Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.05 KB, 12 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:………………………..
1. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác giảng dạy
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1 Tình trạng giải pháp đã biết
Trong những năm gần đây, qua tìm hiểu tình hình học sinh cấp tiểu học
đồng thời qua thực tế giảng dạy, tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh chưa được tốt.
Có nhiều em đọc yếu. Thậm chí học sinh lớp 4 - 5 còn đánh vần. Đọc chưa thể
hiện được giọng điệu theo nội dung bài, theo thể loại văn tả, kể chuyện, kịch, lời
đối thoại. Các em đọc chưa lưu loát, phát âm bị lẫn phụ âm đầu, thanh, vần,
chưa biết cách đọc hiểu, dẫn đến việc cảm nhận cái hay, cái đẹp của văn bản còn
khó khăn. Điều này ảnh hưởng không ít đến việc học tập và cả kết quả giáo dục
của lớp;
Học sinh có đọc thông thạo và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn,
đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc, hiểu tường tận về nội
dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài;
Đọc là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động
cơ học tập; giúp trẻ thêm tự tin trong giao tiếp và học tập. Chính vì vậy, dạy đọc
có một ý nghĩa vô cùng to lớn ở bậc tiểu học.
Ưu điểm của giải pháp cũ
Các giải pháp trước đây đã nêu được trình tự của các bước khi dạy học sinh
luyện đọc. Đồng thời, đưa ra những biện pháp giúp học sinh cảm thụ được nội
dung bài đọc và một số cách luyện đọc tốt.
Nhược điểm của giải pháp cũ
- Chưa tìm hiểu kĩ để phân loại học sinh theo khả năng đọc từ đó có những
giải pháp phù hợp để rèn luyện từng cá nhân học sinh giúp em tiến bộ hơn;
1




- Chưa có những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đọc ở từng giai
đoạn;
- Chưa có nhiều dẫn chứng thực tế trong giảng dạy đối với những bài khó
trong việc luyện đọc;
- Chưa tạo cho học sinh sự thoải mái, ham thích đọc, học mà chơi, chơi mà
học để giúp trẻ thêm tự tin trong giao tiếp và học tập.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
Bước đầu hình thành cho học sinh cách đọc đúng và phát triển cho các em
cách đọc tốt kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú cho các em; giúp học sinh
có khả năng sử dụng, tiếp thu các nguồn thông tin, chiếm lĩnh được một ngôn
ngữ để cùng giao tiếp và học tập; học sinh hứng thú đọc và đọc tốt hơn, cảm thụ
tốt hơn; góp phần làm cho tiết học sinh động, học sinh tích cực, không nhàm
chán; giúp các em học tốt tất cả các môn, nâng cao chất lượng dạy và học.
3.2.2. Nội dung của giải pháp
a) Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp so với giải pháp đã,
đang được áp dụng
Rèn đọc không có nghĩa là chỉ bó buộc trong tiết Tập đọc mà qua giao tiếp
cũng là một giải pháp giúp các em rèn đọc. Tạo cho học sinh sự thoải mái, ham
thích đọc, học mà chơi, chơi mà học. Giúp trẻ thêm tự tin trong giao tiếp và học
tập;
Đọc tốt văn bản nghệ thuật bồi dưỡng cho học sinh tình yêu thiên nhiên,
yêu cái đẹp, yêu cái thiện, yêu lẽ phải và sự công bằng. Từ đó góp phần hình
thành nhân cách, làm cho các em thêm yêu quý tiếng mẹ đẻ, có ý thức nói đúng,
đọc đúng, câu văn được trau chuốt. Không những thế còn giáo dục các em biết
giữ gìn, bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt.
b) Các bước thực hiện của giải pháp
Trước hiện trạng đó, để rèn cho học sinh đọc tốt, đọc diễn cảm tôi đã

nghiên cứu và vận dụng những giải pháp sau để nâng cao chất lượng đọc và học
tập của học sinh:
2


- Phân loại học sinh theo khả năng đọc
Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm
chắc đối tượng học sinh và lựa chọn, đặc biệt là về kĩ năng đọc và phân loại học
sinh theo ba đối tượng:
+ Đối tượng 1: Học sinh biết đọc tốt;
+ Đối tượng 2: Học sinh đọc to, rõ, lưu loát nhưng chưa diễn cảm;
+ Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, đọc chậm, ấp úng; …
Dựa vào kĩ năng đọc của từng học sinh mà sắp xếp chỗ ngồi cho các em
đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để tạo thành đôi bạn cùng tiến. Ở
từng chủ điểm tôi giới thiệu ý chính của chủ điểm được thể hiện trong các bài
đọc để các em bước đầu nắm được ý nghĩa của bài đọc, cũng như yêu cầu cơ bản
để từ đó các em rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt hiệu quả hơn.
- Chuẩn bị trước khi luyện đọc
Do học sinh không luyện đọc trước bài tập đọc, nên các em thường đọc
thêm chữ, bớt chữ và tốc độ đọc còn chậm. Vì vậy, giáo viên cần liên hệ, hoặc
gặp trực tiếp gia đình trao đổi về việc đọc của các em. Từ đó gia đình sẽ đôn đốc
và nhắc nhở các em thường xuyên trong việc rèn luyện đọc. Có như vậy, thì học
sinh sẽ đọc có tiến bộ và không còn mắc phải những lỗi đó nữa;
Để phát huy tốt hơn nữa việc rèn đọc cho học sinh, ngay từ đầu năm học
cần thu thập thông tin về tình trạng khởi đầu của học sinh, về sự phát triển trí
tuệ, vốn hiểu biết ban đầu của học sinh về các mặt chủ yếu như : kỹ năng, thái
độ, nề nếp học tập… Quan tâm đến việc luyện đọc ở nhà và đánh giá tìm ra giải
pháp phù hợp giúp học sinh khắc phục sai sót. Nếu học sinh không thực hiện cần
tìm hiểu vì sao không làm, trao đổi cặn kẽ với phụ huynh học sinh bằng cách gửi
thư hoặc gặp trực tiếp phụ huynh em đó để tìm ra nguyên nhân. Từ đó sẽ tìm ra

nguyên nhân để tiến hành bồi dưỡng ngay, để giúp học sinh theo kịp các bạn.
- Luyện đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không đọc thiếu. Bên cạnh việc
hướng dẫn cho học sinh đọc đúng các tiếng, từ khó, tôi hướng dẫn các em đọc
3


đúng tiết tấu, cách ngắt hơi, nghỉ hơi và ngữ điệu câu. Để học sinh ngắt giọng
logic - đúng, tôi đã hướng dẫn các đọc như sau :
+ Ngắt sau dấu phẩy : là dấu được đặt vào khi câu văn chưa hoàn chỉnh,
sẽ còn ý tiếp nối. Sau dấu phẩy nghỉ hơi ngắn và lên giọng một chút;
+ Ngắt sau dấu chấm : là dấu báo hiệu ý trọn vẹn. Vì vậy, nghỉ hơi dài hơn
so với dấu phẩy và bằng một nửa thời gian dấu chấm xuống dòng và hạ thấp
giọng;
+ Ngắt hơi sau dấu hai chấm : là dấu báo hiệu điều sẽ được trình bày, giải
thích, thuyết minh vấn đề vừa nêu. Khi đọc ngừng lại một chút và hơi hạ giọng;
+ Đặc biệt với những câu có dấu chấm lửng, khi đọc học sinh còn lúng
túng không biết đọc như thế nào, tôi hướng dẫn học sinh đọc kéo dài chỗ có dấu
chấm lửng. Ví dụ : “- Ở…sau bức tra…anh trong nhà của bác Các - lô ạ” (Bài :
“Trong quán ăn “Ba cá bống” ” - Tiếng việt 4 - tập 1). Tôi hướng dẫn học sinh
đọc kéo dài tiếng “ở” và “tra”;
Hoặc với câu chỉ nói ngập ngừng, chưa nói hết thì khi đọc cần nghỉ hơi
một quãng bằng thời gian phát âm một tiếng và đọc với ngữ điệu yếu;
Ví dụ : “Chuyện ngày xưa…đã có bờ tre xanh.” (Bài : “Tre Việt Nam”,
Tiếng việt 4 - tập 1);
Đối với những bài văn xuôi, khi đọc, ngoài việc tìm những dấu câu đặc
biệt (câu hỏi, câu cảm, câu khiến,…) để hướng dẫn học sinh đọc đúng, giáo viên
còn phải chú trọng đến việc ngắt hơi ở những câu dài, không có dấu phẩy ta cần
dựa vào nghĩa của từ để ngắt câu. Nhờ hiểu nghĩa và các mối quan hệ ngữ pháp

mà học sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngược lại. Chỗ ngắt giọng cũng là một
căn cứ để người nghe xác định được ý nghĩa, nội dung bài đọc. Muốn hướng dẫn
học sinh đọc những câu này tôi đã tìm hiểu, soạn trước những câu văn dài, xác
lập chỗ cần ngắt giọng hoặc những câu văn không dài nhưng học sinh khó xác
lập được đúng cách ngắt, nghỉ. Với loại câu này tôi gọi học sinh nêu cách ngắt,
nghỉ hơi, gạch dưới những từ cần nhấn giọng để học sinh tìm ra cách đọc, giáo
viên là người nhận xét - bổ sung. Sau đó có thể cho học sinh luyện đọc theo cách
đọc các em vừa tìm hiểu;
4


Ví dụ : Bài (“Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi) – Tiếng việt 4 - tập 1.
“Trên mỗi chiếc tàu,/ông dán dòng chữ/ “Người ta thì đi tàu ta”/ và treo
một cái ống/ để khách nào đồng tình với ông/ thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho
chủ tàu.//”
Ngoài ra, để đọc đúng, tôi còn yêu cầu học sinh khi đọc không được đọc
ngắt hơi giữa hai tiếng trong một từ.
Ví dụ: không đọc: “Cánh diều mềm/ mại như cánh bướm.” mà đọc là
“Cánh diều mềm mại như cánh bướm.” (Bài: “Cánh diều tuổi thơ” - Tiếng việt
4-tập 1);
- Không tách quan hệ từ “là” với danh từ đi sau nó. Ví dụ : không đọc :
“Măng non là/ búp măng non.” mà đọc liên tục không nghỉ hơi “Măng non là
búp măng non.” (Bài : “Tre Viêt Nam” – Tiếng việt 4 – tập 1);
Khi chuẩn bị đọc bài, tôi chuẩn bị rất kĩ và dùng bút chì ghi các kí hiệu sau
đây vào bài, trước khi đọc cho học sinh nghe.
Dấu /

: ngắt , nghỉ hơi

Dấu //


: nghỉ hơi dài

Dấu

: lên giọng

Dấu

: xuống giọng

Dấu …

: đọc kéo dài

Dấu

: dưới tiếng, từ phát âm khó

Đối với các em phát âm còn sai, tôi dành thời gian giúp các em phân biệt
từ để đọc. Ví dụ : Bao la / cái loa, xòe / xè, sông nước / xông xáo…
Đối với các em phát âm chưa chuẩn, tôi hướng dẫn các em cách phát âm,
bật hơi, vị trí lưỡi, răng, môi để các em phát âm tốt hơn. Ví dụ như giúp các em
phân biệt được cách phát âm giữa th/h, tr (cong lưỡi)/t (không cong lưỡi, đọc
nhẹ); ...
Đối với các em phát âm còn lẫn giữa dấu hỏi và dấu ngã, tôi lưu ý các em
rằng đối với những tiếng có thanh ngã các em cần đọc kéo dài hơn một chút so
với tiếng có thanh hỏi. Và cần nhắc các em thường xuyên, để từ đó các em đọc
5



bài đúng và hay. Cho học sinh học thuộc lòng một số chữ có dấu hỏi và dấu ngã
thường hay gặp. - ngã: cũng, sẽ, những, vẫn, hãy…
- hỏi: bẩn, mổ, sẻ, nhổ, mở…
Khắc phục lỗi phát âm mang tính chất địa phương cho học sinh. Tôi luôn
phát âm chuẩn trong tất cả các hoạt động giao tiếp như dạy học, trò chuyện với
học sinh. Luôn khuyến khích học sinh nghe đài, xem ti vi để học cách phát âm
chuẩn. Thường xuyên sửa lỗi phát âm mang tính chất địa phương như :
+ “về” đọc thành “dề”
+ “vở” đọc thành “dở”
+ “tre” đọc thành “che”; …
Bằng cách phát âm mẫu, giải thích cho các em thấy được vị trí của bộ máy
cấu âm (môi, răng, lưỡi) khi phát ra các âm này. Biện pháp này, được vận dụng
trong tất cả các tiết học, theo phương châm “Sai đâu sửa đó”;
Đối với những học sinh đọc quá nhanh dẫn đến đọc sai từ, thêm hoặc bớt
từ, tôi tập cho các em tính cẩn thận, nhìn kĩ từ ngữ khi đọc, bình tĩnh, tự tin;
Trong giờ truy bài, tôi cho học sinh đọc yếu đọc bài một lần (từ 3 câu, đến
1 đoạn, đến cả bài). Trong giờ học thường xuyên cho học sinh yếu đọc. Dành
phần đọc dễ (đọc ít), cho học sinh yếu để các em có cơ hội làm quen và dễ phát
huy. Trong giờ chơi tôi gọi em lên và hỏi : Ngày mai mình học Tập đọc bài gì?
Trong bài đó theo em, em thích câu nào nhất? Em đọc cho cô nghe, học sinh sẽ
đọc, giáo viên uốn nắn, sửa chữa. Còn cô, cô thích câu này. Cô đọc và cho học
sinh đó lặp lại. Hằng tuần cho các em học sinh yếu đọc trước lớp câu, từ, đoạn
để khẳng định việc tiến bộ của em với cả lớp. Em sẽ mạnh dạn hơn trong khi
đọc (xung phong đọc);
Trong tiết học, tôi luôn cố gắng tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được
tham gia đọc thành tiếng với nhiều hình thức.
- Luyện đọc lưu loát
Đọc lưu loát là phẩm chất đọc về mặt tốc độ, không ê a, ngắt ngứ. Tốc độ
đọc nhanh chỉ thực hiện khi đã đọc đúng. Khi đọc, phải chú ý xác định tốc độ để

cho người nghe kịp hiểu. Nhưng đọc nhanh không phải là đọc liên tục, không
6


ngừng nghỉ. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với
tốc độ của lời nói (cứ 120 tiếng/ phút). Khi đọc thầm, tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều;
Muốn cho học sinh đọc nhanh, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài tốt, học
sinh phải đọc trước nhiều lần;
Đối với các em đọc chậm, tôi tổ chức cho các em luyện đọc thêm trong giờ
truy bài, sau giờ học;
Trên lớp, tôi hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu
cho học sinh đọc thầm theo;
- Luyện đọc có ý thức (đọc hiểu)
Để giúp học sinh đọc, cảm nhận được văn bản thì trong giờ Tập đọc phải
chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đây là vấn đề cần thiết, quan
trọng đối với học sinh lớp 4. Có hiểu được nội dung bài thơ, bài văn thì mới có
cách đọc đúng, đọc tốt được. Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong
bước đọc thầm. Như vậy, học sinh đã được đọc thầm nhiều lần trước khi phân
tích nội dung bài học. Việc đọc thành tiếng và đọc thầm đã được kết hợp nhuần
nhuyễn với nhau. Để giúp học sinh đọc hiểu tốt, tôi thường sử dụng phương
pháp đàm thoại, hỏi - đáp kết hợp nêu vấn đề, dẫn dắt, gợi mở, sử dụng đồ dùng
trực quan giúp học sinh hiểu nghĩa của từ và nội dung của đoạn, bài;
Tôi hướng dẫn các em đọc thầm kết hợp với đọc thành tiếng một đoạn hoặc
cả bài và trả lời câu hỏi. Để giúp các em hiểu được nội dung bài, tôi thường xem
xét hệ thống câu hỏi, nếu cần có thể bổ sung hoặc xây dựng lại sao cho phù hợp
với nhận thức của học sinh;
Phát hiện tín hiệu nghệ thuật là việc làm hết sức cần thiết. Tất cả những
việc như: yêu cầu học sinh nắm ý chính của bài, hiểu được nội dung nghệ thuật
của bài giúp các em cảm thụ sâu sắc hơn nội dung bài từ đó giúp học sinh có
cách đọc đúng, đọc tốt hơn;

Trong quá trình hướng dẫn học sinh hiểu bài tập đọc, tôi cũng thường chú ý
sửa cho học sinh đọc đúng tiếng, từ ; ngắt - nghỉ hơi đúng chỗ (nếu có), để cho
các em chuyển sang phần đọc diễn cảm tốt hơn.
7


Ví dụ: Khi dạy bài “Trung thu độc lập” (Tác giả: Thép Mới - Tiếng việt 4 tập 1):
Học sinh đọc đoạn 1 và các em thấy được cảnh đẹp của đất nước qua các
câu văn miêu tả Trung thu độc lập đầu tiên của đất nước. “... Trăng ngàn và gió
núi bao la khiến lòng anh...”;
Đoạn 2: Đây chính là mơ tưởng của anh chiến sĩ - Mơ ước của anh rất đẹp
và ước mơ đó đã thành sự thực. “... Mươi mười lăm năm... dòng thác nước chảy
xuống làm chạy máy phát điện”;
Đoạn 3: Học sinh đọc và thấy được niềm tin của anh chiến sĩ về những tết
Trung thu sau là niềm tin vào tương lai. “Anh mừng cho các em... Tết Trung thu
sau còn tươi đẹp hơn”.
- Luyện đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương
hoặc có yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm
chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ đọc,… để biểu đạt đúng ý nghĩa và
tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu,
cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở
mức độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng, đọc lưu loát;
Nội dung của bài đọc quy định ngữ điệu của bài đọc nên tôi không bao giờ
áp đặt sẵn giọng đọc của bài mà để học sinh tự nêu cách đọc và đọc trên cơ sở
đã hiểu từ, hiểu nghĩa. Giáo viên chỉ lắng nghe, sửa cách đọc cho từng học sinh.
Tôi luôn khuyến khích động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm;
Giúp học sinh tìm đúng và đọc đúng giọng: Vui, buồn, giận dữ, trang
nghiêm, … phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể
loại, đọc có cảm xúc cao;

Đọc mẫu của giáo viên: Việc đọc mẫu của giáo viên cũng góp phần không
nhỏ trong việc luyện đọc cho học sinh. Vì vậy, trước mỗi giờ dạy, tôi phải
nghiên cứu nội dung bài dạy, tìm cách đọc hay nhất và tập đọc nhiều lần. Trên
lớp, tôi chú ý đọc mẫu thật tốt để học sinh cảm thụ được bài học hiệu quả nhất.
Có nhiều cách đọc mẫu như: Đọc mẫu ở đầu tiết, giữa tiết hay cuối tiết học; đọc
8


mẫu toàn bài; đọc mẫu từ, cụm từ, câu, đoạn. Vì vậy, tùy theo từng bài, từng nội
dung mà giáo viên lựa chọn cách đọc mẫu phù hợp;
Với bài Tập đọc miêu tả: Tôi hướng dẫn các em biết nhấn giọng ở từ ngữ
biểu cảm, gợi tả, từ chỉ đặt điểm, tính chất có tác dụng làm nổi bật ý nghĩa của
đoạn văn;
Với bài tập đọc là truyện kể:
Tôi hướng dẫn các em đọc đúng lời của nhân vật và chuyển giọng linh họat
cho phù hợp với từng nhân vật để làm rõ tính cách của nhân vật đó;
Để rèn khả năng đọc đúng các câu đối thoại, đúng giọng của các nhân vật,
tôi tổ chức cho các em đọc phân vai theo nhóm, thi đua, bình chọn bạn, nhóm
đọc hay nhất. Trên cơ sở đọc và sửa trong nhóm, đọc trước lớp, các em sẽ biết
đọc đúng các câu đối thọai và biết thể hiện rõ tính cách của từng nhân vật;
Luyện đọc nhấn giọng:
- Nhấn giọng vào điệp ngữ :
Ví dụ : Bài “Tre Việt Nam” - Tiếng việt 4 - tập 1.
“Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”
Trên cơ sở học sinh đã hiểu những câu thơ ở phần kết thúc bài : Khẳng định
màu xanh vĩnh cửu của tre Việt Nam, sức sống bất diệt của con người Việt Nam,
truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam, tôi hướng dẫn học sinh cách nhấn

giọng vào điệp ngữ “ Mai sau”.
- Nhấn giọng vào đảo ngữ :
Ví dụ : Bài “Đường đi Sa Pa” - Tiếng Việt 4 - tập 2. Để giúp các em cảm
nhận được vẻ đẹp nên thơ và huyền ảo của Sa Pa, tôi hướng dẫn các em đọc
nhấn giọng ở những chỗ đảo vị ngữ ( trắng long lanh )
“Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê,
mận.”
9


- Nhấn giọng vào hình ảnh so sánh : Ví dụ : Bài : “Con chuồn chuồn
nước” Tiếng Việt 4 - tập 2;
“Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh
như thủy tinh.”
- Nhấn giọng những từ ngữ mà tác giả đã dùng những biện pháp nhân hóa.
Ví dụ : Bài : “Bè xuôi sông La” Tiếng Việt 4 - tập 2.
Nhà thơ đã nhân hóa sông La, gọi tên sông một cách trìu mến như gọi một
con người ( nhấn giọng từ “ơi” ). “Sông La ơi sông La”
Vẻ đẹp của dòng sông La chẳng khác nào vẻ đẹp của một người con gái
quê hương. Vì vậy, khi đọc cần nhấn giọng từ : “trong veo”, “mươn mướt”.
“Sông La ơi sông La
Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát
Mươn mướt đôi hàng mi.”
Trong quá trình rèn đọc diễn cảm, tôi lưu ý học sinh đọc nhấn giọng
không có nghĩa là đọc to lên mà chỉ cần phát âm mạnh hơn hoặc ngân dài một
chút là được ;
Trong khi rèn đọc diễn cảm, tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh
rụt rè, nhút nhát, tôi thường xuyên động viên, khuyến khích, không làm cho các
em luống cuống. Đối với những học sinh nghịch ngợm, không tập trung hay

phân tán tư tưởng, tôi thường chú ý để chỉ định các em đọc tiếp. Đối với những
em đọc diễn cảm chưa tốt tổ chức cho các em luyện đọc diễn cảm theo nhóm để
các em kèm cập, giúp đỡ lẫn nhau.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Qua thực tế áp dụng tôi thấy các giải pháp nêu trên có thể áp dụng cho tất
cả các lớp khối 4, 5 trong trường cũng như các trường khác. Tùy tình hình của
từng lớp mà áp dụng có hiệu quả.
3.4. Hiệu quả của việc áp dụng các giải pháp
Trong suốt 3 năm học 2013 - 2014, 2014 - 2015 và 2015 - 2016 bằng
những biện pháp trên, nhờ kiên trì thực hiện mà chất lượng đọc của học sinh đã
10


có nhiều chuyển biến rõ rệt, chất lượng đọc của lớp tốt hơn đưa đến quả học tập
cũng khá cao ;
Đầu năm học thì có nhiều em đọc chưa đạt yêu cầu, đến học kì I có giảm,
các em đọc còn chậm nhưng đã có chuyển biến tốt hơn. Đến cuối năm đã có
chuyển biến rõ rệt. Cụ thể như sau :

Năm học

2013

Đầu
năm
Cuối

2014
2014


năm
Đầu
năm
Cuối

2015
2015

năm
Đầu
năm
Cuối

2016

năm

Tổng

Đọc chậm,

Đọc ngắt

số

nhỏ, chưa lưu

nghỉ hơi

HS


loát

chưa hợp lí

23

9 em - 39.1%

23

5 em - 21.7%

30

12 em - 40%

30

5 em - 16.7%

27

10 em - 37%

27

3 em - 11.1%

Đọc chưa đúng

Đọc diễn

tiếng, từ do lỗi

cảm

phát âm
phương ngữ.

8 em -

5 em -

34.78%
4 em -

21.7%
13 em -

17.4%
10 em -

56.5%
7 em -

33.3%
4 em -

23.3%
20 em -


13.3%
9 em -

66.7 %
6 em -

33.3%
3 em -

26.1%
20 em -

11.1%

74.1%

7 em - 30.4%
4 em - 17.4%
11 em 36.7%
4 em - 13.3%
10 em - 37%
3 em - 11.1%

Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo phương pháp nêu
trên, hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt
động tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc chưa đạt
yêu cầu giảm đi. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt;
Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy biện pháp mà tôi đưa
ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện

pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc của các em
sẽ được nâng lên;
Với kết quả trên, tôi hết sức vui mừng. Bởi vì, những giải pháp mà tôi áp
dụng đã bước đầu mang lại hiệu quả. Đó cũng là nguồn động viên quý báu để tôi
tiếp tục cố gắng. Tôi sẽ chia sẻ những giải pháp này với các đồng nghiệp cùng
11


khối lớp với tôi và hơn thế nữa là giáo viên của khối lớp 5 để giúp các em học
sinh đọc tốt hơn.

12



×