Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Skkn tạo hứng thú học tập cho bộ môn ngữ văn ở trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.78 KB, 11 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh phúc

MÔ TẢ SÁNG KIẾN

Mã số: ......................................
1. Tên sáng kiến: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
CHO BỘ MÔN NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ”
2. Lĩnh vực áp dụng: Môn ngữ văn cấp Trung học cơ sở
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Nếu như ở các bộ môn khác mà học sinh được học trong chương trình đã cung
cấp cho các em những tri thức hiểu biết về nguồn cội con người, về kiến thức khoa
học của nhân loại, về cuộc sống, sinh thái … thì bộ môn Ngữ văn cũng góp một phần
rất lớn và quan trọng cho sự phát triển toàn diện của các em. Bộ môn này giúp các em
rất nhiều trong giao tiếp, biết tạo lập được các loại văn bản, các em sẽ thấu hiểu,
thông thạo và giàu ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt là sự phân biệt và cảm thụ cái hay, cái
đẹp tinh hoa văn hoá nghệ thuật. Và đặc biệt bộ môn này trực tiếp giúp các em hình
thành ý thức, đạo đức, phẩm chất, nhân cách của con người.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Ngữ văn Trung học cơ
sở. Mỗi lần lên lớp, bản thân luôn băn khoăn trước việc học của học sinh mình. Môn

Trang 1


ngữ văn cũng là một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục. Nhưng tại sao
các em ít đạt điểm khá giỏi mặc dầu thang điểm cũng có 9,10; dù giáo viên rất nhiệt
tình giảng dạy? Hay các em chưa có hứng thú học văn? Khi lên lớp kiểm tra, phần
lớn học sinh kiến thức cũ thì không nhớ còn bài mới thì không soạn, có những em còn
chưa đọc trước văn bản ở nhà mặc dù giáo viên hướng dẫn về nhà thật cụ thể, rõ ràng.
Như vậy làm sao các em cảm thụ được văn bản chuẩn bị tìm hiểu? Vì thế, trong giờ


học, học sinh ít tham gia xây dưng bài, nói chuyện hoặc làm việc riêng tạo cho không
khí lớp học căng thẳng, không sinh động, giờ học kém hiệu quả. Kiến thức có được
chủ yếu trông chờ vào giáo viên cung cấp.
Từ thực trạng trên, cùng với nhiệt huyết yêu nghề mong sao có những kết quả
cao nhất từ phía học sinh, tạo cho các em một hứng thú tự giác học tập bộ môn này.
Qua quá trình giảng dạy nghiên cứu áp dụng. Tôi tự rút ra một sáng kiến kinh nghiệm
cho bản thân trong dạy văn, đó là một số biện pháp “Tạo hứng thú học tập cho bộ
môn Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở”.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
3.2.1. Mục đích chọn giải pháp:
Với đề tài này bản thân tôi muốn tìm hiểu và áp dụng một số sáng kiến để nâng
cao nghiệp vụ chuyên môn trong giảng dạy, sao cho có một kết quả tốt hơn. Và làm
sao cho học sinh có niềm đam mê hứng thú trong việc học tập môn ngữ văn.
3.2.2. Nội dung giải pháp:

Trang 2


So với giải pháp cũ, giải pháp mới có nhiều ưu điểm hơn: Nó phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh, giảm bớt sự căng thẳng, làm cho giờ học nhẹ nhàng
thoải mái hơn, tạo được mối quan hệ gần gũi thân thiện giữa giáo viên và học sinh.
Góp phần vào việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng bộ môn, xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực.
Để đạt được mục đích trên, tôi đề ra một số giải pháp, sáng kiến khắc phục và đưa
vào áp dụng trong thực tiễn như sau :
Nhầm giúp học sinh có sự hứng thú học tập môn ngữ văn, trước khi lên lớp người
giáo viên phải có sự chuẩn bị thật công phu, cẩn thận, phải nghiên cứu bài tìm ra các
phương pháp phù hợp, các hình thức tổ chức sinh động, chuẩn bị bài có tính lô-gic, hệ
thống câu hỏi tư duy, câu hỏi gợi ý phải sát với từng đối tượng học sinh và kích thích
học sinh tìm tòi kiến thức trong và ngoài sách giáo khoa. Cụ thể như sau :

*Thứ nhất : Cho học sinh thấy được ý nghĩa của bộ môn đối với bản thân các em.
+ Trước hết giáo viên nêu vấn đề : Muốn làm một bài văn được trôi chảy, lưu loát ta
phải làm sao? Khi hoàn cảnh cần viết một lá đơn, một biên bản ta phải viết như thế
nào? Hoặc muốn viết một lá thư cho ai đó ta phải viết làm sao cho tốt ? Vậy phân
môn Tập làm văn sẽ giúp các em đáp ứng được yêu cầu đó.
+ Và cơ sở nào giúp em làm một bài văn, tạo một văn bản cho tốt? Khi giao tiếp tại
sao có người nói chuyện, trình bày một vấn đề rất trôi chảy, lưu loát. Nhưng lại có
người nói cứ ấp úng không tìm ra ngôn từ để giãi bày ý kiến? Đó là do họ chưa nắm
được từ vựng, nghĩa của từ … Học phân môn Tiếng Việt giúp các em được điều này.

Trang 3


+ Hơn thế nữa điều gì giúp các em phân biệt thiện, ác hiểu được đâu là lẽ phải, đâu là
sai trái, hiểu biết được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, phần văn bản sẽ giúp các em
những điều này và thấu hiểu được tình người với nhau và cả một thế giới muôn hình
muôn vẻ được gởi gắm vào văn chương mà muốn tìm hiểu được chúng ta sẽ tìm hiểu
ở môn Văn học.
Với sự dẫn dắt đó sẽ giúp học sinh gây sự chú ý, tò mò, hứng thú cho từng tiết
học Ngữ văn.
*Thứ hai : Trong quá trình giảng dạy, giáo viên nên sử dụng những phương tiện dạy
học (Trình chiếu, tranh ảnh...), thường xuyên giới thiệu các tài liệu liên quan mà các
em có thể trực tiếp tham khảo có hiệu quả, khuyến khích các em tìm từ điển Tiếng
Việt, từ điển chính tả, từ điển văn học… để khắc sâu thêm vốn kiến thức.
*Thứ ba : Giáo viên nên tạo không khí cho lớp học thật nhẹ nhàng, thoải mái, không
nên dùng những lời nói xúc phạm đến học sinh, không ép buộc một cách gò bó vì văn
học không thể học trong cưỡng ép, căng thẳng mà phải gợi cho học sinh cách tự đặt
vấn đề để tìm ra kiến thức trong bài học.
Ví dụ 1 :Đối với văn bản.
Khi nghe đến tên một văn bản, trước tiết học, học sinh hãy tự đặt những câu hỏi

của bài sắp học như :
-Văn bản đó viết gì ?
- Viết về ai ?
- Viết như thế nào ?

Trang 4


- Nội dung ra sao ?
- Văn bản muốn nói điều gì?
Để trả lời cho những nghi vấn này học sinh sẽ chủ động tìm hiểu, và sau khi đã
tìm hiểu, đã đọc, tóm tắt, học sinh trả lời các câu hỏi cuối bài sẽ dễ dàng hơn. Nếu học
sinh có sách tham khảo thì sự cảm thụ càng sâu sắc hơn.
Ví dụ 2: Đối với phân môn Tiếng Việt.
Khi nghe tên bài : “Trường từ vựng” hay bài “ Tình thái từ” ( ngữ văn 8 - tập
một) học sinh tự đặt một số câu hỏi về bài đó như:
+ Trường từ vựng là cái gì?- Tình thái từ là gì?
+ Nó như thế nào?
+ Nó có tác dụng gì?
+ Nó có khác các từ loại đã được học không?
Chỉ cần giải quyết các thắc mắc đó học sinh đã hứng thú tìm hiểu bài ở nhà.
Đến lớp khi học bài mới giáo viên nêu vấn đề, học sinh có thể giải quyết dễ dàng,
nhanh chóng hơn.
Ví dụ 3: Riêng phân môn Tập làm văn, cho học sinh tìm hiểu khái niệm ngay ở nhà
và cho một bài tập để học sinh làm. Muốn làm được phải tự tìm hiểu lí thuyết trước.
Biết rằng như vậy là khó nhưng ở đó các em đã có sự tìm tòi khám phá bài học. Đối
với bài luyện tập cho học sinh soạn trước. Như vậy đến giờ học sẽ sôi nổi hơn so với
nếu không tìm hiểu hướng dẫn trước.

Trang 5



* Thứ tư: Hướng dẫn các em tìm hiểu, cách soạn bài trước khi học bài mới , làm sao
nắm bắt được nội dung kiến thức, mục đích bài học một cách ngắn gọn, dễ hiểu nhất.
Đặc biệt đối với văn bản nên hướng dẫn cách tóm tắt cho học sinh, làm được việc này
học sinh không còn thấy khó khăn nữa mà luôn sẵn sàng cho một tiết học.
* Thứ năm: Để tạo hứng thú cho tiết học, nên bắt đầu tiết học bằng một số hình thức
vào bài thoải mái không nặng nề cho cả tiết học. Từ khâu kiểm tra bài cũ đến khâu kết
thúc tiết học ( Trong khâu kiểm tra bài cũ giáo viên cần nêu những câu hỏi sao cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh).
Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ học sinh quên phần nào đó có thể gợi mở hoặc bằng
cách kiểm tra phần khác. Vì học sinh cũng học bài nhưng có thể do hồi hộp nên trả lời
không được, không lưu loát. Nếu áp đặt cho học sinh điểm kém luôn sẽ gây ức chế
cho cả buổi học.
Ví dụ 2: Học sinh trả lời chưa lưu loát giáo viên hỏi thêm kiến thức trong giờ
giảng và cho thêm điểm điều này khuyến khích học sinh chú ý trong giờ học.
Ví dụ 3: Cách vào bài của một tiết học cũng gây hứng thú rất nhiều nó tạo sinh
khí cho tiết học. Như dạy bài “ Ca Huế trên sông Hương” ( Ngữ văn 7 – tập hai) giáo
viên giới thiệu bài bằng cách trình chiếu những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,
văn hóa như: Đại Nội – Huế, Thuyền rồng trên sông Hương, cầu Tràng Tiền, núi Ngự
Bình… để tạo sự hứng thú cho học sinh.
*Thứ sáu: Trong một bài dạy không nên bắt học sinh phải cố gắng trả lời các
câu hỏi trong sách giáo khoa bởi đôi khi trong sách giáo khoa câu hỏi khá khái quát

Trang 6


tổng hợp, học sinh trung bình yếu không trả lời được sẽ chán nản, tâm lý nặng nề khó
hiểu và trở nên lười xây dựng bài. Vì vậy, giáo viên nên chẻ nhỏ câu hỏi, có sự gợi ý
làm cho học sinh hiểu vấn đề, hăng hái học; học sinh trung bình yếu cũng thoải mái

hơn.
Ví dụ: Trong bài Tiếng Việt “ Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội ” (Tiếng
Việt 8- tập một). Sau khi cho học sinh tìm hiểu các ví dụ, giáo viên đặt câu hỏi :
? Bắp, bẹ, ngô, từ nào là từ địa phương, từ nào được sử dụng phổ biến trong
toàn dân?
Như vậy đối với học sinh địa phương, ít được tìm hiểu từ ngữ ở vùng khác. Các
em có thể trả lời từ địa phương thông dụng vì các em hay nghe, hay dùng. Nhưng nếu
hỏi:
? Ngô - bắp - bẹ đều là một, em hay sử dụng từ nào?
Học sinh: Từ “ bắp ”.
Giáo viên: Vậy “ bắp ” thường được dùng ở quê em nhưng nếu sử dụng cho số
đông, cho toàn dân, phổ thông thì ta dùng từ “ ngô” - Vậy từ “ngô” là từ toàn dân còn
từ “ bắp, bẹ” là từ ngữ địa phương. Từ đó giáo viên cho học sinh lấy một số ví dụ
nhận xét và đưa ra khái niệm bài học.
* Thứ bảy : Để tâm chú ý đến những đối tượng chưa có tinh thần học tập, huy
động đối tượng học sinh này xây dựng bài trong giờ học. Nếu được quan tâm để ý,
khuyến khich thì học sinh sẽ phát huy được tính tích cực của mình. Khi được góp
phần xây dựng bài tuy không chính xác một trăm phần trăm đi nữa cũng làm cho các

Trang 7


em tập trung theo dõi và nhớ bài hơn. Ngoài ra cho điểm khích lệ, khuyến khích
những học sinh có tinh thần cầu tiến, xây dựng bài, cũng góp phần tạo được sự hứng
thú cho tiết học.
* Thứ tám: Do môn ngữ văn luôn gắn liền với cuộc sống, nên khi hướng dẫn
học sinh tìm hiểu bài mới phải làm nổi bật được tính thực tiễn và tính giáo dục trong
mỗi bài đó để các em thấy được những kiến thức trong bài học luôn gắn kết với đời
sống thực tế. Từ đó, giúp các em thấm nhuần và thấy rõ được cái hay, cái bổ ích trong
đó.

Ví dụ: Giảng dạy bài “ Chiếc lá cuối cùng” của OHENRI ( Ngữ văn 8- tập một). Giáo
viên cho học sinh thấy được:
- Trong cuộc sống ta phải có một tình yêu thương cao cả của những người
nghèo khổ với nhau - tình yêu giữa người với người.
- Sức mạnh của tình yêu cuộc sống chiến thắng bệnh tật.
- Người ta có thể hy sinh mạng sống cho nhau .
Hay trong bài “ Hai cây phong” giáo viên cho học sinh cảm nhận được:
-Tình yêu quê hương của mỗi con người.
- Không quên quá khứ tuổi thơ, đừng bao giờ quên công ơn và tình cảm của
người thầy giáo, cô giáo đầu tiên của cuộc đời mình.
Như vậy học sinh sẽ thấy yêu thích Văn học hơn sau khi học những bài văn
bản.

Trang 8


* Thứ chín (Kiểm tra): Nên có sự kiểm tra thường xuyên, giáo viên trực tiếp
kiểm tra hoặc giao cho ban cán bộ lớp, cán sự bộ môn kiểm tra báo cáo. Giáo viên
khen ngợi, biểu dương kịp thời. . . và căn cứ vào chuyên cần đó đánh giá việc học tập,
điều này tạo thói quen học tập cho học sinh.
Và trong khâu phê điểm cũng cần có sự khuyến khích không nên quá khắt khe
với việc cho điểm cao.
* Thứ mười: Đây cũng là một biện pháp, việc làm không kém phần quan
trọng.. Đó là việc thực hiện trong thời gian củng cố - dặn dò. Giáo viên hướng dẫn cụ
thể cho học sinh một số kiến thức cần chuẩn bị cho tiết học tiếp theo những tài liệu
tham khảo, những kiến thức trọng tâm cần soạn ở bài sau (bằng những câu hỏi tư duy,
gợi ý), điều này gây sự ham thích tìm hiểu theo sự dẫn dắt, giới thiệu của thầy cô đã
gợi ý
Cuối cùng khi được kết hợp các biện pháp tạo hứng thú trên , học sinh không
thấy khó khăn trong giờ học ngữ văn nữa, lớp học trở nên sinh động hơn; học sinh

không còn sự căng thẳng, học tập nhiệt tình hơn, đạt kết quả hơn.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
Do đề tài không yêu cầu phương tiện hiện đại, cầu kỳ nên dễ áp dụng cho bộ môn
ngữ văn cấp Trung học cơ sở ở tất cả các trường, đặc biệt thuận lợi ở những trường
vùng sâu, vùng xa. Đồng thời cũng đã có sự tham khảo, áp dụng cho một số đồng
nghiệp ở các trường khác trong huyện và cũng có kết quả tiến bộ hơn.

Trang 9


Tuy vậy tôi vẫn mong được quý đồng nghiệp, quý lãnh đạo xây dựng, góp ý để cho
sáng kiến của tôi được hoàn thiện đầy đủ, hiệu quả hơn. Để có thể áp dụng vào công
tác giảng dạy bộ môn ngữ văn ở trường Trung học cơ sở của huyện và trong tỉnh có
kết quả tốt, đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục của ngành đề ra.
3.4. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến thu được do áp dụng giải
pháp:
Sau khi tôi áp dụng những biện pháp sáng kiến trên vào các lớp trực tiếp giảng
dạy đã có những biến đổi về tinh thần học tập từ phía học sinh. Các em đã mua được
sách tham khảo. Biết cách soạn bài nên các em soạn đầy đủ hơn, biết tóm tắt văn bản,
mạnh dạn xây dựng bài, biết tự nghiên cứu ở nhà. Vì vậy, trong các giờ trên lớp hăng
hái phát biểu, không còn tinh thần gượng ép.
Cùng với sự nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và áp dụng các biện pháp tạo hứng
thú học tập cho học sinh; cùng sự cố gắng nỗ lực, có thái độ đúng đắn trong học tập
của học sinh , nên kết quả đạt được ngày càng cao hơn.
Cụ thể với năm học 2015 – 2016 kết quả như sau:
Kỳ I :
Giỏi : 37,6
Khá: 42,9%
Trung bình :19,5%
Yếu : 0%


Trang 10


Trên đây là kết quả thu được qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tuy mới
là những ứng dụng ban đầu nhưng thấy được sự tiến bộ ở học sinh.
2.5. Tài liệu kèm theo: Không có.

…………Hết………..

Trang 11



×