Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Giảng văn: Đám tang lão Gô-ri-ô (chi tiết)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.76 KB, 6 trang )

Đám tang lão Gô-ri-ô
( Trích Lão Gô-ri-ô )
Ban-dắc
A. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Nắm được những thao tác nghệ thuật cụ thể mà Ban-dắc sử dụng trong bài văn này để khắc họa
một đám tang.
- Cảm nhận dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà văn muốn phê phán thói đời đen bạc qua các nhân
vật trong một xã hội coi đồng tiền cao hơn tình nghĩa.
B. Phương pháp và hình thức tiến hành tổ chức dạy học:
- GV chỉ tập trung vào một đoạn trích ngắn trong tiểu thuyết Lão Gô-ri-ô của Ban-dắc.
- Phần lớn thời gian phải dành cho bài Đám tang lão Gô-ri-ô. GV chỉ nên chọn vài chi tiết coi như
để dẫn vào bài.
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
* Tổ chức kiểm tra bài cũ:
- Anh ( chị ) hãy nêu mục đích và yêu cầu tóm tắt văn bản nghị luận ?
- Anh ( chị ) hãy trình bày phương pháp tóm tắt văn bản nghị luận ?
* Tiến trình bài mới:
Dựa vào tiểu dẫn SGK,
anh ( chị ) hãy giới
thiệu những nét chính
về cuộc đời nhà văn
Ban-dắc ?
Nhân vật trung tâm của
tiểu thuyết là gì ? Anh
( chị ) hãy nêu chủ đề
và tóm tắt ngắn gọn
tiểu thuyết Lão Gô-ri-
ô ?
Đoạn trích thuộc phần
I. Tiểu dẫn:


1. Tác giả:
- Ban-dắc là nhà tiểu thuyết Pháp, một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực.
- Ông viết gần 100 tác phẩm tập hợp lại thành bộ Tấn trò đời mà phần
lớn là tiểu thuyết, sáng tác từ năm 1829 đến trước khi ông mất. Bộ Tấn
trò đời gồm khoảng 2500 nhân vật, trong đó với hơn 400 nhân vật trở đi
trở lại những truyện khác nhau, đã cho ta thấy những mảnh đời khác
nhau trong mối liên hệ với quy luật nghiệt ngã của cuộc đời.
- Nghệ thuật kể chuyện của Ban-dắc: ông thường tạo ra một môi trường,
một cái nền để nhân vật chính xuất hiện, cái nền ấy có thể rộng, từ
những chi tiết về xã hội, lịch sử đương thời đến khung cảnh của một
thành phố, thị trấn; hẹp hơn, có thể một ngôi nhà, một quán trọ.
- Những tác phẩm chính: Miếng da lừa ( 1831 ), Lão Gô-ri-ô ( 1834 ),
Ảo mộng tiêu tan ( 1837 - 1843 ),...
2. Tác phẩm:
- Tiểu thuyết Lão Gô-ri-ô xuất bản năm 1834.
- Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là người cha già khốn khổ - lão Gô-
ri-ô. Ngoài ra, còn có các nhân vật chính như hai cô con gái Đen -phin
và A-na-xta-di, chàng thanh niên Ra-xti-nhắc.
- Chủ đề:
Tiểu thuyết đã phê phán xã hội tư sản, với sức mạnh của đồng tiền đã
làm tha hóa nhân tính, tình người.
- Tóm tắt tác phẩm: sgk trang 132.
3. Đoạn trích:
a. Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô được trích từ phần cuối của tiểu
thuyết Lão Gô-ri-ô.
nào của tiểu thuyết
Lão Gô-ri-ô ?
Anh ( chị ) hãy nêu chủ
đề đoạn trích ?

Đoạn trích có thể chia
làm mấy phần ? Anh
( chị ) hãy nêu nội
dung chính của từng
phần ?
Bi kịch của lão Gô-ri-ô
được thể hiện như thế
nào qua lời của Cri-xtô-
phơ với Ra-xti-nhắc ?
Cảnh đám tang lão
Gô-ri-ô được nhà văn
khắc họa như thế nào (
những chi tiết cụ thể
liên quan đến việc
b. Chủ đề đoạn trích:
Đoạn trích đã miêu tả và phê phán con người và xã hội tư sản Pháp
nửa đầu thế kỉ XX mà tiêu điểm là đồng tiền và danh vọng giả dối đã tha
hóa con người như một sức mạnh ma quái và khủng khiếp.
II. Bố cục văn bản:
Đoạn trích có thể chia làm 4 phần:
- Đoạn 1 ( từ đầu  từng làm điều gì nên tội ): từ quán trọ bà Vô-ke đến
nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông.
- Đoạn 2 ( tiếp theo  đã năm giờ rưỡi rồi ): cuộc hành lễ ở nhà thờ.
- Đoạn 3 ( tiếp theo  Cri-xtô-phơ bèn bỏ đi ): từ nhà thờ Thánh-Ê-
chiên-đuy-Mông đến nghĩa trang Cha-La-se-dơ và việc chôn cất.
- Đoạn 4 ( còn lại ): tâm trạng và ý nghĩ của Ra-xti-nhắc khi còn lại một
mình sau khi chôn cất xong.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Bi kịch của lão Gô-ri-ô:
Trong đoạn trích, trực tiếp và rõ nhất là lời của Cri-xtô-phơ với Ra-xti-

nhắc về người đã khuất:
- Ông cụ là người tử tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không hề
làm hại ai và chưa từng làm điều gì nên tội.
 Đây là lời nhận xét chính xác, khi cái quan định luận, của một người
sống một thời gian dài với lão Gô-ri-ô
- Ông là một người cha đặc biệt, hết lòng thương yêu, chiều chuộng đến
sùng kính các con gái của mình từ khi chúng sinh ra cho đến khi chúng
trưởng thành, lập gia đình riêng và trở thành những phu nhân, bá tước
phu nhân, quý tộc, quyền quý. Lão vui lòng và tự nguyện hi sinh tất cả
vì con cái, đến bán cả nhà cửa, phải thuê quán trọ để ở ; bị con gái bòn
rút đến những đồng cuối cùng,… Nhưng lão vận không oán giận, trách
móc chúng một lời. Đến lúc hấp hối, lão vẫn chỉ mong được thấy mặt
các con. Lão đã ra đi vĩnh viễn trong niềm ân hận khôn nguôi ấy.
- Ông là một người cha bất hạnh, tự nguyện làm nô lệ mù quáng cho
những đứa con bất hiếu của mình. Bi kịch của người cha già đáng
thương ấy còn thể hiện gián tiếp ngay trong đám tang điêu tàn của lão.
- Đám tang của lão không có một người thân ( dù lão vẫn có hai con gái
và hai co rể ở ngay trong thành phố ). Hơn nữa, đây còn là một đám tang
sơ sài, vội vã, qua quýt do một thanh niên ở trọ lo liệu.
* Tóm lại, lão Gô-ri-ô vừa là nạn nhân của đồng tiền, vừa là nạn nhân
của chính mình. Hậu quả của lão thật đáng thương, đáng buồn mà tất cả
la do con gái, con rể lão gây ra. Nhưng xét đến cùng, tự lão cũng gây ra
một phần không nhỏ trong bi kịch của chính mình.
2. Cảnh đám tang lão Gô-ri-ô:
- Đám tang lão Gô-ri-ô được đặt vào thời gian và không gian xác định:
+ Về thời gian, nhà văn chú ý đến sự chính xác từng phút. Ba lần yếu tố
giờ giấc được nhắc đến: nghi lễ cử hành ở nhà thờ hết hai mươi phút
theo lời người kể chuyện, ngay sau đó vị linh mục nói là đã năm giờ
rưỡi, rồi người kể chuyện lại cho biết đến sáu giờ xác ông cụ Gô-ri-ô
được hạ huyệt.

Quãng thời gian từ khi xuất phát ở nhà trọ của bà Vô-ke đến lúc hành
chọn lựa khung cảnh,
thời gian, ánh sáng,
màu sắc ; cái vắng vẻ
của đám tang và số
người ít ỏi cứ rút dần ;
nghi lễ tiến hành hết
sức sơ sài dường như
cảm nhận được cả ở
những dòng văn ngắn
ngủi ) ?
lễ ở nhà thờ tuy nhà văn không nói rõ nhưng ta vẫn cảm nhận được qua
chi tiết nhà thờ không cách xa phố Mới-Nữ-thánh-Giơ-nơ-vi-e mấy tí,
song phải chờ hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ nhà thờ. Chắc
cũng chỉ kéo dài khoảng vài chục phút như quãng thời gian từ khi hạ
huyệt đến lúc Ra-xti-nhắc rời nghĩa trang Cha-La-se-dơ.
+ Về không gian, những địa điểm chính xác được nhắc đến trong đoạn
văn càng góp phần tô đậm thêm ấn tượng như thật, nhất là đối với
những người dân đã từng sống ở Pa-ri.
Tuy chỉ là hư cấu nghệ thuật, nhưng quán trọ của bà Vô-ke
có địa chỉ, nó được đặt vào phố Mới-Nữ-thánh-Giơ-nơ-vi-e-vơ
ở ngoại ô Pa-ri vào thập niên thứ hai của thế kỉ XIX. Ngày nay
thuộc vùng ngoại ô ấy thuộc nội thành, ở quận 5 có một phố
mang tên gần giống như thế: phố Nữ-thánh- Giơ-nơ-vi-e-vơ.
Nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông là ngôi nhà thờ có thật xây
dựng từ thế kỉ thứ XIII ở quảng trường Păng-tê-ông, nghĩa là
rất gần với phố nơi nhà văn chọn làm địa điểm cho quán trọ.
Nhà thờ này là nơi đặt thánh tích nữ thánh Giơ-nơ-vi-e-vơ, vị
nữ thánh bảo trợ kinh thành Pa-ri. Nghĩa trang Cha-La-se-dơ
cũng là một nghĩa trang có thật, ở xa hơn về phía Đông Bắc,

lập ra năm 1804, trước khi xảy ra câu chuyện trong tiểu thuyết
này không lâu.
- Lão Gô-ri-ô bấy giờ đã chết, nằm trong quan tài, những vẫn cứ là nhân
vật trung tâm của đoạn trích, cũng như lão là nhân vật trung tâm của tiểu
thuyết. Nhà văn dùng nhiều biện pháp nghệ thuật cụ thể nhằm khắc họa
đậm nét số phận bi đát của lão:
+ Khung cảnh đám tang là diễn ra ở một vùng ô buồn tẻ ( ngày nay cả
khu vực ấy, từ dãy phố, nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông đến nghĩa
trang Cha-Le-se-dơ, đều thuộc nội thành Pa-ri náo nhiệt ).
+ Ông chọn thời gian vào lúc ngày tàn. Ánh sáng lờ mờ của giáo đường
đã nhỏ lại thấp và tối, rồi đến quang cảnh ngày tàn với một buổi hoàng
hôn ẩm ướt là thứ ánh sáng và màu sắc ấy càng trở nên ảm đạm hơn,
đáng buồn hơn khi cuối cùng xa xa về phía trung tâm thành phố đã lên
đèn.
 Đám tang nào mà chẳng buồn, nhưng khung cảnh không gian, thời
gian này rõ ràng làm tăng thêm tính chất bi đát của đám tang lão Gô-ri-
ô.
- Ánh đèn rực rỡ và cả âm thanh ( cái tổ ong rào rào ) là ở chỗ xa xa kia,
còn nơi đây lặng lẽ đến rợn người: không có tiếng xe ngựa, không nghe
tiếng cuốc xẻng, không nghe âm vang những lời cầu kinh vì chúng chỉ
được nhắc thoáng qua trong lời kể. Chỉ có ba lần lời nói trực tiếp vang
lên, ba câu ngắn ngủi, ba lời đối thoại, nhưng là đối thoại một chiều,
một lời của Cri-xtô-phơ, một của vị linh mục và một của Ra-xti-nhắc.
- Cri-xtô-phơ nói với Ra-xti-nhắc: Đúng thế đấy, cậu Ơ-gien ạ [...] ông
cụ là người tử tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không hề làm hại
ai và chưa từng làm điều gì nên tội.
 Câu nói này đã làm gợi lên nghịch cảnh tâm lí: người chết càng tốt
bụng, hiền lành bao nhiêu thì đám tang càng có vẻ xót xa, trớ trêu bấy
Chứng minh tình người
bạc bẽo bị đồng tiền

chi phối qua: vị linh
mục, hai gã đào huyệt
Cri-xtô-phơ, bọn giai
nhân và hai cô con gái.
nhiêu.
- Vị linh mục nói với Ra-xti-nhắc: Không có người đưa đám. Chẳng có
ai thân thích đi đưa ma mà chỉ đúng một đám người dưng đếm được trên
đầu ngón tay, trong đó có Cri-xtô-phơ và Ra-xti-nhắc. Đi theo chiếc xe
chở người xấu số từ quán trọ đến nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông chỉ
có bốn người nữa là hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ nhà thờ.
Khi xe chuyển bánh đến nghĩa trang, có thêm hai gia nhân trên chiếc xe
ngựa không có người ngồi của bá tước Đơ Re-xtô và của nam tước Đơ
Nuy-xin-ghen, nhưng lại bớt đi người bõ nhà thờ và một vị linh mục.
Tới nơi, có thêm hai gã đào huyệt, nhưng hai gia nhân chắc là quay về
ngay theo với xe tang chứ chẳng đợi chôn cất xong ( tuy không thấy
người kể chuyện nhắc đến ).
 Nhà văn đã khéo léo bố trí để số người đã ít ỏi kia cứ vơi dần đi: mới
đầu là bọn gia nhân của hai cô con gái cùng với vị linh mục và chú bé
hát lễ sau khi đọc xong bài kinh ngắn ngủi, rồi đến lượt hai gã đào huyệt
lúc vùi xong nấm mộ, cuối cùng Cri-xtô-phơ cũng bỏ đi nốt, để lại một
mình Ra-xti-nhắc, chàng sinh viên cũng không đứng ở bên mộ mà nhà
văn để chàng đi về phía đầu nghĩa địa.
3. Tình người của những nhân vật bị đồng tiền chi phối:
- Lão Gô-ri-ô là nạn nhân đau khổ nhất của thói đời đen bạc, các nhân
vật ( trừ lão Gô-ri-ô ) thì ít nhiều đều bị biến chất đi trong xã hội đồng
tiền: các vị nhà đạo tiến hành nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy mươi
quan, Cri-xtô-phơ gắn việc làm của mình với mấy món tiền đãi công
kha khá, bài kinh ngắn ngủi cầu cho lão ở nghĩa trang do chàng sinh
viên trả tiền, hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻng đất thì đã đòi tiền
đãi công khiến Ra-xti-nhắc móc túi không còn đồng nào nên đành vay

Cri-xtô-phơ hai mươi xu,...
 Một đoạn văn không dài, nhưng nhà văn đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần
đến tiền nhằm để nói mục đích thật sự của những người đưa đám ( trừ
hai người vì lòng tốt, lòng thương hại ông lão là Cri-xtô-phơ và Ra-xti-
nhắc ).
- Hai người con gái của lão Gô-ri-ô không được nhà văn cho xuất hiện ở
mấy trang cuối cùng của tiểu thuyết này, nhưng ta lại không thể không
nói đến:
+ Khi thi hài của người quá cố sắp được chuyển đến nhà thờ, người kể
chuyện nhắc đến cái hình ảnh thuộc về một thời mà nhà Đen-phin và A-
na-xta-di còn bé bỏng, đồng trinh và trong trắng,...
+ Ở trong nhà thờ, chàng sinh viên đã hoài công tìm hai cô gái.
+ Khi xe tang sắp chuyển bánh đến nghĩa trang thì xuất hiện hai chiếc
xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi, một của bá tước Đơ
Re-xtô và một của nam tước Đơ Nuy-xin-ghen.
 Bằng những chi tiết trên, nhà văn cho ta thấy được quá trình diễn
biến của những đứa con ấy, mà nguyên nhân sâu xa là sự nhào nặn của
xã hội thượng lưu. Chồng của cô chị là một nhà quý tộc, chồng cô em là
một chủ ngân hàng. Địa vị phu nhân của bá tước và vợ của chủ ngân
hàng đã giết chết A-na-xta-di và Đen-phin trong tâm hồn họ. Thật bi đát
cho số phận người cha Gô-ri-ô có những đứa con như vậy. Ở cùng một
Nhân vật Ra-xti-nhắc
được khắc họa như thế
nào trong đoạn trích ?
thành phố mà lánh mặt cha lúc cha còn sống, xấu hổ vì cha nghèo, lúc
cha ốm đau không đến thăm vì còn mải thú vui riêng, khi cha qua đời,
không có mặt và đến bây giờ không đưa cha về nơi an nghỉ cuối cùng.
Mà đấy là người cha thương con rất mực và chưa từng làm điều gì nên
tội.
- Chi tiết hai chiếc xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi là

hình ảnh rất đạt mà nhà văn đã đưa vào đám tang. Nó vừa là sự có mặt,
vừa là sự vắng mặt của hai vợ chồng Đơ Re-xtô và Đơ Nuy-xin-ghen,
nhưng chủ yếu là hai bà vợ. Vắng mặt thật và có mặt giả.
 Điều này làm gợi nhớ cho những ai quên là lão Gô-ri-ô có hai cô con
gái. Nó tăng thêm tính chất bi đát cho số phận và đám tang của người
cha bất hạnh. Nếu không có hai chiếc xe ấy, chắc linh hồn người xấu số
nằm trong chiếc quan tài kia đỡ đau buồn hơn nếu linh hồn tồn tại. Và
những người chứng kiến đám tang cũng đỡ đau buồn hơn.
4. Nhân vật Ra-xti-nhắc:
- Ra-xti-nhắc là một thanh niên nghèo ở nông thôn, quyết chí lên Pa-ri
lập nghiệp, đang định học Luật.
- Thái độ, tình cảm và hành động của Ra-xti-nhắc trong những ngày
sống ở quán trọ bà Vô-ke, cạnh phòng lão Gô-ri-ô, nhất là trong đám
tang lão Gô-ri-ô chứng tỏ rằng anh vẫn là chàng trai tốt bụng, giàu tình
cảm, biết thương người. Bàn tay nắm chặt tay Cri-xtô-phơ trong phút hạ
huyệt và những giọt nước mắt của Ra-xti-nhắc là chân thành xúc động
trong trắng và thiêng liêng. Anh ta cũng nghèo nhưng đã tự nguyện
đứng ra lo liệu đám tang người quá cố bằng những đồng tiền cuối cùng
của mình.
- Chúng ta xúc động trước tấm lòng của Ra-xti-nhắc với lão Gô-ri-ô và
cái nghẹn ngào của chàng xiết chặt bàn tay Cri-xtô-phơ mà không nói
nên lời, về giọt nước mắt của chàng như được thăng hoa qua lời bình
của người kể chuyện: giọt nước mắt trào ra vì những mối xúc động
thiêng liêng của một trái tim trong trắng, cái thứ nước mắt rơi xuống
mặt đất rồi từ đó lại vút lên đến tận trời cao.
Nhưng đấy lại là giọt nước mắt cuối cùng của người trai trẻ. Nhà văn
muốn xây dựng Ra-xti-nhắc thành một nhân vật cũng bị biến chất đi
trong xã hội tôn thờ tiền tài và danh vọng. Giọt nước mắt đánh dấu bước
ngoặt quá trình phát triển tính cách chàng, trở thành cái mốc phân chia
hai giai đoạn của đời chàng. Những điều chứng kiến đau lòng về thói

đời đen bạc không làm cho chàng rút ra được những bài học đúng đắn
về cách xử thế, mà lại là bài học tiêu cực vứt bỏ bản chất tốt đẹp của
mình.
- Mầm mống của sự chuyển biến tính cách này thực ra đã có từ lâu,
nhưng bây giờ mới là thời điểm quyết định. Vẫn đôi mắt ấy thôi, nhưng
lúc nãy là giọt nước mắt trào ra, còn bây giờ là cái nhìn gần như thèm
thuồng vào cái nơi tập trung của xã hội thượng lưu, cái nhìn như hút
trước nước mật của nó. Ngôn từ của người kể chuyện bắt đầu chuyển
sang giọng phê phán.
- Dưới ngòi bút của Ban-dắc, cái khoảng thành phố Pa-ri giữa cột đồng
trụ của quảng trường Văng-đôm và đỉnh mái tròn điện Anh-va-lít vừa là

×