trên cơ sở
chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể của chủ thể giáo dục tác động lên
đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình
cảm và hành vi phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật hiện hành và đòi
hỏi của xã hội.


7


Ngày nay, trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với phong trào xây dựng nông thôn
mới thì nông dân được xác định là trung tâm, nòng cốt đóng vai trò hết sức
quan trọng, họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng trực tiếp được hưởng lợi. Vì
thế việc không ngừng nâng cao dân trí, phát huy dân chủ trong xã hội, nhất là
thường xuyên trang bị những kiến thức nói chung và kiến thức về pháp luật
nói riêng cho đối tượng này là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Từ khái niệm về pháp luật nêu trên có thể hiểu giáo dục pháp luật cho
hội viên nông dân như sau.
Giáo dục pháp luật cho hội viên nông dân là hoạt động chủ động, có tổ
chức trên cơ sở chương trình, nội dung, kế hoạch cụ thể lên đối tượng được
giáo dục là hội viên nông dân, nhằm cung cấp cho họ những tri thức pháp
luật, tạo niềm tin tình cảm và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật để
họ có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội.
1.1.2. Đặc điểm về mục đích giáo dục pháp luật cho hội viên Hội
Nông dân.
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
- Nhiệm vụ của Hội là:
+ Tuyền truyền, vận động cán bộ, hội viên, nông dân hiểu và tích cực
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; nghị quyết, chỉ thị của Hội. Khơi dậy và phát huy truyền thống yêu
nước, ý chí cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, lao động sáng tạo của nông
dân.


8


+ Vận động, tập hợp, làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; xây dựng nông thôn
mới.
+ Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân. Trực
tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn; hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế
tập thể trong nông nghiệp, nông thôn. Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn,
hỗ trợ, dạy nghề, khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng
cao đời sống, bảo vệ môi trường.
+ Đoàn kết, tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, phát triển và
nâng cao chất lượng hội viên. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh về mọi mặt;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tham
gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế; tham gia xây dựng cơ chế,
chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Kịp thời phản ánh
tâm tư nguyện vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
Hội được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ của Hội, song phải trong
khuôn khổ của pháp luật. Để đảm bảo được điều đó thì công tác GDPL của
Hội phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và trở thành một trong những
hoạt động quan trọng của tổ chức Hội, GDPL pháp luật cho nông dân nói
chung và hội viên Hội Nông dân nói riêng giúp cho hoạt động của Hội thêm
đa dạng, phong phú đồng thời thông qua đó để bảo vệ những quyền và lợi ích


9


chính đáng, hợp pháp của nông dân, vừa tạo cho cán bộ, hội viên nông dân có
thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân cần chú
ý những đặc trưng sau đây:
- Mục đích giáo dục pháp luật cho hội viên nông dân:
+ Nâng cao khả năng hiểu biết và sử dụng pháp luật, tự bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên nông dân.
+ Giáo dục pháp luật cho hội viên nông dân nhằm xóa bỏ những hủ tục
lạc hậu, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương, phát huy
truyền thống tốt đẹp của của giai cấp nông dân Việt Nam trong xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
+ Giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ tích cực và hành vi phù
hợp pháp luật. Mục đích này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì trong số
các mục đích của GDPL thì mục đích cuối cùng phải được thể hiện ở hành vi
xử sự hợp pháp của con người. Các mục đích về nhận thức và mục đích tình
cảm là để phục vụ cho mục đích hình thành động cơ tích cực và hành vi phù
hợp pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm về chủ thể giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông
dân.
Đối với đối tượng giáo dục là hội viên nông dân thì chủ thể giáo dục
pháp luật rất đa dạng, đó là các giảng viên của các Trung tâm bồi dưỡng chính
trị, các bộ công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp, các báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật, các luật gia, luật sư, cán bộ Hội Nông dân các
cấp... Tuy nhiên có thể nói rằng chủ thể chủ yếu của GDPL cho hội viên nông
dân hiện nay là những cán bộ Hội Nông dân, các Chủ nhiệm Câu lạc bộ nông
dân với pháp luật; cán bộ Hội cơ sở là thành viên của các tổ hòa giải; các
cộng tác viên, tuyên truyên viên của Hội, là những người thường xuyên thực



10

hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vân động hội viên nông dân thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Những chủ thể này có
một số đặc điểm nổi bật sau đây:
- Về ưu điểm: Họ là những người tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm cao
với công việc, là những người gương mẫu, có uy tín trong cộng đồng, có khả
năng vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng và ít nhiều đã được tiếp cận
với các nguồn thông tin chính thống từ nhiều kênh khác nhau như: Thông qua
các đợt tập huấn, qua nghe triển khai, phổ biến của các cấp, các ngành...
- Về hạn chế: Đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên về pháp luật của
Hội chưa đồng đều về trình độ, năng lực, hầu hết chưa được đào tạo về
chuyên ngành luật, chưa được bồi dưỡng thường xuyên, lại hoạt động kiêm
nhiệm nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật cho hội viên nông dân. Vì vậy những chủ thể này cần phải được trang bị
kiến thức và kỹ năng thực hành về GDPL, được cung cấp kịp thời những
thông tin cần thiết để giúp họ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
1.1.4. Đặc điểm về đối tượng giáo dục pháp luật cho hội viên Hội
Nông dân
Đối tượng GDPL là hội viên nông dân có những đặc điểm sau:
- Về nghề nghiệp: Hầu hết hội viên nông dân đều là lao động nông
nghiệp, trồng trọt chăn nuôi là chủ yếu, số còn lại là những người làm dịch vụ
cung cấp tiêu thụ sản phẩm, buôn bán nhỏ, cán bộ về nghỉ chế độ tham gia
sinh hoạt Hội... Chính vì vậy phần lớn trong số họ ít có điều kiện tiếp xúc
rộng giải với kiến thức ngoài xã hội, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự hạn
chế trong nhận thức kiến thức pháp luật của hội viên nông dân.
- Về văn hóa: So với mặt bằng chung thì đối tượng hội viên nông dân
thường có trình độ văn hóa thấp hơn, lại không đồng đều, trong đó trình độ
bậc tiểu học và trung học là phổ biến. Chính vì trình độ văn hóa không cao,



11

không đồng đều đó đã khiến cho hội viên nông dân gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học kỷ thuật, cũng như kiến thức về
pháp luật...
- Đặc điểm về tâm lý, tình cảm: Đối tượng là hội viên nông dân trong
đời sống, lao động sản xuất thường coi trọng yếu tố kinh nghiệm vì thế bên
cạnh những yếu tố tích cực cũng bộc lộ những nhược điểm như tâm lý tự ty,
an phận, ngại va chạm... bên cạnh đó đối tượng này cũng rất dễ tin, dễ bị lợi
dụng, điều này thấy rõ qua các vụ việc khiếu kiện đông người. Tuy nhiên tâm
lý, tình cảm của đối tượng này cũng rất dễ bị thay đổi, vì vậy GDPL là việc
trang bị cho họ những kiến thức hiểu biết về pháp luật để họ nhận thức được
trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ, bảo vệ quyền lợi công dân của mình, từ đó
giúp họ có thêm hiểu biết và thể hiện chính kiến của mình trước các sự việc
hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, lao động sản xuất.
1.1.5. Vai trò của giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông dân.
Đối với hội viên Hội Nông dân, GDPL có những vai trò cụ thể được thể
hiện rõ ở một số nét lớn sau:
- Một là, GDPL tạo tiền đề, cơ sở cho mỗi cá nhân hội viên nông dân
trong việc hiểu và nghiêm túc thực hiện pháp luật.
Như đã nêu, hội viên nông dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp,
trình độ văn hóa không cao, ít có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Do điều
kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nên việc hưởng thụ các giá trị tinh thần còn
nhiều hạn chế, thường chỉ qua phương tiện phát thanh, truyền hình, hệ thống
truyền thanh của địa phương... Mặt khác trong nông dân nói chung, hội viên
nông dân nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều tư tưởng xưa cũ “mặc cảm, tự ty, an
phận”... Vì vậy GDPL bằng nhiều hình thức khác nhau đối với mỗi nhóm đối
tượng khác nhau sẽ giúp cho hội viên nông dân có được khả năng sử dụng
pháp luật, sử dụng có hiệu quả những quyền mà pháp luật trao cho mình để



12

bảo vệ chính bản thân mình, đồng thời cũng nhận thức được những hành vi
sai trái và mạnh dạn đấu tranh với những hành vi đó.
Hai là, GDPL cho hội viên Hội Nông dân góp phần xây dựng “gia
đình nông dân đạt tiêu chuẩn văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nền kinh tế nước ta đã có bước phát
triển vững chắc, tạo điều kiện cho mỗi người dân, mỗi gia đình phát huy được
tính năng động, sáng tạo và trí tuệ, tài năng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tuy nhiên mặt trái của cơ chế thị trường cũng đặt các gia đình Việt Nam
trước những thách thức không hề nhỏ, đó là mối quan hệ đạo đức trong gia đình
chưa được chú trọng, nhiều biểu hiện xấu trong nếp sống nảy sinh, nếp nghĩ và
cách ứng xử, quan niệm lệch lạc... làm ảnh hưởng không nhỏ đến gia đình.
Để ngăn chặn những nguy cơ đó, thì trách nhiệm mỗi thành viên trong
gia đình, nhất là ông bà, cha mẹ ngoài việc là trụ cột kinh tế trong gia đình
cũng cần phải được trang bị những kiến thức về nhiều lĩnh vực, trong đó kiến
thức và sự hiểu biết về pháp luật là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Ba là, GDPL cho hội viên Hội Nông dân thúc đẩy hoạt động của Hội
Nông dân, phát huy vị trí và vai trò của Hội trong hệ thống chính trị.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác bồi dưỡng, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI đã nhấn mạnh “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên
truyền, giải thích pháp luật” và “cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân”. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh: Triển khai mạnh mẽ công tác
tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động các đoàn thể chính trị, xã hôi,
nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia vào đợt vận động

thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống


13

và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan Nhà nước và xã hội”. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục xác định “Đổi mới và hoàn thiện
quy trình xây dựng Luật ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng
tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật một cách
nghiêm chỉnh”; các chỉ thị về việc đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật như:
Chỉ thị số 32/CT-TW, ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ nhân dân. Nhằm thể chế hóa
các chủ trương của Đảng về giáo dục pháp luật, Chính phủ và các bộ ngành
đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
hoạt động giáo dục pháp luật như:
Để tạo điều kiện cho các bộ, ngành địa phương triển khai công tác phổ
biến giáo dục pháp luật có trọng tâm, trọng điểm ở cơ sở. Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg, ngày 09/10/2001 về việc tạo điều kiện
để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân;
Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg, ngày 16/12/2004 về phê duyệt Chương
trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm
2005-2010; Quyết định số 554/2009, ngày 04/5/2009 về phê duyệt Đề án
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng
bào dân tộc thiểu số từ năm 2009 đến năm 2012; Quyết định số 673/QĐ-TTg,
ngày 10/5/2011 về việc Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp thực hiện một số
chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn giai đoạn
2011 - 2020; Quyết định số 81/2014/QĐ-TTg, ngày 31/12/2014 về việc phối
hợp giữa các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp với các cấp Hội Nông dân

Việt Nam trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân.


14

Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013; ngày 04/4/2013, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 28/2013/NĐ- CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến giáo dục pháp luật. Đây là cơ sở
pháp lý toàn diện, đầy đủ cho công tác PBGDPL được triển khai ngang tầm với
nhiệm vụ được giao trong giai đoạn hiện nay.
Nhằm cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác PBGDPL vào tình hình thực tiễn tại địa phương. Thời
gian qua, cấp uỷ đảng, chính quyền tỉnh Nam Định đã ban hành nhiều văn bản
chỉ đạo đối với công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh như: Kế hoạch số 13/KHUBND 02/4/2008 tổ chức thực hiện Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg của
Chính phủ phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2008 đến năm 2012; Kế
hoạch số 39/KH-UBND ngày 9/11/2012 về tổ chức thực hiện Quyết định
409/QĐ-TTg ngày 19/4/2112 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương
trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa XI)...
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong thời gian qua, công tác GDPL cho nhân dân nói chung, hội viên
Hội Nông dân tỉnh Nam Định nói riêng đã đạt được nhiều kết quả đáng kể,
góp phần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý cho
hội viên nông dân, bước đầu tạo sự ổn định trong lối sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật ở các đối tượng cụ thể. GDPL có vai trò đặc biệt quan
trọng, việc nâng cao hiểu biết về pháp luật cho họ sẽ góp phần làm thay đổi
nhận thức và hành vi trong việc thực hiện pháp luật, phát huy vai trò của giai
cấp nông dân trong công cuộc xây dựng nông thôn mới và đẩy nhanh tiến
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của


15

Đảng và Nhà nước ta trên phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Nam Định nói
riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng, tình hình kinh tế - xã hội có sự
chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần cũng như ý thức pháp luật
của người nông dân nói chung và hội viên nông dân nói riêng được nâng lên
một bước. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, với những thành
tựu đạt được trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, trên địa bàn nông thôn
cũng đạt ra những vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc, đó là những
giá trị truyền thống ở nông thôn dần bị mai một, trong đời sống xã hội nông
thôn cũng nảy sinh những bất cập như: hiện tượng tranh chấp đất đai; quyền
thừa kế; hợp đồng tiêu thụ sản phẩm nông sản; đền bù, giải phóng mặt bằng…
một số tệ nạn xã hội cũng đã len lỏi vào những xóm làng bình yên trước kia
như Ma túy, cờ, bạc, số đề …
Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật và nếp sống làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật của nông dân, trong đó có hội viên nông dân vẫn còn
nhiều hạn chế. Tình trạng nông dân vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết vẫn
còn khá phổ biến, cá biệt có những nơi diễn biến phức tạp.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác
giáo dục pháp luật vẫn chưa thực sự được coi trọng, nhận thức của người
nông dân còn thấp; phương pháp giáo dục vẫn chậm đổi mới; còn dàn trải;
các nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho đối tượng cụ thể vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, nhiều vấn đề vẫn chưa được làm rõ và thống nhất về mặt
lý luận, vì vậy công tác giáo dục pháp luật chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên về pháp luật của Hội chưa đồng đều
về trình độ, năng lực, hầu hết chưa được đào tạo về chuyên ngành luật, chưa
được bồi dưỡng thường xuyên, lại hoạt động kiêm nhiệm nên còn gặp nhiều

khó khăn trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho hội viên nông dân.
Vì vậy những chủ thể này cần phải được trang bị kiến thức và kỹ năng thực


16

hành về GDPL, được cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết để giúp họ
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Do vậy, việc thực hiện đề án “Giáo dục pháp luật cho hội viên Hội
Nông dân tỉnh Nam Định giai đoạn 2015 - 2020” là một yêu cầu nhiệm vụ
đặt ra hết sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu bức xúc hiện nay, có ý nghĩa
nhất định cả về lý luận và thực tiễn.
2. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Khái quát về tỉnh Nam Định
Nam Định nằm ở cực nam châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Hà
Nam, phía Đông giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình, phía Nam
giáp Biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Đến nay, Nam Định có 10 đơn vị hành chính,
trong đó có 9 huyện và một thành phố loại 1 trực thuộc tỉnh.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước, kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, với tốc
độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước; quốc phòng, an ninh, chính
trị trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch phù hợp với định hướng phát triển kinh tế
nhiều thành phần và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng và
triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh theo hướng nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững; trong đó tập trung chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, xây dựng các mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Thu nhập bình quân
khu vực nông thôn tăng từ 12,7 triệu đồng/người năm 2010 lên 30 triệu đồng
năm 2014. Giá trị sản xuất/1ha đất nông nghiệp tăng từ 75,4 triệu đồng năm

2010 lên 92 triệu đồng năm 2014.
Các hoạt động văn hóa, giáo dục và một số lĩnh vực xã hội có bước tiến
bộ. An sinh xã hội được đảm bảo; đời sống nhân dân được cải thiện và nâng


17

lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,95% năm 2010 xuống 5,33% năm 2014. An ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững.
2.1.2. Khái quát về nông dân và Hội Nông dân tỉnh Nam Định
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nông dân luôn là lực lượng
đông đảo, hùng hậu nhất, có đóng góp to lớn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, góp phần làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc.
Nông dân Nam Định có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động
sản xuất, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại xâm; luôn đoàn kết, gắn bó
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Từ khi có Đảng, nông dân Nam Định
luôn một lòng, một dạ đi theo Đảng làm cách mạng; phát huy truyền thống
đoàn kết, yêu nước, dũng cảm, cần cù, sáng tạo, đã lập nhiều thành tích to lớn,
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Vai trò quan trọng của Hội Nông dân các cấp thể hiện bằng các hoạt
động thiết thực, hiệu quả, các phong trào thi đua yêu nước như phong trào
nông dân “sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm
nghèo và làm giàu chính đáng”, đã khích lệ, cổ vũ, động viên nông dân đổi
mới tư duy, thay đổi nếp nghĩ, cách làm, khai thác tiềm năng lợi thế về đất
đai, lao động, về vốn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá, phát triển
dịch vụ thương mại, ngành nghề trong nông thôn... Nhiều mô hình, điển
hình tiên tiến, những cách làm hay, kinh nghiệm mới trong sản xuất nông
nghiệp đã được các cấp Hội tổng kết, nhân rộng ở các địa phương trong
tỉnh. Là chủ thể trong phong trào xây dựng nông thôn mới, nông dân trong
tỉnh đã hăng hái thi đua, đóng góp hàng vạn ngày công, hàng nghìn hecta

đất và hàng ngàn tỷ đồng cho xây dựng nông thôn mới; tích cực chỉnh trang
nhà cửa, bảo vệ môi trường, xây dựng đời sống văn hoá... Toàn tỉnh tính
đến 31/12/2014, trong 96 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010
- 2015 có 46 xã đạt và cơ bản đạt 19 tiêu chí nông thôn mới; 23 xã đạt và cơ


18

bản đạt 18 tiêu chí, 8 xã đạt và cơ bản đạt 17 tiêu chí, 11 xã đạt 16 tiêu chí, 9
xã đạt 15 tiêu chí, tăng bình quân 10 tiêu chí so với năm 2010.
Hội Nông dân tỉnh Nam Định có 10/10 huyện, thành hội, 212/229 xã,
phường, thị trấn có tổ chức Hội với 3.170 chi hội, toàn tỉnh có: 341.418 hội
viên nông dân, đạt tỷ lệ 90,2% so với tổng số hộ nông dân trên địa bàn tỉnh.
Trong những năm qua, các cấp Hội đã có nhiều cố gắng, tiếp tục đổi
mới về nội dung, phương thức hoạt động; trong đó nổi bật là tổ chức tốt việc
tuyên truyền và vận động nông dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho nông dân; hướng dẫn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; bảo lãnh tín chấp
hỗ trợ nông dân vay vốn phát triển sản xuất. Các cấp hội phát huy vai trò
tham gia quản lý nhà nước, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; góp phần xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững
mạnh trên từng địa bàn thôn, bản. Do đó vai trò, vị trí của Hội Nông dân từng
bước được khẳng định.
Những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đã
tạo nền tảng vững chắc để Nam Định vượt qua giai đoạn khó khăn do suy
giảm kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi, để triển khai các dự án, chương trình lớn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh.
2.2. Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho hội viên Hội Nông
dân tỉnh Nam Định
Đối với công tác GDPL cho hội viên nông dân, tỉnh vẫn chưa có

chương trình, nội dung riêng mà vẫn thuộc chương trình GDPL nhân dân nói
chung và kế hoạch của Hội đồng phổ biến GDPL của tỉnh, nhưng theo hệ
thống Hội thì hàng năm Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Hội Nông
dân tỉnh đều có kế hoạch phổ biến, GDPL. Vì vậy việc đánh giá thực trạng
công tác GDPL cho hội viên nông dân trong đề án này dựa trên cơ sở đánh giá


19

kết quả hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Nam Định trong thời gian qua (số
liệu từ báo cáo tổng kết thực hiện chương trình phổ biến, GDPL của Hội
Nông dân tỉnh các năm). Có thể đánh giá trên các mặt sau đây:
2.2.1. Những kết quả đạt được
* Về chủ thể giáo dục pháp luật
- Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa giải viên
Xác định rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác GDPL, các
cấp, các ngành trong tỉnh đã chú trọng tăng cường đẩy mạnh công tác phổ
biến, GDPL. Hiện nay đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, và cấp huyện
là 168 người, toàn tỉnh có 3.773 tổ hòa giải ở cơ sở và 22.676 hòa giải viên.
Đối với Hội Nông dân các cấp, từ năm 2010 đến nay đã có hàng trăm cán bộ,
hội viên nông dân tham gia lực lượng công an viên; gần 3.200 cán bộ hội
tham gia ban hoà giải xã phường, thị trấn và tổ hoà giải ở các thôn, xóm. Hội
viên nông dân đã cung cấp cho công an, chính quyền địa phương hàng trăm
tin có giá trị về các đối tượng vi phạm pháp luật như trộm cắp, sản xuất, buôn
bán hàng cấm, hàng giả, truyền đạo trái phép...vv.
Định kỳ hàng quý hoặc đột xuất, đội ngũ những người làm công tác
phổ biến GDPL đều được tập huấn kiến thức về pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng
tuyên truyền và được cung cấp tài liệu, sách báo để phục vụ công tác phổ
biến, GDPL, vì vậy trình độ năng lực của đội ngũ này đã từng bước được
nâng lên, hoạt động đi vào nề nếp có hiệu quả.

Đối với hoạt động phổ biến, GDPL của các cấp Hội Nông dân trong
tỉnh cũng đã thu được những kết quả nổi bật sau: Từ năm 2010 đến năm 2014
toàn tỉnh đã tổ chức được 11.875 buổi tuyên truyền, phổ biến, GDPL cho
1.234.390 lượt hội viên nông dân về những nội dung pháp luật có liên quan
đến nông nghiêp, nông dân, nông thôn và một số lĩnh vực khác như đất đai,
khiếu nại tố cáo, các quy định về đền bù giải phóng mặt bằng... Thành lập 37


20

câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật”; thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chỉ thị
số 26/CT-TTg, ngày 9-10-2001 Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phối hợp
tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo
của nông dân.
* Về đối tượng giáo dục pháp luật
Trong những năm qua tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh luôn có sự
chuyển biến tích cực, đời sống của đại bộ phận nhân dân nói chung và hội
viên nông dân nói riêng không ngừng được cải thiện theo hướng tích cực, vì
vậy nhu cầu về hiểu biết pháp luật của người dân cũng không ngừng tăng cao,
trong đó hội viên nông dân có nhu cầu tìm hiểu những lĩnh vực pháp luật có
liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn; lĩnh vực hợp đồng kinh tế,
mua bán, tiêu thụ sản phẩm... Điều này có thể nhận thấy rất rõ qua số lượng
hội viên nông dân tham dự các buổi tuyên truyền, phổ biến, GDPL ở cơ sở.
Cụ thể năm 2010 có 224.758 lượt người tham dự các buổi tuyên truyền, phổ
biến GDPL; năm 2011 có 238.472 lượt người; năm 2012 có 245.723 lượt
người; năm 2013 có 254.980 lượt người và năm 2014 số lượng người tham dự
các buổi tuyên truyền, phổ biến GDPL do các cấp Hội tổ chức là 270.457 lượt
người. Qua đó, những vấn đề băn khoăn, khúc mắc nảy sinh trong cuộc sống,
lao động, sản xuất được đề nghị giải đáp ngày càng nhiều hơn, hiện tượng
ngồi nghe một chiều theo kiểu “chiếu lệ” như trước kia dần được xóa bỏ, thay

vào đó là những vấn đề mà họ đang quan tâm và cần nghe một cách thấu đáo
để thực hiện.
Bên cạnh đó hội viên nông dân cũng có sự chuyển biến tích cực trong
việc tham gia đóng góp ý kiến, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình trong
việc thực hiện pháp luật, trong công tác quản lý Nhà nước của chính quyền
địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương, chính sách lớn của Đảng,
các văn bản pháp luật của Nhà nước như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, dự


21

thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các dự thảo luật, dự thảo sửa đổi luật… hội
viên nông dân còn tích cực đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp
luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh việc thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở; tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,
xây dựng nông thôn mới…
Bảng 2.2: Số lượt hội viên nông dân được tuyên truyền, phổ biến,
GDPL
Năm
2010

2011

2012

2013

2014

Tổng số


245.723

254.980

270.457

1.234.390

Nội dung
Số lượt hội viên
nông dân được
tuyên truyền, phổ

224.758 238.472

biến, GDPL
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Hội Nông dân tỉnh.
* Về nội dung giáo dục pháp luật
Nội dung GDPL cho nhân dân, trong đó có hội viên nông dân trong
những năm vừa qua đã từng bước được đổi mới. Ngoài việc thông tin, giáo
dục, truyền thông những quy định chung về các văn bản pháp luật, về quyền
và nghĩa vụ của công dân như quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động, quyền
tự do kinh doanh..., nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì đã tập trung
vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có liên quan trực tiếp đến
cuộc sống người dân nói chung và hội viên nông dân nói riêng như các quy
định về đất đai, hôn nhân và gia đình; dân số; bình đẳng giới; phòng chống
bạo lực gia đình; phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em; tín ngưỡng, tôn giáo;
quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp; khiếu nại tố
cáo, an toàn giao thông; phòng chống cháy nổ; phòng chống ma túy, mai dâm;



×