Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Thơ Thanh Thảo trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.04 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

LƢU THỊ THANH BÌNH

THƠ THANH THẢO
TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn
cô giáo TS. LA NGUYỆT ANH - người đã tận tình hướng dẫn, động viên và
giúp đỡ chúng em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016
Người thực hiện

Lƣu Thị Thanh Bình


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của
cô giáo TS. LA NGUYỆT ANH
- Khóa luận không sao chép từ tài liệu có sẵn.
- Kết quả nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của bất cứ tác
giả nào.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016
Tác giả khóa luận

Lƣu Thị Thanh Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................................ 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 4
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 4
7. Đóng góp của khóa luận .......................................................................................... 5
8. Kết cấu của khóa luận ............................................................................................. 5
NỘI DUNG.................................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 6
1.1. Những tiền đề khoa học ............................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học .................................................................... 6
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa .............................................................................. 6
1.1.1.2. Khái niệm văn học .............................................................................. 7
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học ...................................................... 7
1.2. Thanh Thảo và quá trình sáng tác ............................................................. 8

1.2.1. Vài nét về tác giả ..................................................................................... 8
1.2.2Quá trình sáng tác của Thanh Thảo .......................................................... 9
1.3. Khảo sát sáng tác của thơ Thanh Thảo trong trường THPT ................... 15
CHƢƠNG 2. VĂN HÓA TÂY BAN NHA QUA HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
16
2.1. Lorca - người con, người chiến sĩ, người nghệ sĩ tự do Tây Ban Nha........ 16
2.1.1. Lorca – người con ưu tú của đấ t nước Tây Ban Nha xinh đe ̣p ............. 16
2.1.2. Lor ca- người nghệ sĩ ............................................................................ 18
2.1.3. Lorca - người chiến sĩ chiến đấu cho tự do ........................................... 21
2.2. Cô gái Digan – biể u tươ ̣ng của lối sống con người Tây Ban Nha ........... 27


2.2.1. Một số đặc trưng địa văn hóa của người Di-gan................................... 27
2.2.2. Cô gái Di-gan như là biểu tượng của niề m tin và sự thủy chung............... 29
CHƢƠNG 3. KHÔNG GIAN VĂN HÓA XỨ SỞ TÂY BAN NHA ................32
3.1. Không gian văn hóa sinh thái ................................................................... 32
3.1.1 Hình ảnh vầng trăng - biểu tượng của cái đẹp, sự tự do ........................ 33
3.1.2. Hoa lilac - biểu tượng cho sự sống của con người Tây Ban Nha ......... 36
3.1.3. Dòng sông - nét văn hóa tâm linh Tây Ban Nha ................................... 39
3.1.4 Đường chỉ tay trong tín ngưỡng Tây Ban Nha ..................................... 41
3.2. Không gian văn hóa sinh hoạt, lễ hội ....................................................... 42
3.2.1. Không gian của những trận đấu bò tót ................................................. 42
3.2.2. Không gian của điệu nhảy Flanmico ................................................... 45
3.2.3. Đàn ghita và nốt nhạc li la li la la ........................................................ 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,

phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu
văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì
văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để
có được những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn
thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh
và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện
con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành.
Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá.
Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và
tái hiện của nhà văn. Trong chương trình học Văn ở THPT có rất nhiều tác
phẩm mở rộng văn hóa đó có thể là văn hóa dân gian qua thơ của Hồ Xuân
Hương, đó còn là không gian văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Duy,
Nguyễn Bính…Và cả văn hóa của nước ngoài qua bài “Đàn ghi ta của Lorca” của Thanh Thảo.
Thanh thảo là một gương mặt tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ trẻ
thời kì chống Mỹ. Bằng tài năng và tâm huyết của mình, Thanh Thảo đã sớm
khẳng định phong cách thơ và đem đến cho nền thơ ca chống Mỹ nói riêng,
thơ ca dân tộc nói chung một tiếng thơ, một cách tiếp cận và khám phá hiện
thực, một phương thức biểu hiện mới mẻ độc đáo. Thơ Thanh Thảo đã góp
phần làm phong phú và đa dạng nền thơ ca của dân tộc, góp phần làm phong
phú và đa dạng nền thơ ca của dân tộc, góp một tiếng nói làm nên diện mạo

1


đời sống tinh thần cao cả của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ
quốc giành độc lập, tự do dân chủ.
Từ năm 2008, bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca (Thanh Thảo) chính thức
được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Cho đến nay nó
vẫn thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học, giáo viên

và học sinh bởi Đàn ghi ta của Lor- ca là bài thơ hay cả về nội dung và nghệ
thuật và điều đặc biệt ở bài thơ còn giúp cho học sinh nhìn về văn hóa của
một đất nước với nhiều nét đẹp truyền thống
Xuất phát từ góc nhìn mới mẻ về văn hóa xứ sở của một đất nước với vẻ
đẹp đa dạng, phong phú. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài “Thơ Thanh Thảo
trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa”, chúng tôi hi vọng góp
phần xác định cơ sở khoa học để đánh giá những nét đặc sắc trong thơ Thanh
Thảo và phục vụ cho việc học tập, giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học Phổ
thông sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Đa số các nhà nghiên cứu, phê bình văn học khi đánh giá về Thanh Thảo
đều thống nhất về cái “mới” và “lạ” trong thơ ông, đặc biệt là một bản lĩnh
thơ luôn táo bạo, gai góc, quyết liệt đầy sức thuyết phục, thể hiện ý thức cách
tân thơ ca rõ nét.
Trong Văn Chương, cảm và luận - Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “Thơ
Thanh Thảo không lạnh, thậm chí nóng bỏng, là giọt cồn ở nồng độ cao”.
Thơ anh là “những tia chớp từ trời cao làm hiện lung linh tất cả sự vật chung
xung quanh ta” [16, tr.75]
Thiếu Mai trong bài Thanh Thảo - thơ và trường ca (1980) đã khẳng định:
“Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng
ấy (…) thơ Thanh Thảo là thơ của tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ (…)
đầy đặn cả hai mặt cảm xúc và suy nghĩ” [13- tr.97, 98].

2


Ở bài viết Thanh Thảo – gương mặt tiêu biểu sau 1975, tác giả Bích Thu
đã đưa ra ý kiến khá sắc sảo: “ Thanh Thảo đã đem đến cho người đọc một thực
đơn tinh thần mới mẻ và độc đáo làm phong phú tiếng nói của thơ hôm nay”
[20, tr.422]

Tác giả Lại Nguyên Ân với Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh
Thảo đã đưa ra những ý kiến khá sắc sảo về thơ anh khi viết về người lính:
“Thanh Thảo đã tìm được khá nhiều cung bậc, nhiều sắc thái để tô đậm nét
vô danh, bình thường ở những người lính cùng thế hệ (…) và những nét vô
danh bình thường này “như báo trước một thầm thì gì nữa, một xác nhận về
đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một thứ tuyên ngôn” [2, tr.135].
Trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca và nỗ lực đổi mới thơ của Thanh Thảo,
tác giả Nguyễn Văn Bính nhận xét: Đây là bài thơ giàu nhạc tính và nhạc tính
được tạo nên bởi thể thơ, cấu trúc trùng điệp, âm hưởng tiếng đàn… Bên cạnh
đó, đặc sắc của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh, những hình ảnh tượng
trưng gợi nhiều suy tưởng. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” nằm trong mạch
cảm xúc của nhà thơ Thanh Thảo về cuộc đời và số phận ngang trái của
những con người sống có nhân cách và nghĩa khí
Bài viết Một tìm tòi thú vị của Thanh Thảo in trong tập Thơ – điệu hồn
và cấu trúc, tác giả Chu Văn Sơn cũng có những phát hiện đầy hấp dẫn về bài
thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Tác giả nhâ ̣n xét: Thanh Thảo “vay mượn” không
ít vốn liếng âm nhạc để đầu tư cho thơ mình. Mạch triển khai của thi phẩm
tuân theo cấu trúc của một ca khúc, nhập cấu trúc ca khúc vào cốt tự sự để
chúng đồng thể với nhau. Bài thơ là sự “đồng bệnh tương lân” của Thanh
Thảo với F.G.Lor-ca và là thành quả đặc sắc về cách tân nghệ thuật thơ của
Thanh Thảo.
Các bài viết tuy ở mức độ khác nhau song phần nào đề cập được nét
chung nhất về thơ Thanh Thảo: thơ Thanh Thảo có chiều sâu, ông có cách nói

3


cách khám phá về con người, hình tương nhân vật và vẻ đẹp văn hóa thiên
nhiên đất nước con người qua sáng tác của nhà thơ. Ở phần lịch sử vấn đề, tác
giả khóa luận dành sự quan tâm đặc biệt tới những ý kiến liên quan đến đề tài.

Bên cạnh sự phong phú về nội dung cũng như hình thức thì cùng với yếu
tố văn hóa con người thiên nhiên xứ sử đất nước Tây Ban Nha, khóa luận tiếp
tục nghiên cứu chuyên sâu về Thơ Thanh Thảo trong nhà trường phổ thông
từ góc nhìn văn hóa.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tìm hiểu thơ Thanh Thảo trong trường phổ thông từ góc nhìn
văn hóa giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục sinh hoạt, hình
tượng con người ở đất nước Tây Ban Nha.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về Thanh Thảo - nhà thơ của sự tìm tòi đổi mới, đi tìm hiểu về
đất nước Tây Ban Nha qua không gian văn hóa và qua hình tượng nhân vật.
- Thấy được nét độc đáo và đặc sắc trong thơ Thanh Thảo và khẳng định
những đóng góp của ông đối với thơ ca hiện đại Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài khóa luận đặt ra vấn đề nghiên cứu: Thơ
Thanh Thảo trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa, cho nên chúng tôi
chọn xuất phát điểm từ vấn đề có ý nghĩa khái quát văn hóa, từ đó đi vào tìm
hiểu bài thơ Đàn ghi ta của Lor - ca trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn 12, tập 1.
- Phạm vi tư liê ̣u: Tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là sách giáo khoa
Ngữ văn ở THPT , bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca trong chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1. Bên cạnh đó, để làm nổi bật vấn đề này, khi cầ n
thiế t, khóa luận còn có sự liên hệ đến những sáng tác của các nhà thơ khác.

4


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học, kháo luận

sử dụng phối hợp các phương pháp:
- Phân tích và tổng hợp
- Phương pháp so sánh,hệ thống
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
7. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận đã tiến hành nghiên cứu một phần nội dung từ góc nhìn
văn hóa qua bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca của Thanh Thảo.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định tài năng
độc đáo của Thanh Thảo và góp phần vào vi ệc tiế p nhâ ̣n tác phẩ m văn ho ̣c
cũng như việc – học tác phẩm thơ của Thanh Thảo trong nhà trường ở bậc
THPT.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Văn hóa Tây Ban Nha qua hình tượng nhân vật
Chương 3: Không gian văn hóa sứ xở Tây Ban Nha

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Những tiền đề khoa học
1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa, quan niệm khác nhau về
văn hóa. Mỗi một định nghĩa, quan niệm về văn hóa đó được được hiểu một
cách khác nhau.
Theo UNESCO, văn hóa bao gồm: Tổng thể các giá trị về vật chất và

tinh thần; tổ chức xã hội, đó là các phương thức sống; những quyền cơ bản về
con người; đức tin tự nguyện của con người, đó là các truyền thống tín
ngưỡng [22,tr.43].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.Văn hoá là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"
[22, tr.43].
PGS - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng cho cho rằng văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, nó thể hiện trình độ của mỗi dân
tộc trong quá trình lịch sử của mình. Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh điểm thống
nhất căn bản mang tính nhân loại khi nhận thức về văn hóa là tính sáng tạo,
đó là cốt lõi của văn hóa. Điểm khác biệt giữa các nền văn hóa của mỗi cộng

6


đồng dân tộc là ở mức độ của tinh thần nhân văn của nền văn hóa ấy
[22,tr.45]
Như vậy hiểu theo một cách khái quát nhất: “Văn hóa là những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống
nhằm phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người. Các giá trị văn hóa được lưu
giữ và truyền thụ từ đời này qua đời khác”.
1.1.1.2. Khái niệm văn học
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã
hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư
cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ [8,tr.401]

Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương
và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học
thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ
nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn
ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng
hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học
Trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ.
Thứ quan hệ ngang bằng của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng
tầng kiến trúc, cùng phản ánh một số cơ sở hạ tầng. Bởi thế, nghiên cứu văn
hóa thù văn học được coi như một nguồn tài liệu, còn nghiên cứu văn học thì
lại tìm thấy ở nó những chủ đề văn hóa, cũng là một kiểu tài liệu. Như
vậy,văn hóa và văn học làm tài liệu nghiên cứu cho nhau. Quan hệ này mang
tính bề ngoài, đôi khi tình cờ không bộc lộ bản chất của nhau.
Ngày nay, hẳn ai cũng thừa nhận văn hóa là một tổng thể, một hệ
thống, bao gồm nhiều yếu tố trong đó có văn học. Như vậy, văn hóa chi phối
văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận.

7


Đây là quan hệ bất khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là
một yếu tố mạnh và năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài
hệ thống. Trong khi đó thì hệ thống nhất là hệ thống văn hóa, luôn có xu
hướng duy trì sự ổn định. Như vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối
với văn hóa là không thể tránh khỏi. Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo.
Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì
có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống.
Nếu văn học chỉ là một bộ phận của văn hóa, một yếu tố trong hệ thống
văn hóa thì nó không thể và không có quyền “vượt mặt” hệ thống để tiếp xúc

với hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội, mà phải gián tiếp qua hệ thống
văn hóa. Từ đây có thể thấy văn học nếu có chức năng phản ánh hiện thực thì
cũng không thể phản ánh trực tiếp được mà chỉ có thể phản ánh thông qua “
lăng kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà
tránh được sự phản ánh “gương phản ánh” một cách trần trụi, có lẽ cũng nhờ
thế mà tạo cho văn học một lối phản ánh đặc trưng, phản ánh như người ta
thường nói ,có nghệ thuật. Nhưng liệu một tia sáng phản chiếu mà phải đi qua
một bầu khí quyển văn hóa với nhiều khúc xạ như vậy thì có còn nguyên giá trị
phản ánh hay.
Như vậy giữa văn học và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ
lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Là nền tảng tìm kiếm những cái hay, đặc sắc cho
mỗi tác phẩm văn học.
1.2. Thanh Thảo và quá trình sáng tác
1.2.1. Vài nét về tác giả
Thanh Thảo, tên thật là Hồ Thành Công sinh năm 1946, quê xã Tân Đức,
huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nanm.

8


Sau năm 1975, ông hoạt động trong lĩnh vực văn nghệ báo chí. Giữ chức
vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ, Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học
nghệ thuật Quảng Ngãi. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Xuân
Quỳnh,… Thanh Thảo đã góp phần tạo nên và hoàn thiện gương mặt của thế
hệ trẻ chống Mĩ.
Sau đại thắng 1975, Thanh Thảo vẫn tiếp tục con đường thơ của mình,
đây là chặng đường của những trăn trở trong cuộc kiếm tìm và đổi mới tư duy
nghệ thuật trong giai đoạn mới của văn học Việt Nam.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông viết tới 9 trường ca: Những
người đi tới biển (1976), Trẻ con ở Sơn Mỹ (1976-1978), Những nghĩa sĩ
Cần Giuộc (1978-1980), Bùng nổ của mùa xuân (1980-1981), Đêm trên cát
(1982), Trò chuyện vói nhân vật của mình (1983), Cỏ vẫn mọc (1983),
Khối vuông Rubich (1985), Mêtrô (2009). Và 5 tập thơ: Tàu sắp vào ga
(1986), Bạch đàn gửi bạch dương (1987), Từ một đến một trăm (1988),
Thanh Thảo 1 2 3 (2007), Thanh Thảo 70 (2008). Ngoài thơ ca, Thanh
Thảo còn viết tiểu luận, phê bình văn học, từ đó khẳng định vị trí cũng như
đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà.
Tác giả được nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979 cho
tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ; Giải thưởng của Ban Văn học Quốc phòng
An ninh, Hội Nhà văn Việt Nam cho tập trường ca Những ngọn sóng mặt
trời (1955).
1.2.2

Quá trình sáng tác của Thanh Thảo

- Con đường thơ của Thanh Thảo trước 1975
Với gia tài khá đồ sộ là những tập thơ, trường ca và tiểu luận phê bình của
Thanh Thảo, có thể kết luận rằng nghệ thuật là một chủ đề tư tưởng lớn trong sáng
tác của tác giả sau năm 1975. Là nhà thơ có ý thức sâu sắc về nghệ thuật về sứ

9


mạng của người nghệ sĩ luôn khao khát mở đường, Thanh Thảo bày tỏ quan niệm
nghệ thuật thể hiện rõ nét trên ba phương diện thẩm mỹ, bản chất và hình thức.
Về mặt thẩm mỹ Thanh Thảo tìm đến cái đẹp “thô sơ và hực sáng” trong
vô vàn vẻ đẹp khác vốn có của cuộc sống này. “Thô sơ” trước hết là vẻ đẹp
tiềm ẩn trong những gì giản dị nhất, mộc mạc nhất, đời thường nhất có khi đó

chỉ là “tiếng gà bất chợt”, vang lên “bên bờ kinh hoang tàn” để khẳng định sự
sống, là “ánh sáng bí ẩn” của “búp xà lách” xanh non như một sự khởi đầu, là
hoa nhài tinh khiết, thơm một cách tự tin” giữa chợ đời xô bồ, là “tiếng khóc
tiếng cười tan rất mau” của trẻ thơ để lại cho cuộc đời những dư vị nguyên sơ,
thuần phác và trong trẻo. Cái đẹp thô sơ là cái đẹp từ bản chất, không giả dối
và chân thành.
Phẩm chất thứ hai trong quan niệm thẩm mĩ của Thanh Thảo đó chính là
sự “hực sáng” vẻ đẹp của ánh sáng của sức nóng, bất ngờ, bùng nổ và quyết
liệt. Có thể coi đó là khoảng khắc huy hoàng nhưng có sức soi chiếu và lan
tỏa khôn cùng. “Thô sơ và hực sáng” vừa tương phản vừa bao hàm như vẻ đẹp
của hoa cúc đã được tôn vinh trong thơ Thanh Thảo “đầy dáng vẻ tầm thường
đến tuyệt vời tinh tế/ kiêu hãnh vì đạm bạc”. Bên cạnh đó, cái đẹp trong thơ
Thanh Thảo còn “lấp lánh chất người” đó là một vẻ đẹp sáng và thẳng.
“Trải qua rét buốt lửa nồng
Gia tài còn lại tấm lòng ấy thôi
Những người mọc thẳng giữa đời
Như rừng dương chắn ngang trời cát bay”
(Những ngọn song mặt trời - Thanh Thảo)
Những con người trong thơ Thanh Thảo đều ít nhiều có phẩm chất của
một người nghệ sĩ, đặc biệt những nhà thơ rạng ngời vẻ đẹp nghĩa khí, vẻ đẹp
của sự xả thân hi sinh vì tự do, vì cái đẹp như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình
Chiểu, L.Aragor, F.GLorca. Và bản thân Thanh Thảo cũng là một nhà thơ

10


nghĩa khí bởi khát vọng được cống hiến với cuộc đời và nghệ thuật. Có thể
thấy, cái đẹp thơ Thanh Thảo là những vẻ đẹp bình thường nhưng cao cả, lặng
lẽ mà âm vang. Nó đánh thức cảm xúc, khơi gợi suy nghĩ của người đọc, mở ra
đa tầng suy nghĩa của cuộc sống nó là “những vệt bùn làm vinh hạnh cho thơ”.

Thanh Thảo quan niệm bản chất của thơ “mãi mãi là bí mật”. Có thể ta “mãi
mãi dò tìm” nhưng “mãi mãi không thể nào chạm đáy”. Nhà thơ khẳng định thơ là
sự đối lập căng thẳng giữa tâm hồn và không có tâm hồn”. Nhưng tâm hồn thơ
phải mang bản chất chân thành. Đó là sự thành thực của cảm xúc thơ.
“Tôi sẵn sàng gặp gió, gặp bão, gặp em
Riêng sự hững hờ là tôi không chờ gặp”
(Trăm mảnh gỗ vuông - Thanh Thảo)
Đó còn là tính chất vô tư lợi của thơ “sinh ra từ lao động, thơ là kẻ thù
của lười nhác. Sống thật thà vô tư, thơ không sao chịu nổi thói giả dối và vụ
lợi” (Trò chuyện với nhân vật của mình - Thanh Thảo). Thơ còn sống bởi
những điều giản d ị, kì lạ cảm xúc và sự khám phá bản chất chiều sâu của sự
vật hiện tượng. Đối với Thanh Thảo, điều đó là cả một khát vọng trong thơ.
“Bạn ơi tôi làm sao tới được
Những khoảng rừng nguyên sinh trong tâm hồn bạn
Nơi cành lá um tùm dây leo chằng chịt
Lớp lớp rễ ngầm với những giọt nước đầu tiên”
(Thơ bốn câu - Thanh Thảo)
Có khi thơ chỉ cần một khoảnh khắc nhưng nó có thể đồng cảm, an ủi và
nâng đỡ con người trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hơn thế còn lay động
và thức tỉnh tâm hồn. Có thể thấy, Thanh Thảo đã thể hiện một cái nhìn vừa
khách quan vừa trân trọng, vừa tự hào về bản chất, chức năng và vai trò của thơ
để từ đó, thơ là người giữ ngọn lửa niềm tin để Thanh Thảo và những nguời
làm thơ tiếp tục sáng tạo và cống hiến.

11


Yếu tố thứ ba trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo đó là hình
thức thơ. Không có hình thức thì cũng chẳng bao giờ có nghệ thuật. Cách
nhìn, cách cảm về thế giới và con người cần có một hình thức tương ứng để

biểu hiện. Thanh Thảo đã đưa ra nhiều quan niệm nghệ thuật mới về thẩm mĩ
và bản chất thơ, những cách tân mạnh mẽ nhất của thơ Thanh Thảo là trên
phương diện hình thức. Ông quan niệm: “Rubíc là cấu trúc thơ” bởi “tôi xoay
quanh ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất Rubíc là trò chơi kì lạ. Chúng
ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp nhiều ý nghĩ. Có hàng tỉ cách sắp xếp”.
Phải chăng thơ cũng là một trò chơi đầy bí ẩn mà mỗi lần thay đổi diện mạo
thơ lại xuất hiện đầy bất ngờ? Nhưng điều quan trọng là thơ phải có một trục
quay vô hình, đó là điểm tựa để thơ khởi phát và sinh tồn. Vì vậy, cấu trúc,
quan niệm về ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, thể loại thơ mang đậm cá tính
của một cái đầu tỉnh táo và trái tim lửa cháy, đã làm nên một gương mặt thơ
Thanh Thảo không thể trộn lẫn.
Lời thơ của Thanh Thảo cũng là tuyên ngôn nghệ thuật không chỉ của
riêng mình mà còn dành cho cả một thế hệ đương thời. Con đường thơ mà
những nhà thơ trẻ theo đuổi, nằm ở thế đối lập và tương phản với thơ ca của
những thời kì trước. Đối với Thanh Thảo, thơ như một đối tượng thẩm mĩ
xuất hiện theo cấp số cộng trong sáng tác của nhà thơ. Nhưng nàng thơ đỏng
đảnh, chẳng chịu ở yên để nhà thơ hoàn thiện bức chân dung, nên Thanh Thảo
vẫn mải miết tìm kiếm gương mặt đích thực của thi ca. Thứ hai,Thanh Thảo
phát biểu trực tiếp quan niệm nghệ thuật trong những bài báo, những tập tiểu
luận bàn về thơ và trả lời người đọc. Dù có thể chỉ bàn tới một hay vài khía
cạnh của thơ ca nhưng tất cả đều thể hiện những suy nghĩ nghiêm túc, khao
khát tìm kiếm và khái quát về thơ Thanh Thảo.
Thứ ba, bàn về thơ người khác cũng là cách Thanh Thảo lựa cho ̣n để bộc
lộ quan niệm thơ của mình. Nhà thơ nghĩ và viết về thơ và những nhà thơ

12


trong quá khứ - hiện tại và tương lai. Nhưng dù viết về đối tượng nào thì
Thanh Thảo vẫn tiếp cận bằng con mắt kiếm tìm đau đáu “như thỏi nam chân

hút tìm những mạt quý kim của bạn sở hữu đồng nghiệp”.
Thơ Thanh Thảo ẩn sau sự cộng hưởng của những sắc nhọn, những đùa
chơi, những mềm mại, là một năng lượng thơ hay nói đúng hơn là một ám ảnh
thơ của một cuộc đời, mà cho đến bây giờ nhà thơ vẫn luôn khao khát đi tìm.
- Thanh Thảo một con đường thơ mới sau 1975
“Thơ hay là chết”, “chết” trong tâm hồn hay “sống” để được chết cho
thơ? Đối với Thanh Thảo, không có một sự lựa chọn nào khác. Nếu Federico
Garcia Lorca từng nói khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta, thì người
ngưỡng mộ ông – nhà thơ Thanh Thảo cũng “sẵn sàng tử vì đạo” hiến dâng
cuộc đời một cách vô điều kiện cho cuộc hành trình theo đuổi những ám ảnh
day dứt về nghệ thuật thi ca.
Đổi mới và dấn thân đó là con đường duy nhất cho các nghệ sĩ chân
chính, cho dù đó là con đường mờ mịt, chông gai và đơn độc. Đổi mới trong
sáng tác nghệ thuật nói chung đã khó, đổi mới trong thơ lại càng khó hơn.
“Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo ảo, vừa là cài gì ta vừa bắt được đó lại tuột đâu
mất thơ vẫn là hình bóng, đôi khi là bóng của bóng nữa” (Thanh Thảo). Và dù
có tới được hay không, thì Thanh Thảo vẫn luôn chọn cho mình vị trí tiên
phong với tinh thần táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân. “Số phận của một
nhà thơ cách tân là luôn phải ở vạch xuất phát. Và luôn phải biết quên”
(Thanh Thảo). Bắt đầu với Dấu chân qua trảng cỏ, Người đi tới biển, Những
ngọn só ng mặt trời,… Thanh Thảo đã trở thành một tiếng thơ mới mẻ, ấn
tượng trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Nhưng vì “ngoài xa còn xa nữa”
(Tvardopxki). Thanh Thảo đã không dừng lại, nhà thơ là một hiện tượng đặc
biệt, vì sau những bước đi ban đầu của mình, Thanh Thảo vẫn không ngừng
theo đuổi những dự định sáng tạo mới.

13


Sáng tạo và đổi mới là sứ mệnh cay đắng và vinh quang của những

người nghệ sĩ chân chính, trong đó có Thanh Thảo. Đối với nhà thơ, dấn thân
trên con đường sáng tạo không chỉ là ý thức trách nhiệm, là bản lĩnh mà còn
là niềm đam mê không thể lý giải. Nhà thơ đổi mới là nhà thơ đang lầm lũi, tự
đày ải mình trên “con đường người không khôn ngoan gập ghềnh lầy thụt/
Sao anh không con đường đã dọn sạch/ Hành hạ thân mình như thế để làm
chi” (Từ một đến trăm - Thanh Thảo). Tuy nhiên không thể dừng bước quay
lại, vì không thể đành long là một kẻ ngủ quên.
“Bãi cát, bãi cát dài
dù phía trước chân trời mù mịt
dù bước chân dẫn về cõi chết
không thể không đi”
(Những ngọn sóng mặt trời - Thanh Thảo)
Có những lúc dường như Thanh Thảo cũng cảm thấy thất bại, đã hoài
công vô ích đau xót và bất lực:
“con chim vẫn quyên lỡ vận
lang thang trên mặt đất
tiếng kêu sao nghẹn ngào
ta đã phí hoài quá nhiều sức lực
gót chân mòn những bước không đâu”
(Đêm trên cát - Thanh Thảo)
Và cái giá phải trả cho đổi mới thật đắt. Đó không chỉ là đau khổ, là
hiểm nguy như “trước mõm chó, trước vó ngựa” mà còn có thể là cái chết
“tóc bạc trắng chờ lưỡi dao chưa - biết- bao- giờ - đến”. Nhưng Thanh Thảo
vẫn ném thơ của mình vào thác xiết, sẵn sàng trả bất cứ giá nào để nhích lên
dù chỉ một bước trên con đường sáng tạo và tự hào vì được là người mở
đường “dù phải húc đầu vào đá, để mở cửa” là “những con còng không hối

14



tiếc đã mở những con đường bí mật giữa mênh mông”. Thanh Thảo có đủ
niềm tin vào con đường mình đã chọn, vì như nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã từng
nói “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người
biết thất bại mà dám mở đường, bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ
nghệ thuật”.
1.3 Khảo sát sáng tác của thơ Thanh Thảo trong trƣờng THPT

Văn bản giảng

Lớp 10

Lớp 11

Lớp 12

0

0

1

0

0

0

dạy chính
Văn bản đọc thêm


Như vâ ̣y, qua khảo sát thơ Thanh Thảo trong trường Trung học Phổ thông
chúng tôi nhận thấy, thơ Thanh Thảo có một bài Đàn ghita của Lorca là một
bài thơ viết theo phong cách mới, theo lối tượng trưng siêu thực, đây là một bài
thơ rất khó tiếp cận đối với cả giáo viên và học sinh và làm thế nào để cho học
sinh nắm bắt được tác phẩm thì giáo viên cũng phải am hiểu được phông văn
hóa của bài học để học sinh dễ hiểu bài hơn.
Từ thực tế trên có thể thấy việc học sinh tiếp nhận thơ Thanh Thảo còn
khá mới mẻ và gặp nhiều khó khăn chính vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề
tài nghiên cứu về “Thơ Thanh Thảo trong nhà trường phổ thông từ góc
nhìn văn hóa” nhằm giúp cho việc giảng dạy và tiếp nhận thơ Thanh Thảo
trong trường phổ thông một cách dễ dàng hơn.

15


CHƢƠNG 2
VĂN HÓA TÂY BAN NHA QUA HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
2.1. Lorca - ngƣời con, ngƣời chiến sĩ, ngƣời nghệ sĩ tƣ ̣ do Tây Ban Nha
2.1.1. Lorca – người con ưu tú của đấ t nước Tây Ban Nha xinh đe ̣p
Toàn bộ bài thơ, bên cạnh nét đẹp về nền văn hóa có từ lâu đời của Tây
Ban Nha như lễ hội đấu bò tót, điệu nhảy Flanmico, nhạc cụ truyền thống cây
đàn ghi ta muôn thủa. Hình tượng nhân vật người con, người chiến sĩ, người
nghệ sĩ Lorca xuyên suốt toàn bộ tác phẩm - nhà thơ nổi tiếng, nhạc sĩ, họa sĩ,
kịch tác gia, nhà hoạt động sân khấu thiên tài, đồng thời là người chến sĩ chống
phát xít kiên cường của xứ sở Espagna. Quê hương Granada miền Nam Tây
Ban Nha là nơi khởi đầu cũng là nơi kết thúc sự sống của một con người có
nhân cách cao đẹp, tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do nhưng số phận oan khuất.
Ngày 5 tháng 6 năm 1898, Granada – một trong bốn thành phố lớn của
xứ Andalucia ở miền Nam Tây Ban Nha, vốn đã làm say đắm lòng người bởi
không khí mê cuồng của những điệu nhảy, bài ca và những ngày hội đấu bò

tót rực lửa; bởi sức sống bất tận của những rặng ôliu ngăn ngắt, những vườn
cam trĩu quả; bởi sự quyến rũ của những vườn bạc hà, hoa nhài ngát hương
đêm hè và bởi cả một không gian mơ hồ, xa xăm, huyền bí – đã trở thành
chứng nhân lịch sử cho sự ra đời của Federico Garcia Lorca. Người sau này
đã vinh danh Granada và Tây Ban Nha trên bản đồ của nền văn minh nhân
loại. “Nếu có ngày, nhờ Trời, tôi được vinh quang, thì vinh quang ấy phân
nửa thuộc về Granada, nơi đã tạc nặn nên cái tạo vật tôi: thi sĩ bẩm sinh
không thể cải hồi” (F.G.Lorca). Ngày 19 tháng 8 năm 1936, “con chim họa mi
xứ Andalucia” đã bị sát hại ngay trên mảnh đất quê hương mình Granada –
nơi khởi nguồn và cũng là nơi kết thúc cuộc đời ấn tượng như mùa hè rực rỡ
và chan hòa ánh nắng không thể nào quên của một Con Người Thơ chân
chính. Con Người ấy là một mạch ngầm mát rượi trước mọi giếng khơi, một
sự trong suốt từ cội nguồn giữa những cội nguồn của thế giới, rất sáng tạo và

16


cũng rất truyền thống. Cùng với F.G.Lorca, mặt trời của tự nhiên cũng được
chính ánh sáng của nhà thơ tỏa rạng, khi ấy không có cái lạnh lẽo mùa đông,
cũng không còn cái nóng nực của mùa hè mà chỉ có Federico Garcia Lorca!
Đó là một tài năng khởi xuất tự nguồn cội, một sản vật của sự sáng tạo, hòa
tan trong sự sáng tạo, nơi gặp gỡ của sự sáng tạo, là một nhân tố tạo thành
những dòng chảy sáng tạo không bao giờ khô kiệt và sự hứng khởi kỳ lạ
F.G.Lorca không chỉ là người con ưu tú mà còn là tiếng nói, là niềm vui và
nỗi buồn của đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp. Trong những vần thơ tài hoa
đậm chất dân ca của anh, có tiếng hoàng hôn than khóc ánh bình minh, có
tiếng đôi thằn lằn thầm thì bên tảng đá ven sông, có tiếng cát lạo xạo dưới
chân cặp tình nhân đang dạo bước, có tiếng đàn ghi ta xao xuyến cả không
gian.Và thế giới biết đến chiều dài sâu thẳm của lịch sử Tây Ban Nha, với
những sắc màu nồng nhiệt nhưng vẫn phảng phất một nỗi buồn mênh mang

cũng chính từ những vần thơ ấy. Không có riêng mộ phần, thể phách
F.G.Lorca như đã hòa quyện vào mỗi ngọn cỏ, mỗi tấc đất, mỗi dòng sông
của đất nước Tây Ban Nha mà trước đó anh đã thầm ước nguyện
“Bao giờ tôi chết,
hãy chôn tôi cùng cây đàn ghi ta
trong cát.
Bao giờ tôi chết,
giữa những cây cam
và cây bạc hà tốt lành.
Bao giờ tôi chết,
xin vui lòng chôn tôi
trong ngọn phong tiêu.
(Ghi nhớ - Hoàng Hưng dịch)
Sự đối lập nghiệt ngã giữa tài năng và số phận của F.G.Lorca gợi đến
thuyết “tài mệnh tương đố” đã tồn tại trong tư tưởng văn học phương Đông từ
ngàn đời nay: “Tinh anh phát tiết ra ngoài. Nghìn thu bạc mệnh một đời tài

17


hoa”. Phải chăng, điều đó nối gần hơn khoảng cách xa xôi giữa Phương Tây
và Phương Đông, giữa hai nền văn học Tây Ban Nha và Việt Nam, đặc biệt là
giữa hai tâm hồn thi nhân F.G.Lorca và Thanh Thảo? Để rồi, câu nói như một
lời trăng trối của F.G.Lorca, đã ám ảnh suốt cuộc đời thơ Thanh Thảo Khi tôi
chết, hãy chôn tôi cùng cây đàn ghi ta - đó cũng là câu đề từ đầy ấn tượng
trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca, vốn được coi như khúc tưởng mộ của
Thanh Thảo với “một sản vật vĩ đại của thế giới” – F.G.Lorca! Mang một số
phận bi thảm, nhưng về mặt sự nghiệp sáng tạo, Lorca không chỉ để lại sự yêu
mến trong lòng người dân Tây Ban Nha mà còn là sự ngưỡng mộ đối với bạn
bè quốc tế trong đó có Việt Nam.

2.1.2. Lor ca - ngƣời nghệ sĩ
Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban
Nha. Sinh ra ở làng Fuente Vaqueros, trong một gia đình nông dân bậc trung
thuộc một dòng họ lâu đời của xứ sở Andalucia ở miền Nam Tây Ban Nha,
thừa hưởng tâm hồn thiết tha gắn bó với đất đai, thiên nhiên của cha, trí thông
minh, những năng khiếu nghệ thuật của mẹ, và một tuổi thơ với những đàn
cừu, đồng ruộng, bầu trời, sự cô tịch nơi thôn dã đã kết tinh thành một
F.G.Lorca “có sức quyến rũ lạ lùng, từ con người anh với phong độ thanh
quý, vẻ vui hoạt, đôi mắt u tối nhưng lại tươi cười, nước da màu đồng, giọng
nói như đồng”, “một cái gì đó như chớp lóe trong thể chất, một năng lượng
luôn luôn chuyển động, một niềm vui, một sự bộc phát mãnh liệt, một vẻ trìu
mến hoàn toàn siêu việt” (Pablo Neruda); đến kỳ tài ngẫu hứng của anh về
nhạc, về họa, về sân khấu, về thơ, cả sáng tác lẫn thể hiện (F.G.Lorca là một
họa sĩ có nét vẽ duyên dáng và một người chơi dương cầm đặc sắc)”. Như
một số phận đã định trước, F.G.Lorca là “người được tuyển chọn” để làm thơ
về xứ Andalucia của mình với những vần thơ tuyệt vời nhất, trong sáng nhất,
mê hồn nhất mà một “thần đồng thi ca” có thể kiến tạo nên. Và bầu trời, núi

18


non, sông suối, cỏ cây, con người, kể cả những bóng ma của xứ sở này đã trở
thành một thế giới hoàn mỹ trong thơ Lorca. Nhưng anh không mô phỏng mà
tưởng tưởng, mà sáng tạo, mà ca hát về nó. Và Lorca làm thơ ca ngợi thế giới
ấy bằng “một giọng điệu đích thực – giọng con người” mà Andalucia như đã
dành cho riêng anh. Giữa không gian Tây Ban Nha tự nhiên mà đầy mê hoặc,
cuộc đời F.G.Lor-ca được phác thảo qua những hình ảnh thật lạ:
“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chuếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”
Bắt đầu bằng “tiếng đàn”, nhưng không đơn thuần để tả âm thanh phát ra
từ sáu dây của cây đàn ghi ta hay còn gọi là “Tây Ban cầm”, mà Thanh Thảo
đề cập đến những ám ảnh xa gần về tài năng và số phận của Lor-ca. Bẩm sinh
là một thi sĩ không thể cải hồi, cuộc đời Lor-ca lại gắn với cây đàn của dân
tộc như một định mệnh.
“Tiếng khóc của phím đàn
bắt đầu
Những ly rượu bình minh
tan vỡ
……………………..
Đàn ơi!
(Đàn ghi ta – Nguyễn Phước Nguyên dịch từ La guitarra của Lor-ca)
Trong khúc bi ca của những tiếng đàn, nổi bật lên hình ảnh một người
nghệ sĩ lãng du, chàng hát rong thời trung cổ với trái tim nồng cháy yêu
người, yêu đời nhưng vẫn là người lữ khách đơn độc cùng “con ngựa đen /

19


vầng trăng đỏ” trên hành trình vô định. Những “chếnh choáng”, “mỏi mòn”
trong không gian mờ ảo, lãng đãng, như ám cả vào cuộc đời và thơ ca của
Lor-ca.
Cũng cần phải nhận thức rõ rằng: Lor-ca là nhà thơ chứ không phải nhạc
sĩ, càng không phải là ca sĩ, dù Lor-ca học âm nhạc từ bé, chơi piano và ghi ta
rất hay, và đặc biệt am hiểu âm nhạc, nhất là am hiểu nhạc dân ca miền
Andalucia quê hương ông. Nhưng Lor-ca là nhà thơ, nhà thơ vĩ đại không chỉ
của Tây Ban Nha mà của thế giới, một trong những gương mặt thơ ca lớn

nhất trong thế kỉ hai mươi.
Với tư cách là nhà thơ, Lorca luôn luôn giữ được lòng trung thành với
thiên chức sẵn có của mình, không hề dao động, thay đổi. Sau khi mất, thơ
anh tiếp tục đạt tới đỉnh cao của vinh quang, được cả nhân loại ca tụng. Cùng
với năm tháng, thơ Lor-ca ngày càng được đọc nhiều hơn, được dịch ra tiếng
nước khác nhiều hơn. Và nhịp cầu tri âm nối những tâm hồn đồng điệu của thi
ca, đã khiến F.G.Lor-ca trở thành đề tài nghiên cứu và sáng tác đầy hấp dẫn
của giới văn – nghệ sĩ Việt Nam. Có thể kể đến những trang viết giá trị và tập
thơ F.G.Lor-ca chuyển ngữ tiếng Việt của Hoàng Hưng, hay ca khúc nổi tiếng
của nhạc sĩ Thanh Tùng – “Nếu tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” đặc
biệt là tất cả vinh quang và bi kịch của “chim họa mi xứ Andalucia” qua
những vần thơ Thanh Thảo
“Lor-ca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói,
một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những
linh cảm thành ngôn ngữ” [1,tr.34]. Thơ trữ tình của Lor-ca minh chứng cho
sự trác việt trong tưởng tượng, sự lấp lánh trong chất liệu, sự uyển chuyển
trong âm điệu. Nhưng nổi bật hơn cả là những giá trị âm nhạc đích thực,
mang đậm dấu ấn về bản thể tự nhiên Andalucia – cội nguồn dân gian của thơ
Lor-ca. Tính đa dạng và thanh thoát của nhịp điệu đã tạo nên những sắc màu

20


×