Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

sáng kiến một số biện pháp giúp học sinh học tốt luyện từ và câu lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.46 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: …………………………………………………………………………………
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt Luyện từ và
câu Lớp 4.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1 Tình trạng giải pháp đã biết
- Lê-Nin khẳng định: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người”. Con người sống thành xã hội. Trong xã hội nhất thiết phải có sự
giao tiếp để con người trao đổi thông tin, biểu đạt tâm tư, nguyện vọng và cảm
xúc. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp chủ yếu của xã hội loài người. Con người
học ngôn ngữ từ tuổi còn thơ và suốt cuộc đời không ngừng trau dồi ngôn ngữ
cho chính mình. Con người học ở nhà trường và chính trong cuộc sống. Nhưng
ở nhà trường con người được học ngôn ngữ một cách hệ thống và chuẩn mực
nhất;
- Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt ở bậc tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp
trong các bài viết, đặc biệt trong phân môn Luyện từ và câu. Dùng từ đúng, phù
hợp với nội dung văn cảnh, giúp các em thể hiện ý văn sáng sủa, rõ ràng, mặt
khác giúp người đọc hiểu nội dung bài văn, câu văn một cách dễ dàng, chính
xác.
- Vì vậy cần cải tiến phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo hướng
tích cực hóa hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả.
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, khi nghiên cứu về phương pháp dạy học
phân môn Luyện từ và câu. Sau khi được tập huấn chuyên môn, tôi đã biết cách


phối hợp nhịp nhàng, khoa học và lôgic giữa kiến thức về từ và câu. Sử dụng
các kỹ thuật dạy học tích cực như kỹ thuật khăn trải bàn, kỹ thuật mảnh ghép,


sơ đồ tư duy, bàn tay nặn bột....vào dạy học;
- Với đặc thù của phân môn luyện từ và câu là trang bị những kiến thức
cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để các em học tốt các môn học khác. Bởi
vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về từ, câu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt
văn hóa góp phần kích thích sự phát triển tư duy, hoàn thiện nhân cách cho học
sinh;
 Ưu điểm của giải pháp
- Những biện pháp mà đề tài đề cập đáp ứng được yêu cầu của phương
pháp giáo dục mới. Đáp ứng được quy định của ngành, của điều lệ trường về
cách giáo dục học sinh, phù hợp với thực tiễn dạy học, giúp người giáo viên
nâng cao hiệu quả dạy học và uy tính trong lòng học sinh, phụ huynh;
- Vì nhận thấy vốn từ cũng như việc giao tiếp của các em còn quá hạn
chế, gây ảnh hưởng rất lớn trong việc học môn Tiếng Việt mà nhất là phân môn
Chính tả và Tập làm văn. Do thiếu vốn từ mà quá trình nhận thức cũng như việc
tiếp cận kiến thức mới của các em còn hạn chế. Từ đó dẫn đến bài viết của các
em còn mắc quá nhiều lỗi chính tả, câu văn nghèo nàn không mạch lạc, dùng từ
thiếu độ chính xác;
- Đề tài đưa ra để giúp người dạy và người học hiểu rằng, học sinh muốn
học tốt môn Tiếng Việt thì trước hết các em phải có vốn từ thật phong phú và
biết cách sử dụng vốn từ đó một cách thật phù hợp;
- Đề tài là một số kinh nghiệm giúp giáo viên tự tin trên bục giảng với
tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng. Tạo cho học sinh học tập trên lớp với sự hứng thú,
thân thiện, vui tươi, nhẹ nhàng. Phát huy khả năng tự nhận thức, tự làm chủ tri
thức của các em.
 Khuyết điểm của giải pháp
- Để áp dụng các biện pháp này đòi hỏi người giáo viên phải có kiến sâu,
rộng về tất cả các lĩnh vực. Phải rèn được kĩ năng giao tiếp tốt, nhạy bén trong
2



mọi tình huống ứng xử;
- Người giáo viên phải biết cách khai thác các từ ngữ qua vốn sống của
trẻ nhằm xây dựng hệ thống kiến thức. Trên cơ sở khai thác qua các câu có từ
thuộc chủ đề đang học nhằm bổ sung, củng cố, khắc sâu kiến thức cho các em.
Ngoài ra, người giáo viên phải biết phối hợp một cách linh hoạt các phương
pháp dạy học đặc trưng của môn học để học sinh lĩnh hội kiến thức một cách
nhẹ nhàng, hiệu quả;
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, kinh nghiệm vốn sống ít,
vốn từ nghèo nàn, học sinh nhút nhát, rụt rè.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
- Với mong muốn làm sao có phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp
nhất để truyền thụ hết tri thức cho học sinh một cách tối ưu. Làm thế nào để sự
tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả. Để học sinh nắm vững kiến thức và
vận dụng từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt là chiếc chìa khoá mở cánh cửa tri thức
khoa học;
- Với mong muốn góp phần vào việc tìm kiếm những kinh nghiệm vận
dụng các phương pháp dạy học tích cực vào trong thực tế giảng dạy và các biện
pháp để giúp học sinh học tốt luyện từ và câu. Từ đó tạo cho học sinh một môi
trường học tập tích cực, năng động, giúp học sinh có thêm một cách học, cách
ghi nhớ, cách hệ thống kiến thức một cách có hiệu quả nhất. Từ đó, học sinh sẽ
phát huy tối đa khả năng học tập của bản thân. Góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục cho học sinh chính là mục đích khi tôi thực hiện đề tài này.
3.2.2. Nội dung của giải pháp
3.2.2.1. Điểm mới của giải pháp
- Đề tài là sự tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm và chắt lọc về quá trình vận
dụng phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động để người
học, để giờ học sinh động, hấp dẫn hiệu quả. Các biện pháp đề cập cụ thể, rõ
ràng, người đọc sẽ dễ tiếp cận, dễ áp dụng vào thực tế;
3



- Việc dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh được coi là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng. Góp phần tích cực trang bị cho các em ngôn ngữ - công cụ để học tập,
giao tiếp. Trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu là mở rộng khắc
sâu vốn từ, phát triển kĩ năng, kĩ xảo sử dụng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu,
người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường
hoạt động thực hành, ứng dụng thực tiễn;
- Trong giảng dạy: Người giáo viên phải luôn xem lại phương pháp giảng
dạy của mình, điều chỉnh sao cho phù hợp với nội dung bài, nhận thức của học
sinh, để gây hứng thú cho các em. Phải nghiên cứu, nhận thức rõ được về vị trí,
nhiệm vụ, kiến thức cần dạy. Khi giảng dạy giáo viên cần lưu ý dạy: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trở về thực tiễn”. Sau mỗi phần
nội dung bài tập phải có khái quát hóa, đưa ra tiểu kết luận cho bài. Rèn cho các
em có thói quen, kĩ năng đọc kĩ đề bài, xác định chính xác các yêu cầu của đề
trước khi làm;
- Có như vậy bài giảng mới sinh động, cuốn hút được các em vào hoạt
động học tập một cách say mê, giờ học mới đạt hiệu quả cao.
3.2.2.2. Nội dung phương pháp và biện pháp dạy học chủ yếu phân
môn Luyện từ và câu lớp 4
3.2.2.2.1. Nghiên cứu nội dung dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 4
- Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy: Với mỗi bài dạy lí thuyết các bài
học về cấu tạo tiếng, cấu tạo từ và từ loại đều gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ,
luyện tập;
+ Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu và nêu câu hỏi, gợi ý cho học sinh
phân tích nhằm rút ra kiến thức lí thuyết;
+ Ghi nhớ là phần chốt lại những điểm chính yếu về kiến thức được rút ra
từ việc phân tích ngữ liệu. Học sinh cần phải nắm vững kiến thức này;
+ Luyện tập là phần bài tập nhằm củng cố và vận dụng những kiến thức
đã học, gồm các dạng bài tập như:

 Nhận biết các bộ phận cấu tạo của tiếng;
4


 Giải các câu đố chữ liên quan đến cấu tạo tiếng;
 Nhận biết các kiểu cấu tạo từ;
 Nhận biết các từ loại;
 Đặt câu với các từ đã cho.
- Với các bài học mở rộng và hệ thống hóa vốn từ đều được thể hiện dưới
hình thức bài tập thực hành. Những kiểu bài tập thực hành chủ yếu là:
+ Tìm từ ngữ theo nghĩa và hình thức cấu tạo đã cho:
 Xác định nghĩa của từ và các yếu tố cấu tạo từ;
 Xác định nghĩa của thành ngữ, tục ngữ;
 Phân loại từ ngữ và các yếu tố cấu tạo từ;
 Đặt câu với từ ngữ đã cho;
 Xác định tình huống sử dụng thành ngữ, tục ngữ.
+ Thể hiện thông qua những bài tập được sắp xếp từ dễ đến khó:
Giáo viên cần nắm chắc điều này để đưa ra những phương pháp dạy học
phù hợp nhất. Trên cơ sở đó, tôi đã sử dụng và nghiên cứu một số phương pháp
dạy học tôi cho là khả thi.
3.2.2.2.2. Biện pháp tổ chức hoạt động cho các dạng bài tập
* Đối với bài Mở rộng vốn từ theo chủ điểm ở lớp 4
- Giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực học tập của học sinh. Đặc biệt chú ý sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm và phương pháp trò chơi học tập. Qua tiết học giáo viên phải giúp các em
chủ động trong việc lựa chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ đó trong việc học tập và
giao tiếp hàng ngày. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này giáo viên cần vận dụng đúng
phương pháp thực hành giao tiếp để tạo niềm hứng thú cho học sinh (Cụ thể là:
Phải tạo được tình huống thiết thực tự nhiên, cho học sinh vận dụng những kiến
thức để thực hành giao tiếp trong những tình huống cụ thể, phù hợp với tình

huống, tạo ở các em nhu cầu và hứng thú vận dụng những kiến thức được học
để thực hành giao tiếp). Sử dụng trò chơi học tập hợp lí và đúng lúc cũng là
5


phương pháp rất thích hợp trong dạy học ở tiểu học nói chung và phân môn
Luyện từ và câu nói riêng;
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ : “Đồ chơi – trò chơi” cuối giờ học
giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Giáo viên có thể chuẩn bị các câu
hỏi yêu cầu học sinh mô tả đồ chơi hoặc trò chơi đã biết, hoặc ngược lại nêu
cách chơi để học sinh đoán tên trò chơi, đồ chơi sau đó tổ chức 2 đội chơi (1 đội
nêu câu đố, 1 đội trả lời và đổi lại);
* Đối với các bài hình thành khái niệm (hình thành kiến thức lí
thuyết)
- Để phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4. Giáo viên cần
kết hợp sử dụng một cách linh hoạt phương pháp phân tích ngôn ngữ với
phương pháp luyện tập theo mẫu, phương pháp thực hành giao tiếp, phương
pháp thảo luận nhóm… để giờ học không còn căng thẳng, nặng nề đối với học
sinh;
Ví dụ: Ở lớp 2, 3 khái niệm về động từ được diễn đạt đơn giản là những
từ ngữ chỉ hoạt động. Lên lớp 4 các em học khái niệm động từ là những từ chỉ
hoạt động, trạng thái. Khi dạy học giáo viên vận dụng phương pháp luyện tập
theo mẫu để học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức. Cụ thể là giáo viên làm mẫu
bằng cách tìm thêm các từ chỉ hoạt động và các từ chỉ trạng thái rồi xếp thành 2
nhóm từ cho học sinh quan sát tự nhận ra sự khác biệt giữa chúng.
* Đối với bài Luyện tập về từ và câu
- Tùy từng nội dung luyện tập cụ thể giáo viên vận dụng các phương
pháp dạy học như: Phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp trò chơi học tập,… để học sinh có thể thực hành các kiến
thức lí thuyết đã được học, biết cách áp dụng các kiến thức Tiếng Việt được học

một cách linh hoạt vào các tình huống sử dụng ngôn ngữ cụ thể;
- Muốn có được hai nguồn kiến thức ấy các em cần phải tập quan sát thực
tế ghi chép vào ký ức, sổ tay của mình để có thể làm bài tốt. Trong quan sát các
em chú ý phải quan sát bằng nhiều giác quan như: Mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi
6


và cả tay sờ nữa. Phải biết tranh thủ những gì quan sát được như trên đường đi
học, một buổi tham gia lao động, một ngày về quê để làm kiến thức khi viết bài;
- Về kiến thức sách vở phải biết chọn lựa, ghi chép hoặc học thuộc để có
thể tái hiện khi làm bài. Để giúp cho việc tích luỹ kiến thức được tốt các em nên
hình thành “Cuốn sổ tay văn học” trong đó các em ghi thành từng mục:
- Những kiến thức là từ ngữ theo chủ đề;
- Những từ ngữ hay, câu danh ngôn, châm ngôn;
- Những đoạn văn hay, câu thơ hay;
- Những người tốt, việc tốt;
Sắp xếp như vậy học sinh dễ tìm, dễ lấy tư liệu làm bài.
3.2.2.2.3. Phương pháp sử dụng trò chơi học tập để dạy “Luyện từ và
câu lớp 4”
- Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và
chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt
mỏi. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể được rèn luyện thể lực, các giác
quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong
nhóm, trong tổ. Bước vào trường, trẻ làm quen với hoạt động học tập, một loạt
hoạt động được chương trình hóa với những yêu cầu chính rất cao. Vậy, nếu sử
dụng hình thức trong trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy,
trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay
đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở lên thoải mái,
dễ chịu, tiếp thu bài của học sinh tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả;
- Mục đích của trò chơi học tập: Không chỉ nhằm giải trí mà còn nhằm

góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh;
- Nội dung trò chơi học tập gắn với tri thức và kĩ năng của một nhóm
học hoặc một lĩnh vực tri thức kĩ năng nào đó. Vậy khi sáng tạo trò chơi học tập
giáo viên cần dựa vào kiến thức kĩ năng của phân môn, môn học cần củng cố để
xây dựng trò chơi;
Luật chơi: Trò chơi học tập có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ
7


thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho huấn luyện;
Ví dụ:
- Thi Ai nhanh ai đúng;
- Trò chơi Tiếp sức;
- Trò chơi Đi tìm đồng đội;
- Trò chơi Truyền điện;
1. Trò chơi Ai nhanh ai đúng:
- Trong một thời gian cố định, 2 đội (5 đến 6 người) thi tìm nhanh từ phù
hợp với chủ điểm, nội dung cho trước;
- Sau đó kiểm tra: Giáo viên, Học sinh làm trọng tài.
2. Trò chơi Tiếp sức – Tìm từ, điền từ…
- Diễn ra 2 nhóm, khi có hiệu lệnh xuất phát, từng em lần lượt thay nhau
lên bảng tìm từ, điền từ;
- Sau đó kiểm tra, đội nào làm đúng, tìm nhiều từ là thắng.
Ví dụ: Thi tìm nhanh từ chỉ đặc điểm;
3. Trò chơi Truyền điện:
- Hai đội (5người/1 đội), (2 đội) cùng tham gia;
- Đội 1 nêu 1 từ chỉ sự vật, đội 2 nêu 1 từ khác chỉ đặc điểm của sự vật đó;
- Nếu đúng được đố ngược lại.
4. Trò chơi “Đi tìm đồng đội”:
- Một, hai học sinh cầm chủ điểm;

- Số học sinh còn lại cầm bảng ghi từ;
- Sau hiệu lệnh 2 phút các từ tìm về đúng chủ điểm của mình;
- Kiểm tra nhận xét.
3.2.2.2.4. Biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu
- Việc phân tích ngữ liệu của bài tập giúp học sinh nắm vững yêu cầu của
bài tập và thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. Giáo viên cần cho học sinh đọc
thầm, trình bày yêu cầu của bài tập, giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu
bài tập. Tổ chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: Cá nhân,
8


nhóm. Sau đó báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh
tự rút ra kết luận. Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung. Trao
đổi với học sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý và đánh
giá cho nhau trong quá trình làm bài. Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa
từ mà gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ. Với những từ
ngữ trừu tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào hoàn cảnh cụ thể để
học sinh hiểu nghĩa. Cuối cùng giáo viên sơ kết, tổng kết ý kiến của học sinh;
* Ví dụ: Khi dạy bài “Động từ” (tuần 9), ở phần nhận xét sau khi cho
học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo nhóm đôi tìm các từ chỉ hoạt động của người,
các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp. Giáo viên sẽ chốt
lại: Các từ nêu trên là động từ. Vậy động từ là gì? Học sinh trả lời – giáo viên
khẳng định và ghi bảng. (Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật).
3.2.2.2.5. Biện pháp dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ
- Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, từ Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với
chủ điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ,
thành ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên
tưởng, so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng,
ít gần gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa;

- Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh
có cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng
học sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện
cho tất cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng
bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng:
* Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng:
Bài tập 4: Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính
trung thực hoặc lòng tự trọng:
- Thẳng như ruột ngựa;
- Giấy rách phải giữ lấy lề;
9


- Thuốc đắng giã tật;
- Cây ngay không sợ chết đứng;
- Đói cho sạch rách cho thơm.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập,
xác định yêu cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ (cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng). Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả
trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa
hiểu nghĩa giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm
thêm một số câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học
thuộc để vận dụng:
*Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Ước mơ:
- Hướng dẫn học sinh bước đầu tìm được một số từ cùng nghĩa với từ ước
mơ bắt đầu bằng tiếng ước, bằng tiếng mơ, ghép được từ ngữ, hiểu ý nghĩa và
nhận biết được sự đánh giá của từ ngữ đó:
+ Bài tập 2: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “Ước mơ”:
 Bắt đầu bằng tiếng “ước”: ước ao, ước muốn, ước vọng, ước mong…;
 Bắt đầu bằng tiếng “mơ”: mơ tưởng, mơ ước, mơ mộng…;

 Đối với bài tập này các em chỉ cần tìm thêm một thành tố thứ hai đứng
sau thành tố đã cho để tạo nên một từ cùng nghĩa với “Ước mơ”;
 Nêu một ví dụ minh họa về một loại ước mơ. Như chúng ta biết trong
cuộc sống ai cũng có những ước mơ của mình. Có những ước mơ chính đáng và
không chính đáng. Từ đó, học sinh có thể lấy bất kỳ một ví dụ cho mỗi loại ước
mơ sao cho thích hợp. Như “ Ước mơ sau này sẽ làm thầy (cô) giáo, làm kĩ sư,
làm bác sĩ, làm chú công an, anh bộ đội…”.
3.2.2.2.6. Biện pháp nâng cao kiến thức về từ, câu, kĩ năng dùng từ,
đặt câu và sử dụng dấu câu
- Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới
bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến
lớp 4 các em mới bước đầu được làm quen với phân tích cấu tạo của từ, câu, từ
10


loại, cách sử dụng dấu câu;
- Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu được cung cấp.
Khi dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong việc nhận
diện, phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy. Việc phân
tích từ ghép có nghĩa tổng hợp, có nghĩa phân loại, từ ghép và từ láy, học sinh
phải căn cứ trên nghĩa của từ. Vì vậy, để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ,
nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần giúp học sinh thao tác ghép các từ với
từng phần trong bài học;
* Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập về từ ghép, từ láy” (tuần 4):
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ “bánh trái” (chỉ chung cho
các loại bánh) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp;
- Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết ? (bánh
rán, bánh cuốn, bánh mì…);
- Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì...là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ
ghép có nghĩa phân loại;

- Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải
nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành,
các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới. (Ví dụ : Từ “bờ bãi” cả
hai tiếng đều có nghĩa). Còn từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên phối hợp theo
cách lặp âm hay vần hoặc lặp hoàn toàn cả âm lẫn vần. (Ví dụ: Từ “luôn luôn”,
“rì rào”). Vì vậy “bờ bãi” là từ ghép không phải từ láy mặc dù phần âm đầu
giống nhau;
- Khi dạy kiến thức sơ giản về câu, học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu
kể Ai thế nào? là động từ chứ không phải là tính từ. Các em thường có xu
hướng xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì? Các em quen với
động từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm "trạng thái", "tình thái" chưa được
hình thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy, khi dạy học, giáo viên kết hợp
miêu tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự
khác nhau giữa hành động và trạng thái;
11


- Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví
dụ: Chạy, nhảy, viết, đi,...) Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của sự
vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. (Ví dụ: Mặt
trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nở rộ trong vườn....);
- Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường
dùng thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải,... Từ chỉ khả năng
như: có thể, không thể,... Từ thể hiện ý chí, ý định: toan, định, dám,... Từ thể
hiện sự mong muốn: mong ước, ước mơ,... Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xét:
nghĩ, tưởng, xem, cho,... (Ví dụ: Tôi cho rằng hoa hồng đẹp nhất);
- Việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai
trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong
câu, nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận
thức chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không

có quan hệ từ đứng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối
câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy, còn trạng ngữ ở
giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ
nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có
trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ cho học sinh thấy vị trí
linh hoạt của trạng ngữ;
- Khi dạy bài “Luyện tập về câu hỏi” tuần 14. Ở bài này học sinh phải đặt
được câu hỏi cho bộ phận xác định trong câu; nhận biết một số từ nghi vấn và
đặt câu hỏi với các từ nghi vấn; bước đầu biết được một dạng câu có từ nghi vấn
nhưng không dùng để hỏi;
- Ví dụ: Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới sau đây;
a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là bác cần trục;
b) Trước giờ học chúng em thường rủ nhau ôn bài cũ;
c) Bến cảng lúc nào cũng đông vui;
- Để đặt được câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới, học sinh phải
hiểu bộ phận gạch dưới biểu đạt nội dung gì? Từ dùng để hỏi bộ phận đó là
12


những từ nghi vấn nào.Tìm được các từ đó và đặt thêm dấu chấm hỏi cuối câu
là chúng ta giải quyết được vấn đề;
a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là ai?
b) Trước giờ học chúng em thường làm gì?
c) Bến cảng như thế nào?
3.2.2.2.7. Biện pháp giúp học sinh tích lũy vốn từ vựng
- Học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt cũng như con người bước vào cuộc
đời đều phải mang theo mình những hành trang cần thiết, đó là những kinh
nghiệm, những bài học về cuộc sống, những hiểu biết về thế giới xung quanh;
- Muốn học tốt môn Tiếng Việt, giáo viên cần cho học sinh hiểu tầm quan
trọng của việc tích luỹ kiến thức. Nguồn kiến thức về cuộc sống xung quanh,

tình cảm gia đình, cộng đồng và những cảnh vật trong cuộc sống đó là: bờ tre,
giếng nước, đường làng,... Nguồn kiến thức vô cùng quan trọng để các em tích
lũy đó là kiến thức sách vở trong chương trình tiểu học, sách báo, tạp chí, ...
Muốn có được kiến thức ấy, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát thực tế, ghi
chép váo kí ức, lập cuốn sổ tay " Từ điển tiếng Việt" ghi thành từng mục từ ngữ
hay theo chủ đề từ cùng nghĩa, trái nghĩa, tục ngữ, ca dao, châm ngôn, những
gương người tốt, việc tốt. Sắp xếp thành chuyên mục như vậy sẽ dễ tìm, dễ lấy
để vận dụng đặt câu, dùng từ ngữ khi giao tiếp...;
* Ví dụ: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ: Dũng cảm” (tuần 26);
Bài tập 1: Tìm những từ ngữ cùng nghĩa và trái nghĩa với từ “dũng cảm”,
các em có thể dùng “Từ điển tiếng Việt” của mình để thi đua tìm được nhiều từ
cùng với các bạn hoặc các em sẽ ghi chép thêm những từ ngữ của các bạn tìm
được mà trong sổ mình chưa có;
- Từ cùng nghĩa: Quả cảm, gan dạ, gan góc, anh dũng,...
- Từ trái nghĩa: Nhát gan, nhút nhát, hèn nhát, bạc nhược,...
3.2.2.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến
- Sáng kiến đã được giáo viên tổ khối bốn của trường áp dụng. Những
biện pháp đề cập trong đề tài đã và đang tiếp tục được sử dụng tại đơn vị để
13


chứng minh cho tính khoa học và thực tiễn của đề tài;
- Nếu có điều kiện để triển khai rộng rãi, kết quả nghiên cứu của đề tài có
thể sử dụng dạy Luyện từ và câu ở lớp 3; 4; 5 của trường. Giải pháp này phù
hợp với từng khối lớp của trường. Các biện pháp này tạo nền tảng sẽ giúp các
em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích luỹ cho mình
những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác
trong tiếng Việt như: Chính tả, Tập làm văn,... Đồng thời học tốt các môn học
khác như: Toán, Tự nhiên – xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật,... Đặc biệt là khơi dậy
trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu quý sự phong phú của tiếng Việt, có

ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần giúp học sinh học tập tốt
hơn ở các môn học khác.
3.2.2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được của việc áp dụng sáng kiến
Sau khi thực hiện các biện pháp đã nêu để giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu lớp 4. Tôi thấy kết quả đạt được như sau:
- Học sinh nắm chắc hơn về từ, mở rộng được vốn từ;
- Học sinh có kĩ năng tốt trong việc sử dụng từ, đặt câu;
- Học sinh có khả năng vận dụng thực hành tốt hơn;
- Các em có thể kiểm tra, rà soát lại bài làm của mình và của bạn;
- Đặc biệt khả năng giao tiếp, tác phong nhanh nhẹn hơn trong học tập,
trong vui chơi. Thích học phân môn này hơn;
- Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên chất lượng môn Tiếng Việt so với
đầu năm học có nhiều tiến bộ rõ nét. Trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận
dụng từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Nay
các em đã hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm, biết giải nghĩa từ, vận dụng từ
vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh,
biết phát hiện câu chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài
tập làm văn hay.
Tuy kết quả đó là hết sức bé nhỏ, song nó cũng là động viên tôi rất nhiều
trong công tác giảng dạy tại trường.
* Đối với giáo viên
14


- Cần yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề, luôn thể hiện tình thương
trách nhiệm đối với học sinh;
- Không ngừng học tập trong sách vở, bạn bè đồng nghiệp, tích lũy kinh
nghiệm giảng dạy để nâng cao tay nghề. Sáng tạo trong giảng dạy;
- Nhận thức đúng vai trò phân môn Luyện từ và câu là khởi nguồn của
mọi quá trình nhận thức và giao tiếp;

- Nắm chắc nội dung, lựa chọn phương pháp giảng dạy sát đối tượng, với
nội dung bài học;
- Trong giảng dạy người giáo viên cần dự kiến tình huống xảy ra và biện
pháp tháo gỡ khắc phục.
…………………, ngày 15 tháng 04 năm 2016

Người viết

……………………………

15



×