CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:……………………………………………………
1. Tên sáng kiến: “Biện pháp giúp giáo viên trường Mầm Non nâng cao chất
lượng dạy học qua việc tổ chức hoạt động lấy trẻ làm trung tâm”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý chuyên môn
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống quốc dân. Nhiệm vụ
năm học 2015-2016 của ngành học là tiếp tục thực hiện ngày càng có chất lượng
chương trình giáo dục Mầm non, tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ theo hướng lấy
trẻ làm trung tâm;
Để nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết: Chúng ta phải nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, có phẩm
chất đạo đức tốt, có phong cách tự tin gần gũi trẻ. Biết phối hợp chặt chẽ với phụ
huynh để nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Tăng cường tổ chức các hoạt động cho
trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Đặt trẻ vào vị trí trung tâm của hoạt động, trẻ
vừa là chủ thể vừa là mục đích của quá trình hoạt động;
Tại trường Mầm Non tôi đang công tác đã nắm bắt được chương trình giáo
dục Mầm non mới về lý thuyết nhưng trong việc soạn giảng còn lúng túng, chưa có
kinh nghiệm thực tế trong việc tổ chức các hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung
tâm. Đa số còn dạy trẻ theo hướng lấy giáo viên làm trung tâm, cô hướng dẫn
nhiều, nói nhiều, trẻ ít được thực hành, trao đổi, một phần cũng do đồ dùng đồ chơi
còn hạn chế, chưa đầy đủ để trẻ hoạt động; Từ những hạn chế trên đã làm cho giáo
viên cảm thấy thiếu tự tin khi phải tổ chức các hoạt động theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm. Vì cô chỉ mong sao truyền đạt hết yêu cầu của nội dung bài. Giờ học của
trẻ trở nên nhàm chán, trẻ ít tập trung vì cứ nhìn cô hướng dẫn sử dụng, cô nói
nhiều, cô làm còn mình rất thụ động, dẫn đến tình trạng trẻ không thực hiện được
đầy đủ nội dung bài cô muốn dạy trẻ;
Để tháo gỡ khó khăn này, tôi luôn suy nghĩ và tìm ra phương pháp giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm vì chương trình giáo dục mầm non tốt là một chương trình lấy
1
trẻ làm chủ thể của hoạt động. Có nghĩa là nó được xây dựng dựa trên hứng thú,
nhu cầu, kinh nghiệm và khả năng của trẻ. Chương trình này sẽ tạo cơ hội cho trẻ
được phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng tới sự phát triển trí tuệ mà còn nuôi
dưỡng tâm hồn, phát triển thể chất và khả năng giao tiếp xã hội của trẻ. Xuất phát
từ yêu cầu thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Biện pháp giúp giáo viên trường Mầm
Non nâng cao chất lượng dạy học qua việc tổ chức hoạt động lấy trẻ làm trung
tâm”.
3.2. Nội dung giải pháp đầ nghị công nhận là sáng kiến
Mục đích của giải pháp
- Tìm ra những biện pháp để giúp giáo viên biết cách tổ chức các hoạt động
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm;
- Rút ra bài học kinh nghiệm về cách lập kế hoạch trên quan điểm giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm;
- Tạo điều kiện cho mỗi đứa trẻ được hoạt động tích cực phù hợp với sự phát
triển của bản thân trẻ, đáp ứng tối đa nhu cầu và hứng thú của trẻ trong quá trình
giáo dục.
Nội dung của giải pháp
- Giải pháp lấy trẻ làm trung tâm sẽ giúp trẻ được tạo nhiều cơ hội tự tham gia
trải nghiệm khám phá, trẻ được phát triển tư duy sáng tạo, giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ, tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ, thể chất, phát triển nhận thức. Những lợi
ích đó có liên hệ trực tiếp với phương pháp dạy của các giáo viên, đó chính là cách
tổ chức các hoạt động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
Các giải pháp
*Giải pháp 1: Hướng dẫn thiết kế môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm
Môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Là môi trường hoạt động mà trẻ tham gia xây dựng cùng giáo viên. Trẻ có thể
chủ động, tích cực: vui chơi, tìm tòi khám phá, trải nghiệm, thực hành, sáng tạo,
hợp tác, trò chuyện và chia sẻ ý tưởng;
2
Môi trường giáo dục cho trẻ mầm non là hoàn cảnh sinh hoạt của trẻ, toàn bộ
điều kiện tự nhiên và xã hội nằm trong khuôn viên của trường mầm non, gồm 2 bộ
phận không thể tách rời, liên quan chặt chẽ và bổ sung lẫn nhau, đó là:
Môi trường xã hội
Chính là bầu không khí giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với
những người xung quanh. Môi trường này vừa mang tính chất sư phạm vừa mang
tính chất gia đình;
Những điều giáo viên nên làm để tạo bầu không khí, mối quan hệ tình cảm
thân thiết, môi trường giao tiếp hòa đồng, cởi mở với trẻ:
+ Nói năng nhẹ nhàng. Tạo sự tin cậy, mong muốn chia sẻ: lắng nghe trẻ, gọi
tên trẻ, khi nói chuyện thì ngồi ngang tầm với trẻ và nhìn vào mắt trẻ;
+ Đáp ứng những nhu cầu và câu hỏi của trẻ, biết an ủi trẻ và giúp trẻ giải
quyết vấn đề 1 cách xây dựng. Tôn trọng tình cảm và ý kiến của trẻ: Không gò bó,
áp đặt, định kiến với trẻ;
+ Chấp nhận sự khác biệt của trẻ. Đánh giá sự tiến bộ của trẻ so với bản thân
+ Kiên nhẫn với trẻ. Chờ đợi trẻ. Tránh thúc ép trẻ. Khuyến khích trẻ bộc lộ
cảm xúc, ý nghĩ và tự tin diễn đạt bằng lời nói;
+ Tìm hiểu những gì xảy ra chứ không chỉ ngăn cấm những việc có thể gây
nguy hại đến trẻ;
+ Đưa ra những lời khuyến khích, những gợi ý để giúp trẻ có thể tự tìm ra cách
giải quyết được vấn đề của bản thân;
+ Tổ chức các hoạt động tập thể. Khuyến khích tinh thần cộng tác, trẻ cùng
nhau hoạt động và giúp đỡ lẫn nhau. Cho trẻ cơ hội tự phục vụ và giúp đỡ người
khác tùy theo khả năng. Gợi ý để trẻ mở rộng mối quan hệ qua lại;
+ Động viên sự lạc quan, tự tin vào bản thân “Chẳng có gì khó”, “Nhất định
làm được”, “Lần sau sẽ tốt hơn”...
+ Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của cô giáo và người lớn phải luôn mẫu mực để
trẻ noi theo;
+ Mối quan hệ giữa trẻ với trẻ là quan hệ bạn bè cùng học cùng chơi, đoàn kết,
hợp tác, chia sẻ, đồng cảm, học hỏi lẫn nhau. Giáo viên cần nhạy cảm để tận dụng
các mối quan hệ giữa trẻ với trẻ để giáo dục trẻ;
3
+ Gọi trẻ bằng con. Chỉ có cấp học mầm non mới có tiếng gọi thân thiết như
mẹ con trong gia đình. Dù giáo viên có “già” hay “trẻ” cũng đều gọi các cháu bằng
con (đây là cách gọi chỉ có ở cấp học Mầm non);
+ Có sự thống nhất giữa trường mầm non, gia đình và cộng đồng xã hội trong
việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
Môi trường vật chất: gồm phòng nhóm, lớp học, hành lang, sân vườn và
trang thiết bị đồ dùng dạy học (môi trường trong và ngoài lớp học);
Môi trường được xây dựng bởi: Toàn bộ đội ngũ giáo dục trong nhà trường,
gia đình của trẻ, cộng đồng tại địa phương, sự tham gia của chính trẻ.
*Môi trường trong lớp: Ở trong lớp, thường tạo các khu vực, các góc hoạt
động như góc xây dựng, góc phân vai, tạo hình, sách, khám phá, âm nhạc và vận
động, Bé tập làm nội trợ, máy vi tính... Góc hoạt động là nơi trẻ có thể tự chơi theo
ý thích cá nhân, phù hợp chủ đề, theo từng đôi hoặc nhóm nhỏ, nhóm lớn cùng sở
thích. Ở đó, trẻ học cách tự quyết định, chia sẻ và cộng tác với nhau. Trẻ được thực
hành, tích lũy kinh nghiệm phong phú, mở rộng trí tưởng tượng và có cơ hội để bộc
lộ khả năng. Vị trí và đồ dùng cần trang bị cho các góc chơi được gợi ý như sau:
Khu vực đóng vai
* Vị trí: Ở 1 góc phòng, không gian đủ để có thể chia thành 1 số khoảng nhỏ
* Trang bị đồ dùng đồ chơi: Tùy theo chủ đề cho trẻ sử dụng để tái hiện đặc
trưng, thuộc tính của một đối tượng nào đó trong cuộc sống.
Khu vực góc xây dựng, lắp ghép
* Vị trí: Ở nơi không cản trở lối đi lại, không gian đủ rộng cho trẻ xếp các hình
khối;
* Trang bị đồ dùng, đồ chơi: Giá, kệ mở, nhiều khối kích thước, hình, chất liệu
khác nhau, các đồ chơi hình người, con vật, thảm có, cây hoa, xe có bánh để đẩy,
toa xe chở hàng, xe cút kít, ô tô, xe đạp, bộ đồ chơi giao thông, tranh xây dựng, bìa
cát tông kích cỡ khác nhau, dải băng các loại, các bộ xếp hình, lắp ghép đa dạng về
hình dáng, kích thước và hướng dẫn lắp ráp, vật liệu để xâu xỏ (khuy áo, hột hạt,
ống chỉ, lõi cuộn giấy, cành que), gắn nối, cột dây, đan, bện, thắt, xếp lồng vào
nhau, xếp chồng lên nhau sỏi, đá cuội, hộp đựng, hồ dán, bút màu.....
Khu vực góc tạo hình
* Vị trí: Ở vị trí cố định trong phòng, nơi có đủ ánh sáng chiếu vào;
4
* Trang bị đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu: Bàn ghế, giá đựng, giá treo, giá
vẽ, rổ, khay, bảng, tranh ảnh nghệ thuật, họa báo, lịch, áp phích, quảng cáo, đồ mỹ
nghệ, dân gian, mẫu mô hình, giấy các loại, bìa, hộp cát tông, bút vẽ, sáp màu, đất
nặn, kéo, vải vụn, hộp đựng, phấn, thước, màu vẽ, hồ, đất nặn, áo choàng, nguyên
vật liệu thiên nhiên( que, hột hạt, sỏi đá, lá khô, rơm rạ, vỏ sò, ốc, nắp chai...), phế
liệu (miếng xốp, giấy gói hàng, giấy báo, giấy bìa, chai, lọ, hộp nhựa, hộp bánh, lon
coca...), đồ khâu vá, kẹp dây, máy đục lỗ, ghim và dập ghim, đồ dùng để in (các
con dấu, khuôn in bằng cao su, nhựa hay củ quả...)
Khu vực góc sách truyện, thư viện
* Vị trí: Nơi yên tĩnh, tránh lối đi lại, có ánh sáng tốt;
* Trang bị đồ dùng, đồ chơi và nguyên vật liệu: Bàn, ghế, giá sách, gối, nệm,
chiếu, các loại tranh ảnh sách, truyện, họa báo, tạp chí, album, keo dán, tẩy, bút,
kéo, hồ, các con rối, các thẻ tên.
Khu vực góc khám phá thiên nhiên, khoa học
* Vị trí: Hành lang hoặc ngoài sân;
* Trang bị: Giá, kệ, khay, lọ đựng có nắp, các loại hoa, cây cảnh không độc
hại, cây trồng ngắn ngày, hộp đựng cát và bộ đồ chơi với cát, hột hạt, thau chứa
nước và các đồ chơi để thả vào nước, áo choàng, khăn lau, chổi xẻng, khuôn, kính
lúp, tranh ảnh, que, sỏi đá, gỗ, hộp, lưới, hồ cá, dụng cụ cân đo, bàn tính, các hình
hình học, chữ cái, chữ số, phẩm màu.
Học liệu và các phương tiện trong góc hoạt động hợp lý:
+ Sắp đặt thuận tiện cho trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ cất;
+ Mang tính mở, không cố định trẻ phải sử dụng theo cách nào cho đúng;
+ Nguyên vật liệu tự nhiên và phế liệu;
+ Phản ánh rõ sự khác biệt văn hóa (mang màu sắc vùng miền, địa phương);
+ Đảm bảo rằng trẻ có thể thể hiện các ý tưởng và không bị gò bó;
+ Mỗi góc chơi đều được xác định rõ ràng với giới hạn bởi lối đi giữa các góc.
Hình ảnh bố trí tạo môi trường cho trẻ hoạt động trong lớp
5
+ Môi trường ngoài lớp
* Bố trí khuôn viên ngoài trời cần có:
- Hàng rào bao quanh bảo vệ;
- Khu vực bóng mát che nắng hay mưa.
+ Môi trường ngoài lớp
- Khu vực sân cứng (láng xi măng, lát gạch) để tập thể dục, chơi đồ chơi có
bánh xe, bóng, xây dựng với các khối lớn;
- Nơi chơi cát nước có gờ chắn để cát không vung vãi ra ngoài, trẻ sẽ chơi đắp
núi, đóng bánh, nếu rộng có thể chơi xây công trình thủy lợi, in dấu bàn chân, bàn
tay...
- Chỗ ngồi đa dạng: ghế đá, ghế tre, hàng gạch, khúc gỗ, gờ tường, lốp xe...
* Trang bị
- Thùng, thau, lưới, đất cát nước, cây cối;
- Bóng, vòng, dây nhảy, đồ chơi có bánh xe, đồ chơi cát nước, đồ mộc, đồ chơi
giao thông, đĩa bay, dù, diều, dụng cụ vẽ, thùng cát tông lớn;
- Nhà chòi, lều quán, ghế ngồi. Cầu trượt, cầu thăng bằng, xích đu, bập bênh,
thang leo, ống chui...
*Giải pháp 2: Hướng dẫn giáo viên lý thuyết về cách tổ chức các hoạt
động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
6
Trong quá trình giáo dục, trẻ em vừa là đối tượng của hoạt động, vừa là chủ
thể của hoạt động. Khi trẻ được trực tiếp tham gia trải nghiệm, giao tiếp, chia sẻ là
hoạt động giáo dục có hiệu quả nhất. Nếu trẻ chỉ nghe nhìn, thì thông tin kiến thức
thu nhận được 20%, nếu trẻ được trao đổi, chia sẻ ý kiến với nhau trong nhóm bạn
thì khả năng tiếp thu là 55%, khả năng thu nhận kiến thức sẽ tăng lên 90% khi trẻ
sử dụng các kiến thức đã học truyền lại cho các bạn học của mình. Nói một cách
khác, xây dựng kế hoạch, tổ chức các hoạt động phải hướng vào trẻ, lấy trẻ làm
trung tâm của quá trình giáo dục.
2.1. Kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
- Kế hoạch giáo dục là bản dự kiến các hoạt dộng giáo dục được sắp xếp theo
trình tự thời gian để đạt được mục tiêu;
- Kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là căn cứ vào trẻ, vào khả năng, nhu
cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục tiêu, nội dung. Tạo mọi cơ
hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động: Trải nghiệm, giao tiếp, suy ngẫm, trao
đổi. Giáo viên chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở, giúp trẻ chiếm lĩnh kiến
thức.
2.2. Việc xây dựng kế hoạch rất cần thiết
Giúp giáo viên dự kiến kế hoạch, chủ động tổ chức các hoạt động giáo dục
một cách hiệu quả. Có nhiều kế hoạch nhưng kế hoạch tuần và kế hoạch ngày là
quan trọng hơn cả, bởi vì:
+ Sát với thực tiễn đang diễn ra trong lớp;
+ Dễ nhìn thấy sự tiến bộ hay không tiến bộ của trẻ để có biện pháp giáo dục
có hiệu quả;
+ Giáo viên tập trung hơn vào đứa trẻ;
+ Kế hoạch càng ngắn hạn càng đòi hỏi giáo viên luôn phải suy nghĩ đến trẻ;
+ Giáo viên dễ dàng thực hiện những gì họ muốn dạy trẻ;
+ Việc xác định mục tiêu rõ ràng, cụ thể sẽ giúp giáo viên thực hiện tốt mục
tiêu đề ra.
2.3. Đặc điểm chính của giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
+ Trẻ nào cũng được hỗ trợ để tham gia;
+ Trẻ được khuyến khích để tạo ra sự lựa chọn;
+ Trẻ được khuyến khích để giải quyết vấn đề;
7
+ Trẻ được khuyến khích và hỗ trợ để hợp tác và làm việc cùng nhau;
+ Giáo viên xác định được và thỏa mãn những hứng thú, hiểu biết, ý kiến và
kỹ năng của trẻ, mở rộng việc học cho từng trẻ, sử dụng các câu hỏi để giúp trẻ
diễn đạt và bộc lộ những gì trẻ biết và hiểu;
+ Sự tương tác tích cực giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng.
2.4. Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm cần đảm bảo
+ Hứng thú, nhu cầu, khả năng, thế mạnh của mỗi đứa trẻ đều được hiểu, đánh
giá đúng và được tôn trọng;
+ Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội tốt nhất để thành công;
+ Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội để học bằng nhiều cách khác nhau kể cả thông
qua vui chơi.
2. 5. Tổ chức hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
Để trẻ thực sự trở thành trung tâm của việc xây dựng kế hoạch giáo dục thì
giáo viên cần có một quan điểm luôn hướng vào trẻ, căn cứ vào nhu cầu, khả năng
của trẻ để xây dựng và tổ chức các hoạt động giáo dục. Quá trình giáo dục được
thực hiện qua các hoạt động sau:
- Xây dựng kế hoạch giáo dục;
- Tổ chức thực hiện;
- Đánh giá kết quả để điều chỉnh kế hoạch cho thời gian tiếp theo.
2.5.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục
+ Xác định mục tiêu
Xác định theo các lĩnh vực;
Mục tiêu có thể phân ra thành 3 phần chính và những từ nên dùng để viết mục
tiêu như:
+ Kiến thức: Nhận ra, liệt kê, đếm, xây dựng, lựa chọn…
+ Kỹ năng: Quan sát, so sánh, phân tích, kể, nói được…
+ Thái độ: có ý thức, tự giác, bảo vệ…
Mục tiêu của bài học: trẻ sẽ đạt được gì? Làm được gì/hoặc sẽ trở nên như thế
nào. Mục tiêu đặt ra cần cụ thể, đo được, đạt được.
+ Lựa chọn nội dung
Từ mục tiêu cụ thể hóa nội dung;
8
Nội dung: Trả lời các câu hỏi Dạy trẻ hiểu gì? Biết gì? Dạy trẻ những kỹ năng
nào? Cần dạy trẻ những điều cụ thể, gần gũi, những điều trẻ muốn biết, phù hợp
với vùng, miền;
Mục tiêu và nội dung liên quan với nhau do đó có mục tiêu thì phải có nội
dung. Một mục tiêu có thể có 2-3 nội dung.
+ Lựa chọn hoạt động giáo dục
Theo chương trình Giáo dục mầm non, các hoạt động giáo dục gồm: Hoạt
động vui chơi (trong góc chơi và hoạt động ngoài trời), hoạt động học, hoạt động
ăn, ngủ, vệ sinh, hoạt động lao động. tham quan, lễ hội.
2.5.2. Tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục
Khi lập kế hoạch một hoạt động học: Có 6 câu hỏi được đặt ra
1. Hiện tại trình độ của trẻ như thế nào? Khảo sát, tìm hiểu trẻ;
2. Trẻ cần học gì tiếp theo? Chọn mục tiêu;
3. Trẻ cần làm gì để đạt những mục tiêu, yêu cầu này? Dự kiến các công việc /
hoạt động cụ thể của trẻ cho trẻ trải nghiệm nhằm vào các mục tiêu đã đặt ra;
4. Những học liệu nào được dùng để thực hiện kế hoạch này? Chọn học liệu,
chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi cho trẻ và cô;
5. Các hoạt động đã được lập và các học liệu đã chọn có phù hợp không? DạyTiến hành tổ chức các hoạt động đã được lập đối với trẻ;
6. Trẻ có học được những điều đã dạy thông qua các hoạt động đã tổ chức
không? Trẻ có đạt mục tiêu, yêu cầu đã đạt ra không? Đánh giá trẻ.
2.5.3. Tổ chức các hoạt động lấy trẻ làm trung tâm thì người giáo viên
- Hướng dẫn, khuyến khích, gợi mở, hỗ trợ và tạo cơ hội;
- Quan sát để đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá qua những câu
hỏi thắc mắc của trẻ;
- Trẻ tích cực, chủ động tham gia hoạt động, làm việc theo cặp, theo nhóm trải
nghiệm, trao đổi, chia sẻ, trình bày ý kiến;
- Phương pháp, hình thức tổ chức, đồ dùng sử dụng phù hợp, đúng lúc, đúng
chỗ để kích thích sự tìm tòi, phám phá của trẻ;
- Quan tâm đến hệ thống câu hỏi, khuyến khích trẻ đặt câu hỏi để học. Ví dụ:
+ Muốn biết được câu chuyện tên gì thì các con nên đặt câu hỏi nào? (khuyến
khích trẻ đặt câu hỏi);
9
+ Để hỏi nhân vật trong truyện thì theo con nên đặt câu hỏi nào? (trẻ tự đặt
câu hỏi và gọi bạn trả lời).
2.5.4.Việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch cần linh hoạt
+ Có những nội dung không đưa vào kế hoạch mà giáo viên cần giải quyết
trong hoàn cảnh thực tế xảy ra;
+ Có những nội dung đã xây dựng trong kế hoạch nhưng có sự thay đổi, nên
không thực hiện được phải thay bằng một nội dung khác;
+ Việc lập kế hoạch phải đảm bảo rằng từng trẻ trong lớp được hỗ trợ để phát
triển;
+ Việc lập kế hoạch cần chú trọng các hoạt động sao cho trẻ được “học bằng
chơi, chơi mà học”.
Các phần cụ thể của một kế hoạch
Các phần
Giới thiệu
bài
Phát
triển
bài
Hoạt động của giáo viên
- Kích thích tư duy của trẻ bằng
cách đưa ra tranh, ảnh, tình huống,
câu chuyện;
- Đặt câu hỏi (câu hỏi mở), nêu vấn
đề....
- Đưa ra mục đích học;
- Giải thích nội dung chính để trẻ tự
khám phá, tìm tòi;
- Tổ chức HĐ học theo nhóm, cá
nhân.
- Trẻ thực hiện các HĐ nhằm đạt
mục tiêu bài học;
- Hỗ trợ trẻ bằng cách hướng dẫn,
đặt câu hỏi gợi ý, giải đáp thắc mắc,
sử dụng đồ dùng dạy học;
- Làm việc cụ thể với 1 nhóm hoặc
đối tượng cần được quan tâm hơn;
- Khuyến kích trẻ tìm cách làm tốt
hơn;
- Quan sát động viên, giúp đỡ trẻ
10
Hoạt động của trẻ
- Quan sát, lắng nghe , tham
gia các hoạt động giáo viên
tổ chức;
- Tìm tòi khám phá theo
hình thức cá nhân, nhóm.
- Xác định được nhiệm vụ
cần làm;
- Tích cực tham gia các HĐ,
sử dụng ĐD, tranh ảnh…
- Tự hoặc làm việc theo
nhóm, lắng nghe ý kiến của
bạn, chia sẻ, trao đổi với
bạn;
- Kiểm tra công việc sửa sai
(nếu có) tìm cách làm tốt
kịp thời.
hơn.
Kết luận
- Khuyến kích trẻ trình bày kết quả; - Trình bày kết quả công
- Bổ sung nhấn mạnh những vấn đề việc.
chính;
- Khen ngợi động viên những trẻ,
nhóm tích cực.
Ban giám hiệu chỉ đạo cho toàn thể đội ngũ giáo viên nắm vững lý thuyết về tổ
chức hoạt động và bố trí môi trường cho trẻ hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung
tâm. Sau đó, giáo viên sẽ lập kế hoạch soạn giảng phù hợp chủ điểm lớp mình gửi
cho Ban giám hiệu duyệt. Giáo viên luyện tập xây dựng các kế hoạch tổ chức hoạt
động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm như các gợi ý tại phần 3.
*Giải pháp 3. Thực hành thiết kế tổ chức một số hoạt động cho trẻ theo
hướng lấy trẻ làm trung tâm (soạn giáo án)
Sự khác biệt của tổ chức hoạt động theo hướng lấy giáo viên làm trung tâm và
lấy trẻ làm trung tâm.
Tổ chức hoạt động lấy giáo viên
làm trung tâm
Tổ chức hoạt động láy trẻ làm trung
tâm
- Tập trung vào hoạt động của giáo
viên.
- Tập trung vào tổ chức các hoạt động
của trẻ.
- Giáo viên truyền đạt những kiến
thức đã xác định sẵn.
- Giáo viên tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt
động.
- Trẻ lắng nghe cô giảng giải.
- Trẻ chủ động thực hiện các hoạt động
tìm tòi, khám phá, phát hiện kiến thức
mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Giáo viên truyền đạt những hiểu
biết của mình cho trẻ.
- Giáo viên dựa vào vốn kiến thức kỹ
năng của trẻ để xây dựng nội dung giáo
dục phù hợp.
- Giáo viên đưa ra những kết luận cần - Tạo điều kiện cho trẻ tham gia nhận
thiết ( như dự định).
xét, đưa ra câu hỏi, tìm hiểu vấn đề, bổ
sung các câu trả lời của các bạn.
11
3.1. Lĩnh vực phát triển thể chất
Đề tài: Bài tập tổng hợp: Bé chơi với bóng (lớp mẫu giáo nhỡ)
Cách soạn trước: Cô hướng dẫn thật rõ kỹ thuật nhảy đánh bóng và bật xa.
Trẻ chú ý lắng nghe và làm theo cô.
Cách soạn hướng vào trẻ: Soạn tích hợp rèn luyện vận động thô và vận động
tinh thể hiện qua các trò chơi, cùng với những suy nghĩ, phán đoán trẻ tham gia vào
vai chơi rất nhiệt tình với hình thức “học mà chơi, chơi mà học”.
3.2. Lĩnh vực phát triển nhận thức
Đề tài: Sự lớn lên của con gà (lớp mẫu giáo lớn)
Nếu soạn theo kiểu giáo viên làm trung tâm như trước kia: Cô tập trung trẻ,
hướng dẫn cho trẻ xem quá trình phát triển của con gà, sau đó trẻ nhớ lại và tập xếp
theo sự hướng dẫn của cô. Kể về các bức tranh mình đã xếp;
Soạn theo kiểu lấy trẻ làm trung tâm: Cho trẻ suy nghĩ xem với những hình ảnh đã
có, trẻ tự sắp xếp quá trình phát triển con gà theo ý của mình và nêu lý do cho cô và
các bạn biết là tại sao mình xếp như vậy. Cô gợi ý, hướng dẫn. Trẻ sẽ sắp xếp lại
cho đúng qui trình. Tích hợp dạy tạo nhóm theo 6 giai đoạn phát triển của con gà.
3.3. Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ
Đề tài: Tạo hình con bướm (lớp mẫu giáo lớn)
Cách soạn trước: Cô hướng dẫn thật rõ kỹ năng Tạo hình con bướm. Trẻ chú ý
lắng nghe và làm theo cô;
Cách soạn hướng vào trẻ: Soạn tích hợp rèn luyện kỹ năng tạo hình con bướm
với các trò chơi phù hợp khả năng và độ tuổi của trẻ. Trẻ tham gia vào vai chơi rất
nhiệt tình với hình thức “ chơi mà học”.
3.4. Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
Đề tài: Thơ Gấu qua cầu (lớp mẫu giáo bé)
Cách soạn trước: Cô đọc mẫu bài thơ. Trẻ chú ý lắng nghe và đọc theo cô cho
đến khi thuộc dưới hình thức đọc thơ theo tổ, nhóm cá nhân;
Cách soạn hướng vào trẻ: Soạn tích hợp rèn luyện kỹ năng đọc thơ với các trò
chơi phù hợp độ tuổi của trẻ. Trẻ tham gia vào vai chơi rất nhiệt tình với hình thức
“chơi mà học”. Trẻ sẽ dễ nhớ, lời thơ sẽ khắc sâu vào trí nhớ trẻ nhiều hơn nhờ các
trò chơi thể hiện rõ nội dung lời thơ. Ví dụ chơi trò chơi “Gấu qua cầu” Trẻ suy
12
nghĩ thử xem làm cách nào qua được cầu. Khi được thực hành, trẻ dễ thuộc thơ hơn
là cứ cho trẻ đọc.
3.5. Lĩnh vực phát triển tình cảm xã hội
Đề tài: Hát: Sắp đến tết rồi (nhóm lớp: 25-36 tháng)
Cách soạn trước: Cô hát mẫu. Trẻ chú ý lắng nghe và hát theo cô cho đến khi
thuộc. Thể hiện được các động tác diễn cảm theo lời bài hát;
Cách soạn hướng vào trẻ: Soạn tích hợp rèn luyện khả năng ca hát với các trò
chơi phù hợp độ tuổi của trẻ. Trẻ tập nói lời chúc mừng nhân ngày tết đến phù hợp
độ tuổi nhà trẻ;
Ngày tết, chúng ta sẽ chúc tết ông bà, cha mẹ, anh chị. Các con chúc như thế
nào?
- Chúc ông bà: Con chúc ông bà sống lâu trăm tuổi, sức khỏe dồi dào;
- Chúc ba mẹ: Con chúc ba mẹ làm ăn phát tài. Sức khỏe nhiều nhiều;
- Chúc anh chị: Em chúc anh chị chăm ngoan, học giỏi;
-Nhắc trẻ khi nhận lì xì, nhận quà mừng tuổi của người lớn bằng hai tay và
biết nói cảm ơn…
3.6. Ngoài ra còn có nhiều kế hoạch soạn giảng khác tùy thuộc vào khả
năng sáng tạo của giáo viên
Sau khi hướng dẫn cho tất cả đội ngũ giáo viên của trường lý thuyết về cách
bố trí môi trường hoạt động, cách tổ chức các hoạt động theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm. Trong 3 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 12/2015) giáo viên tập xây
dựng kế hoạch, soạn kế hoạch và bố trí môi trường hoạt động theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm. Từ tháng 1/2016 đến tháng 3/2016 giáo viên luyện tập thực hành tổ
chức các hoạt động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
2.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Tiếp tục không ngừng bồi dưỡng cách tổ chức các hoạt động cho trẻ theo
hướng lấy trẻ làm trung tâm cho đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng ngành
học phù hợp với xu thế thời đại;
Với kết quả của đề tài này, tôi đã phổ biến cho giáo viên trong toàn cụm thuộc
ngành học Mầm Non trong huyện, và có thể nhân rộng cho cán bộ giáo viên Mầm
Non trong toàn tỉnh. Giáo viên các trường cũng đã từng bước tập tổ chức các hoạt
13
động cho trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, trường tôi đã tổ chức 2 tiết dạy cho
toàn cụm dự.
2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên tôi đã thu được kết quả như sau:
Đối với giáo viên
+ Giáo viên được nâng cao năng lực, nâng cao tay nghề, bình tĩnh tự tin và
sáng tạo hơn trong khi thiết kế các hoạt động cho trẻ. Giáo viên vững vàng hơn và
cũng trở nên thích thú hơn khi chuẩn bị các hoạt động cho trẻ theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm, giáo viên quan sát trẻ nhiều hơn, ít nói hơn nhưng tập trung theo
dõi, giúp đỡ, gợi mở và hướng dẫn cho trẻ. Cụ thể:
Đầu năm
BIỆN PHÁP
1. Bố trí môi trường hoạt động.
A
10
%
45,4
5
Cuối năm
A
22
%
100
2. Nắm vững lý thuyết tổ chức
11
22
100
hoạt động cho trẻ theo hướng lấy
50
trẻ làm trung tâm.
3. Biết thiết kế giáo án tổ chức
0
0
22
100
các hoạt động cho trẻ theo hướng
lấy trẻ làm trung tâm theo các lĩnh
vực phát triển.
+ Tạo cơ hội để giáo viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cùng nhau và có ý
tưởng sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động.
Đối với phụ huynh
+ Phụ huynh tin tưởng nhà trường hơn, vì thấy trẻ trở nên thông minh nhanh
nhẹn tự tin hơn, đa số các phụ huynh đều ủng hộ các nguyên vật liệu mở cho cô
giáo ở lớp để bố trí môi trường cho trẻ hoạt động.
Đối với trẻ
+ Trẻ nào cũng được hỗ trợ để tham gia, trẻ được khuyến khích để tạo ra sự lựa
chọn, được khuyến khích để giải quyết vấn đề, được khuyến khích và hỗ trợ để hợp
tác và làm việc cùng nhau;
Số
lượng
giáo
viên
A= 22
14
+ Trẻ tích cực, tự tin, hứng thú tham gia hoạt động. Biết vận dụng những kiến
thức đã học vào bản thân mình. Trẻ yêu trường lớp, yêu cô giáo và bạn bè, ham
thích đến trường, tích cực tham gia các hoạt động, các kỹ năng học tập cần thiết
được rèn luyện thường xuyên tạo nền tảng tốt khi trẻ bước vào lớp 1.
2.5. Tài liệu kèm theo: Không
15