Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

SKKN Ứng dụng CNTT trong giảng dạy phần lý thuyết nội dung binh khí súng tiểu liên AK và súng trường CKC” cho học sinh khối 11, Trường THPT Trần Phú – Đà Lạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 42 trang )

SỞ GD & ĐT LÂM ĐỒNG
TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Đà Lạt, ngày 06 tháng 06 năm 2016

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN, KINH NGHIỆM
ĐỀ NGHỊ TẶNG THƯỞNG DANH HIỆU
“ CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP TỈNH NĂM 2016”
Họ và tên: LÊ NGỌC VIỆT
Chức vụ: Giáo viên, Trưởng ban lao động.
Đơn vị công tác: Trường THPT Trần Phú.

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn học Giáo dục Quốc phòng – An ninh góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh
về lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống
đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam, có ý thức cảnh giác, làm thất bại chiến lược “ Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và
mọi âm mưu, thủ đoạn, phá hoại của các thế lực thù địch; rèn luyện cho học sinh có kiến
thức quốc phòng, kĩ năng về quân sự trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy – học môn Giáo
dục Quốc phòng – An ninh là vô cùng ý nghĩa. Nó góp phần “phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh”, “bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh” (Luật Giáo dục, điều 28).
Song phải thừa nhận một thực tế rằng, ở một bộ phận không nhỏ học sinh, phụ huynh
học sinh, người dân và cả một số ít giáo viên có biểu hiện coi thường, xem nhẹ, không có
hứng thú học môn học này. Việc nhận thức về môn học như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng


không nhỏ đến chất lượng dạy và học của bộ môn. Chính vì vậy việc đổi mới mạnh mẽ, sâu
rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh giá cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đặc điểm của môn GDQP-AN là giảng dạy lý thuyết xen lẫn các nội dung học thực
hành, cần sử dụng nhiều tư liệu và minh họa bằng hình ảnh trực quan giúp cho người học dễ
dàng nhận biết hình dung vị trí địa lý, các đường biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển,
các đảo và các quần đảo, biết xác định chủ quyền biên giới quốc gia Việt Nam...đồng thời
nhận biết về các loại vũ khí trang bị, cấu tạo của súng, đạn, lựu đạn và chuyển động gây nổ

1


hay phương pháp ngắm bắn được minh họa rõ ràng cụ thể, giúp cho người học nhanh chóng
nhận biết và áp dụng thực tế khi tiến hành tập luyện ngoài thao trường.
Ngày nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT) vào các lĩnh vực là điều tất yếu. Công nghệ thông tin là công nghệ hỗ trợ
đắc lực trong việc đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng
giáo dục nói chung và môn giáo dục quốc phòng – An ninh nói riêng. Nhờ có CNTT mà sự
sáng tạo trong việc chuẩn bị các tiết dạy phong phú, đang dạng, khai thác có hiệu quả các
thông tin trên mạng Interrnet tích hợp nghe, nhìn làm cho bài giảng phong phú đạt kết quả
cao.
Ứng dụng CNTT trong giáo dục nói chung là yêu cầu cấp thiết, có tác dụng mạnh mẽ
đối với mục tiêu, định hướng đổi mới phương pháp dạy học, là phương tiện hữu ích giúp cho
giáo viên sáng tạo lựa chọn những hình thức đổi mới dạy học cho phù hợp với đối tượng.
Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước, nền giáo dục Việt Nam phải thực
hiện một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện về nội dung lẫn phương pháp dạy học (PPDH) như
tinh thần của nghị quyết TW2 - khóa VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh, nhất là nhất là sinh viên đại học”. Vì vậy, với mong muốn đóng góp một

phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy phần lý thuyết nội dung binh khí súng Tiểu liên AK
và súng Trường CKC”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác giảng dạy ở trường THPT Trần
Phú – Đà Lạt, đề xuất giải pháp cho việc khai thác thông tin, thiết kế bài giảng nhằm giúp
học sinh có hình ảnh trực quan sinh động, nhanh chóng nhận biết vận dung, phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ
năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn.
Làm cho học là một quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và
xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất
3. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu “ứng dụng CNTT trong giảng dạy phần lý thuyết nội dung binh khí
súng tiểu liên AK và súng trường CKC” cho học sinh khối 11, Trường THPT Trần Phú – Đà
Lạt
Khách thể điều tra: Học sinh khối 11, Trường THPT Trần Phú – Đà Lạt
4. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu:
+ Giai đoạn 1: Từ tháng 09/2012 đến hết tháng 05/2013.
+ Giai đoạn 2: Từ tháng 09/2013 đến tháng 05/2016

2


Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC
ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Ứng dụng
Ứng dụng là việc sử dụng các công cụ sẵn có để đạt được lợi ích trong thực tế.

1.1.2. Công nghệ:
Công nghệ được hiểu tổng quát là sự áp dụng của khoa học vào các hoạt động thực
tiễn của con người trong đời sống xã hội.
1.1.3. Công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng công nghệ
quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và các phần mềm của nó để chuyển
đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu thông tin. Theo Nghị quyết 49/CP của Chính phủ
ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học,
các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thôngnhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
1.1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin
Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động
thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt động
khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này.
1.1.5. Ứng dựng CNTT trong giảng dạy
Ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học là việc sử dụng các phương pháp khoa
học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để khai thác, sản xuất và trao đổi thông tin số,
phục vụ hiệu quả cho hoạt động dạy học của giáo viên. Cụ thể hơn, ứng dụng CNTT trong
hoạt động dạy học là việc sử dụng máy tính, phần mềm máy tính và các thiết bị CNTT khác
trong việc soạn bài, dạy học, kiểm tra đánh giá, hỗ trợ học sinh học tập và cả việc nghiên
cứu nhằm phát triển chuyên môn.
1.1.6. Bài giảng điện tử
Bài giảng điện tử là bài giảng của giáo viên được thể hiện trên lớp nhờ sự hỗ trợ của
các thiết bị điện tử.
1.1.7. Giáo án điện tử
Là giáo án truyền thống của GV nhưng được đưa vào máy vi tính – giáo án truyền
thống nhưng được lưu trữ, thể hiện ở dạng điện tử.
Khi giáo án truyền thống được đưa vào máy tính thì những ưu điểm, thế mạnh của
CNTT sẽ phát huy: lưu trữ, hình thức, chia sẽ, xử lý, quản lý…


3


Giáo án điện tử không bao hàm có hay không việc ứng dụng CNTT trong tiết học mà
giáo án đó thể hiện
(Nguồn: Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS-môn Tin học Vụ Giáo dục
Trung học-Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2007 (trang 95+96))
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG GIẢNG DẠY PHẦN LÝ THUYẾT NỘI DUNG BINH KHÍ SÚNG TIỂU
LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC.
1.2.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu, chính sách và tình hình ứng dụng CNTT trong giáo
dục
Tổ chức UNESCO đã dự đoán việc tác động của công nghệ thông tin sẽ làm thay đổi
một cách căn bản nền giáo dục thế giới trong những năm đầu thế kỉ XXI. Chính vì vậy từ
thập niên cuối của thế kỉ trước, tổ chức này đã có những chương trình hành động cụ thể, chủ
yếu là thiết lập lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin, tài trợ cho các hội thảo khoa học của
các nước, lập các dự án quản lí và ứng dụng cách thành tựu mới của công nghệ thông tin
trong giáo dục.
Nghị quyết TW2, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy
và học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên
đại học”.
Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng
cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn
2008-2012
Hướng dẫn nhiệm vụ CNTT năm học 2012-2013 của Bộ GD-ĐT yêu cầu triển khai
Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ trong đó nhấn mạnh:
“Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới phương pháp dạy và
học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì học trong môn tin học.

Giáo viên các bộ môn chủ động tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để
giảng dạy ứng dụng CNTT”.
Trên thực tế đa số các môn học được giảng dạy ở tất cả các bậc học đã và đang sử
dụng CNTT một cách có hiệu quả mang lại hiệu quả trong công tác giảng dạy. Đối với môn
GDQP cũng như các môn học khác là môn học đòi hỏi tính hệ thống, cần sử dụng nhiều tư
liệu và minh hoạ bằng các hình ảnh trực quan, giúp người học hình dung được về vũ khí
trang bị, các kỹ thuật động tác cơ bản, câu tạo và chuyển động của các loại súng… CNTT có
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến
thức của người học. Giáo viên có thể ứng dụng CNTT trong quá trình dạy học Giáo dục
Quốc phòng – An ninh đạt được hiệu quả như mong muốn.

4


1.2.2. Vai trò của công nghệ thông tin với dạy học:
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường học đang rất được ngành
giáo dục và xã hội quan tâm. Với mục tiêu dạy học tích cực – lấy học sinh làm trung tâm của
hoạt động dạy và học để có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
tạo cho học sinh hứng thú trong học tập. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học tích cực. Một trong những công cụ hữu ích hỗ trợ cho giáo
viên, đó chính là ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học bởi những lí do
sau:
- Thứ nhất: Trong thời đại ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì việc
ứng dụng CNTT vào dạy học là phù hợp với quy luật và là một việc làm cần thiết, đem lại
hiệu quả thiết thực.
- Thứ hai: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thứ ba: Công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện dạy học, các
phần mềm dạy học đã giúp giáo viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của học sinh, giúp học
sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một

lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học sinh.
- Thứ tư: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên bố trí thời
gian giảng dạy hợp lý, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có vấn đề để
kích thích tư duy sáng tạo và kiểm tra đánh giá học sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình dung
và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng
những hình ảnh trực quan (hình ảnh, đoạn phim…)
- Thứ năm: Cập nhật, khai thác kho tri thức chung của nhân loại bằng các công cụ đa
phương tiện.
1.2.3. Tác động của CNTT và truyền thông mới đối với giáo dục
Phân loại các mô hình giáo dục theo cách tiếp cận thông tin:
Theo cách tiếp cận thông tin, tại “Hội nghị Paris về GĐH trong thế kỷ 21” do
UNESCO tổ chức 10/2008 người ta có tổng kết 3 mô hình giáo dục nêu ở Bảng dưới đây.
Trong các mô hình đã nêu, mô hình “trí thức” là mô hình giáo dục hiện đại nhất, hình thành
khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của công nghệ thông tin truyền thông mới mạng Internet.

5


Bảng phân loại các mô hình giáo dục dựa trên các công nghệ cơ bản theo cách
tiếp cận thông tin
Mô hình
Truyền thống
Thông tin
Tri thức

Trung tâm
Người dạy
Người học
Nhóm


Vai trò
người học
Thụ động
Chủ động
Thích nghi

Công nghệ cơ bản
Bảng/TV/Radio
PC
PC+mạng

1.2.4. Sự cần thiết phải ứng dụng CNTT trong dạy và học
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình
đổi mới nội dung, PPGD. Cụ thể là:
- CNTT là một công cụ đắc lực để hỗ trợ cho việc xây dựng các kiến thức mới.
- Là phương tiện thông tin để khám phá kiến thức nhằm hỗ trợ cho quá trình học tập.
- Phục vụ cho việc đổi mới PPGD. Tuỳ theo từng bài giảng, từng mảng kiến thức
hoặc tuỳ theo từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể vận dụng một cách sáng tạo
CNTT trong từng giờ, từng kiểu bài lên lớp.
- CNTT giúp cho bài giảng được sinh động hơn và hấp dẫn hơn, bằng những phần
mềm dạy học hoặc kết hợp các phần mềm đó với các phương pháp giáo dục khác thành tổ
hợp phương pháp giáo dục phức hợp.
1.2.5. Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.
- Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục,
Điều 28.2: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ đông,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh.
Theo các nhà lí luận dạy học, phương pháp dạy học là cách thức, là con đường đi tới

nhận thức sự vật hiện tượng khách quan, là sự tập hợp các phương tiện để đạt đến mục đích
đề ra; Hay nói cách khác “phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức phối hợp hoạt động
một cách thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới
vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”. Do đó phương pháp
dạy học, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau song tất cả đều hướng đến tính mục tiêu của quá
trình dạy học đó là vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó,
phương tiện dạy học là công cụ đóng vai trò quan trọng, là cầu nối chung gian mang lại hiệu
quả giáo dục. Vì vậy quá trình dạy học cũng chính là quá trình truyền thông, bởi vì truyền
thông là sự chuyển tải thông tin từ một hoặc một nhóm đối tượng này đến một hoặc một
nhóm đối tượng khác nhằm cung cấp kiến thức, thay đổi nhận thức và cải biến hành vi của

6


con người. Điểm khác biệt ở dạy học và các loại hình truyền thông là ở chỗ: dạy học là quá
trình truyền thông nhiều chiều trong đó học sinh là đối tượng trung tâm, là chủ thể và giáo
viên đóng vai trò chủ đạo để quá trình truyền thông đạt hiệu quả.
Giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – An ninh là quá trình dạy học mang tính đặc
thù nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, công tác quốc phòng,
an ninh của Đảng và Nhà nước; những kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết nhằm đáp ứng yêu
cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn sàng tham gia lực lượng dân quân
tự vệ, dự bị động viên và làm nghĩa vụ quân sự, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời giáo dục ý thức trách nhiệm cho thế hệ trẻ
về các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân nhân,
an ninh nhân dân; đấu tranh, phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Qua môn học giúp cho học sinh hiểu biết và vận dụng thành thục thao tác các kỹ năng
quân sự cần thiết, biết sử dụng một số loại vũ khí bộ binh, thành thạo trong sử dụng súng
tiểu liên AK (CKC). Rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội; xây dựng tác phong nhanh nhẹn; hình thành nếp sống có kỷ luật trong sinh

hoạt tập thể, ý thức cộng đồng ở trường, lớp và khi ra công tác.
Trong thời đại ngày này trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và CNTT,
việc ứng dụng công nghệ, khai thác thông tin trên mạng Internet trở nên phổ biến, mọi tầng
lớp trong xã hội có thể nhanh chóng tìm được các thông tin khác đáp ứng các yêu cầu sử
dụng khác nhau. Sự bùng nổ vệ thông tin đặt ra nhu cầu tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin
và giải quyết vấn đề đáp ứng với yêu cầu của thời đại. Do đó đạo tạo ra con người có năng
lực, có trình độ nhận thức cao là mục tiêu hàng đầu của nhân loại và thế giới.
Đối với môn GDQP-AN cũng như các môn học khác tất cả đều nhằm mục đích tích
cực hóa hoạt động của học sinh, kích thích tư duy sáng tạo, đem lại hiệu quả tích cực trong
đổi mới phương pháp giảng dạy.
Ngoài ra, xét về góc độ tâm lí lứa tuổi, học sinh trung học phổ thông đang trong giai
đoạn phát triển của nhận thức và con đường nhận thức của các em cũng không thoát khỏi
quy luật: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Do đó, việc sử dụng
công nghệ thông tin vào dạy học để có thể cung cấp cho các em những tư liệu trực quan sinh
động (Tranh ảnh, bản đồ, phim tư liệu…), giúp các em biết và hiểu được bản chất của vấn đề
lịch sử là hoàn toàn phù hợp với các em.
Việt Nam đang trên đường đổi mới và hội nhập quốc tế nên không thể không tiếp
nhận những tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học ở nước ta cũng là vấn đề cần thiết.

Chương 2:
7


THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CNTT
TRONG GIẢNG DẠY
2.1.

Thực trạng cơ cấu, quy mô trường lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị, vốn tài liệu
đối với việc dạy và học môn giáo dục Quốc phòng – An ninh.


2.1.1. Cơ cấu, quy mô trường lớp
Trường THPT Trần Phú có cơ cấu thường xuyên khoảng từ 30 đến 34 lớp/năm học,
được bố trí trên quỹ đất khoảng 1,2 ha; trường chỉ học một buổi/ngày (trừ hoạt động ngoại
khóa và học bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu)
Diện tích sân bãi tập luyện hạn chế, có nhiều buổi học trên sân trường có đến 06 lớp
học thực hành ( cả thể dục và Quốc phòng). Chính vì vậy việc triển khai cho cách hoạt động
học tập và luyện tập cho học sinh rất khó khăn, đặc biệt là các tiết học thực hành ném lựu
đạn và ngắm bắn
2.1.2. Thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị:
Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường được Sở GD –
ĐT Lâm Đồng đầu tư, trang bị khá đầy đủ; tuy nhiên phần nào đó vẫn chưa đáp ứng đủ cho
việc giảng dạy của bộ môn…
Môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh là môn học liên quan nhiều đến các loại tranh
ảnh kỹ thuật như súng, đạn, lựu đạn, các mô hình học cụ khác, các loại bản đồ... song hiện
tại các các mô hình học cụ trên phần thì còn thiếu, phần chưa đáp ứng được các yêu cầu
giảng dạy môn học.
Những năm trước đây, vào đầu năm học, giáo viên phải lên Ban chỉ Huy Quân sự
Thành phố Đà Lạt mượn súng về huấn luyện, số lượng súng mượn được cũng rất hạn chế;
tối đa chỉ được mượn 04 khẩu súng Tiểu liên AK, không mượn được súng Trường CKC (mà
trong nội dung chương trình có nội dung giới thiệu súng trường CKC”
2.1.3. Thực trạng về nội dung chương trình:
Nội dung chương trình còn cứng nhắc, quá tải, chú trọng vào kỹ năng tái hiện không
phải là kỹ năng “nóng”; nhiều bài chưa phù hợp, có nhiều tiết dạy quá nhiều nội dung cần
truyền đạt đến học sinh dẫn đến giờ học còn nặng nề, chưa phát huy được tính tích cực tự
giác của học sinh.
2.1.4. Thực trạng về tài liệu tham khảo, sách tham khảo của giáo viên
Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học của bộ môn còn hạn chế; sách dùng
cho giáo viên như sách hướng dẫn soạn giảng môn GDQP 10, 11, 12 hoặc chuẩn kiến thức
kỹ năng,… còn quá đơn giản, chưa chi tiết, cụ thể, chưa đáp ứng được nội dung chương

trình. Trong khi đó môn GDQP là một trong những môn học nặng về lý luận và tính

8


chính trị-xã hội trực tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao. Bên cạnh những tri
thức khoa học với nhiều khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, quy luật cần phải được giải
thích rõ, môn học này còn phải chuyển tải đến người học nhiều nội dung quan trọng
trong đường lối quân sự, chính sách của Đảng và nhà nước ta,…
2.2.

Thực trạng nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học của đội ngũ giáo viên
GDQP
- Một bộ phận giáo viên của nhà trường, trong đó phải nói đến đội ngũ giáo viên lâu
năm, họ không muốn hoặc không tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
- Một bộ phận khá lớn giáo viên nhận thức rõ nhu cầu, sự cần thiết đổi mới phương
pháp giảng dạy và hoàn toàn ủng hộ cuộc đổi mới đó. Họ nhiệt tình hăng hái đón nhận và
thực hiện đổi mới nhưng gặp phải những khó khăn khi thực hiện.
2.3. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên GDQP ở các trường
THPT.
2.3.1. Thực trạng hoạt động học tập của học sinh các trường THPT đối với môn học GD
Quốc phòng.
- Do tâm lý xã hội, áp lực thi cử dẫn đến nhận thức của một bộ phận học sinh còn
chưa đầy đủ, chưa đặt nhiều sự quan tâm đến môn học, ý thức thái độ dành cho môn học
thiếu tính nghiêm túc, học sinh quan tâm nhiều đến các môn học mang lại lợi ích cho cá
nhân, dành sự quan tâm cho các môn thi đại học. Học sinh chỉ cần chú ý đến các nội dung
tiến hành kiểm tra với ý thức chỉ cần trên điểm trung bình nên sự hiểu biết về các nội dung
học tập chưa sâu sắc, bên cạnh đó một số học sinh có thái độ thờ ơ trước tình hình của đất
nước.
- Về phương pháp tự học ở nhà cũng như tại lớp, học sinh vẫn đang nặng nề về nghe

giảng, chép và học thuộc bài hoặc giải các bài tập mà thầy, cô yêu cầu; học sinh chưa chủ
động suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập. Các em chưa mạnh dạn trình bày
và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân. Những nhược điểm này là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng học sinh chưa chủ động trong học tập nên chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao.
2.3.2. Thực trạng về đội ngũ và việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên bộ môn
GD Quốc phòng
- Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, tận tâm, có năng lực trong giảng dạy và giáo dục
học sinh. Ngoài thuận lợi này, giáo viên GDQP cũng gặp không ít khó khăn:
- Mỗi trường chỉ có một đến hai giáo viên bộ môn GDQP, nên việc trao đổi kinh
nghiệm chuyên môn nghiệp vu là hạn chế.
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hầu như được đào tạo từ các lớp
ngắn hạn (6 tháng) và hằng năm được tập huấn về chuyên môn nhưng do đây là một lĩnh vực
khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội về chuyên môn có hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó
khăn trong giảng dạy.

9


- Việc sử dụng các phương tiện thông tin truyền thông hoặc phối hợp nhiều phương
tiện dạy học chưa được thực hiện thường xuyên. Việc cập nhật trình độ tin học cho giáo viên
chưa đồng đều. Điều đó đã tạo ra một khoảng cách về nhận thức giữa thầy và trò, giữa các
thế hệ nhà giáo.
- Một số giáo viên ngại soạn giáo án điện tử vì tốn thời gian và sợ vất vả. Bên cạnh
đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ
vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học
cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi được trong một sớm, một chiều
- Từ thói quen thuyết giảng, không ít người chỉ “chạy” theo khối lượng kiến thức có
trong sách giáo khoa, không quan tâm đến việc tìm ra những biện pháp tác động đến quá
trình nhận thức của học sinh. Đây là thói quen, cũng là rào cản của giáo viên khi đổi mới
PPGD.

- Việc hướng dẫn học sinh tự học trong giáo viên và trong các nhà trường chưa được
quan tân đúng mức.
2.4. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy bộ môn GD Quốc phòng
Hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên môn GDQP khá phổ biến
ở các trường THPT, điều đó giúp phát huy tính tích cực tự giác trong học tập và nâng cao kết
quả học tập của học sinh. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy còn một số tồn tại:
- Còn nhiều giáo viên vẫn sử dụng PPDH truyền thống, phương tiện là phấn trắng
bảng đen. Một số ít giáo viên có sử dụng máy chiếu qua đầu hoặc Projector, soạn bài giảng
điện tử bằng phần mềm Powerpoint trong những tiết dạy tốt, thao giảng. Tuy nhiên các giờ
dạy đó chỉ thực hiện một cách riêng lẻ, không có hệ thống, chưa chuẩn bị kỹ về mọi mặt của
vấn đề PPDH, do vậy thực chất những tiết giảng rời rạc đó chưa thể làm thay đổi được bản
chất của quá trình dạy học để có thể nâng cao chất lượng dạy học môn học.
- Giáo viên một số trường còn ít hoặc chưa được quan tâm do giáo viên ngại soạn
giáo án điện tử vì tốn thời gian hoặc trình độ CNTT còn hạn chế.
- Việc sử dụng CNTT của một số giáo viên môn GDQP chưa được nghiên cứu kỹ,
dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi nó còn bị lạm dụng để
làm thay phần việc của giáo viên.
2.5. Thực trạng mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học và kết quả học tập của
học sinh:
- Qua nhiều năm giảng dạy theo nội dung chương trình của bộ môn GDQP khi chưa
dụng CNTT trong dạy học tôi nhận thấy rằng: Sự hứng thú trong học tập của học sinh đạt kết
quả chưa cao, các em học sinh còn chưa phát huy tinh thần và thái độ khi học môn GDQP.
- Một số học sinh yếu kém ngày càng có thái độ nhàm chán khi học bộ môn.
- Đầu năm học 2012 - 2013, tôi khảo sát sự hứng thú của học sinh với bộ môn Giáo
dục Quốc phòng khi chưa áp dụng CNTT trong giảng dạy (khảo sát bằng cách phát phiếu
khảo sát) ở 03 lớp cùng khối kết quả cho thấy:

10



Bảng kết quả điều tra mức độ hứng thú của học sinh đối với bộ môn GDQP
năm học 2012-2013
Mức độ hứng thú của học sinh
Không
Tỉ lệ
Bình
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Lớp
Sĩ số
Hứng thú
hứng
%
thường
%
%
thú
7
19.4
13
36.1
16
44.4
11A1
36
8
22.2
14
38.9
14

38.9
11A5
36
8
21.1
13
34.2
17
44.7
11A7
38
10
27.0
12
32.4
15
40.6
11A10
37
Kết quả kiểm tra nội dung nội dung “ kỹ thuật sử dụng súng Tiểu liên AK và súng
trường CKC” khi chưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy
Xếp loại
Năm học

GIỎI

TRUNG
BÌNH

KHÁ


(Tỷ lệ %) (Tỷ lệ %)

(Tỷ lệ %)

YẾU

KÉM

(Tỉ lệ %)

(Tỉ lệ %)

2010 – 2011

19.1

44.8

31.4

4.7

0.0

2011-2012

19.7

43.3


32.2

4.8

0.0

- Kết quả điều tra cho thấy số học sinh không hứng thú với môn học chiếm tỉ lệ rất
cao dẫn đến kết quả học tập của học sinh cuối năm học chưa cao, chứng tỏ một phần do
phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp, còn chưa cuốn hút được học sinh. Chính
vì vậy việc làm cấp thiết là phải đổi mới phương pháp giảng dạy.

Chương 3:
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY PHẦN LÝ THUYẾT
NỘI DUNG BINH KHÍ SÚNG TIỂU LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC
CHO HỌC SINH KHỐI 11 – TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ – TP ĐÀ LẠT

11


3.1.
3.2.

CÁC NGUYÊN TẮC ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
Nguyên tắc tính kế thừa
Nguyên tắc tính đồng bộ, hệ thống.
Nguyên tắc tính hiệu quả.
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG GIẢNG DẠY PHẦN LÝ THUYẾT NỘI DUNG BINH KHÍ SÚNG

TIỂU LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC” CHO HỌC SINH KHỐI 11 –
TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ – TP ĐÀ LẠT
3.2.1. Ứng dụng CNTT cho bài: Giới thiệu súng Tiểu liên AK và súng trường CKC”
3.2.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin cho thiết kế nội dung phần giới thiệu tác dụng,
tính năng chiến đấu súng AK.
1) Mục đích của biện pháp:
Qua hình ảnh trực quan giúp học sinh nhận biết một cách dễ dàng súng Tiểu liên
AK và súng Tiểu liên AK cải tiến là: AKM và AKMS. Biết được tác dụng và tính năng chiến
đấu của súng.
2) Cách thực hiên:
- Khi giảng dạy giới thiệu các loại súng AK: Súng AK có 3 kiểu là AK47, AKM,
AKMS. Ba kiểu súng trên đều là súng AK song tác dụng, cấu tạo, tính năng chiến đấu của
mỗi loại khác nhau, khối lượng cho 3 loại súng trên cũng khác nhau. Vì vậy khi giảng dạy
không áp dụng CNTT giáo viên cần chuẩn bị súng AK cắt bổ hoặc súng nhựa conposite làm
mô hình giới thiệu để học sinh nhận biết hình dáng, cấu trúc bên ngoài như vậy học sinh chỉ
nhận biết loại súng AK47, còn súng AKM và AKMS không có. Chính vì vậy học sinh không
hình dung được hình dáng và những loại súng có ưu việt thế nào để so sánh. Buộc giáo viên
phải mô phỏng và giải thích bằng lời để học sinh hình dung do đó có những hạn chế nhất
định, chưa tạo ra sự hứng thú.
- Còn khi ứng dụng CNTT: Giáo viên hoàn toàn có thể sưu tầm các loại súng trên trên
mạng Interrnet, sau khi giới thiếu tác dụng tính năng, cấu tạo của các loại súng, giáo viên có
thể cho học sinh xem các hình ảnh, các đoạn video clip về sự khác nhau của súng. Như vậy
học sinh dễ dàng nhận biết, học sinh tự biết so sánh những ưu việt khác nhau của từng loại
súng.

12


Ví dụ như các hình ảnh dưới đây.


4.

Qua đó giáo viên đặt các câu hỏi cho học sinh trả lời về khối lượng các loại súng, sự
khác nhau về tốc độ bay của đầu đạn, về tầm bắn của các loại súng... với cách thiết kế bài
giảng có cung cấp thông tin, có câu hỏi phát vấn và kết luận vấn đề sẽ nhanh chóng giúp học
sinh nhận biệt và khắc sâu, tạo sự hưng phấn cho học sinh tiếp thu và tự biết đánh giá.
3.2.1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin thiết kế nội dung phần cấu tạo súng AK.
1) Mục đích của biện pháp:
Qua hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh nắm được cấu tạo và tác dụng từng
bộ phận của súng tiểu liên AK.
2) Cách thực hiện:
- Khi giảng dạy bằng phương pháp thông thường buộc giáo viên phải tháo từng bộ
phận của súng để giới thiệu, trong đó có nhiều chi tiết của súng không thể tháo rời, hoặc các
chi tiết của bộ phận trên súng rất nhỏ khó khăn cho việc quan sát của học sinh nên sự nhận
biết thiếu rõ ràng và chưa tạo ra sự hứng thú cho học sinh học tập.

13


- Thiết kế nội dung trình chiếu powerpoint để giới thiệu 11 bộ phận chính của súng
AK vừa giới thiệu được các chi tiết của các bộ phận của súng, vừa giúp học sinh quan sát
được rõ các bộ phận.

1. Nòng súng:

2. Bộ phận ngắm.

14



3.Hộp khoá nòng và nắp hộp khoá nòng.

Lỗ chứa mấu nắp hộp khoá nòng

Cửa thoát vỏ đạn

4. Bệ khoá nòng và thoi đẩy

15

Sống tăng độ cứng


5. Khúa nũng.

6. B phn cũ.

Lũ xo bỳa

Bỳa

Tay cũ

Cn nh cỏch bn v khúa an
tonCần định cách bắn và

7. B phn y v.

16



8. Ống dẫn thoi và ốp lót tay.

9. Báng súng và tay cầm.

10. Hộp tiếp đạn.

17


11. Lê:

3.2.1.3. Ứng dụng CNTT cho phần lý thuyết cấu tạo đạn K56.
1) Mục đích của biện pháp:
Bằng hình ảnh trực quan giúp học sinh nắm được Đạn K56 cấu tạo gồm những bộ
phận nào, có bao nhiêu loại đầu đạn và nguyên lý chuyển động của viên đạn khi bắn.
2) Cách thực hiện:
- Nếu ở phương pháp giảng dạy truyền thống phấn trắng, bảng đen giáo viên cần có
tranh ảnh kỹ thuật về các loại đạn cắt bổ hoặc đạn cắt bổ để giới thiệu cấu tạo của đạn, song
phương pháp này có nhược điểm số lượng đạn cắt bổ ít, tranh kỹ thuật về đạn không có, mất
nhiều thời gian để vẽ tranh, quản lý sử dụng thiết bị chưa thuận tiện cho giảng dạy.
- Ứng dụng CNTT vẫn khai thác đầy đủ các thiết bị dạy học nêu trên, kết hợp với
hình ảnh mầu, hiệu ứng đa chiều, kết hợp âm thanh và dễ dàng tìm kiếm nhiều các tư liệu
giúp cho việc thiết kế bài dạy phong phú, đang dạng và hiệu quả, tạo sự hứng thú cho học
sinh.
- Ví dụ: Cấu tạo đạn K56 gồm: Vỏ đạn , Đầu đạn, hạt lửa , thuốc phóng
Đầu đạn
Vỏ đạn
Thuốc phóng


18


Hạt lửa
Đạn cháy

Đạn xuyên cháy

Đạn vạch đường

Đạn thường

Hơn thế nữa giáo viên còn có thể cho học sinh quan sát hình ảnh (phim) chuyển động
các thời kỳ cháy của viên đạn, để các em ý thức được rõ hơn từ quá trình hoạt động đó của
viên đạn dẫn đến chuyển động của súng khi bắn ở nội dung tiếp theo của bài học.

3.2.1.4. Ứng dụng CNTT khi giảng dạy phần chuyển động của súng khi bắn
1) Mục đích của biện pháp:
- Qua hình ảnh Flast giúp học sinh quan sát một cách chi tiết, cụ thể, sinh động quá
trình chuyển động của súng khi viên đạn được bắn ra. Từ đó giúp các em hiểu rõ hơn về quá
trình hoạt động của súng; mặt khác tạo sự hứng thú cho học sinh, phát huy tính tích cực tự
giác của học sinh khi trong học tập và rèn luyện.
2) Cách thức thực hiện:
- Giáo viên thiết kế bài giảng trên powerpoint, đưa bản plat các nguyên lý chuyển
động của súng khi bắn để học sinh quan sát, giáo viên chỉ cho học sinh nhận biết cách nạp
đạn vào buồng đạn, khi bóp có búa đập vào kim hỏa, kim hỏa chọc vào hạt lửa, …

19



Qua quan sát hình ảnh chuyển động của súng, giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu
nguyên lý chuyển động của súng khi bắn. Tôi tin rằng các em rất hứng thú trong học tập và
dễ dàng trả lời được câu hỏi của giáo viên đặt ra

3.2.1.5. Ứng dụng CNTT cho giảng dạy phần cách lắp và tháo đạn
1) Mục đích của biện pháp:
- Để học sinh nắm vững được phương pháp tháo đạn ra khỏi hộp tiếp đạn và lắp được
đạn vào súng, giúp các em khi học phần thực hành không bị bỡ ngỡ.
2) Cách thức thực hiện
Cho học sinh quan sát phim hoặc hình ảnh cách tháo hoặc lắp đạn để giúp các em
nắm được cách tháo và lắp đạn

3.2.1.6. Ứng dụng CNTT trong giảng dạy tiết “giới thiệu súng trường CKC”
1) Mục đích của biện pháp:
Giúp học sinh hiểu rõ về tác dụng, tính năng chiến đấu, cấu tạo và chuyển động khi
bắn của súng trường CKC
2) Cách thức thực hiện:
- Giống như ở tiết dạy “giới thiệu súng Tiểu liên AK” nếu giáo viên giảng theo
phương pháp truyền thống phấn trắng bảng đen giáo viên rất vất vả trong việc giới thiệu các
bộ phận của súng cũng như nguyên lý chuyển động của súng khi bắn,…
- Còn khi ứng dụng CNTT: Giáo viên hoàn toàn có thể sưu tầm các loại súng trên trên
mạng Interrnet, sau khi giới thiếu tác dụng tính năng, cấu tạo của các loại súng, giáo viên có

20


thể cho học sinh xem các hình ảnh, các đoạn video clip về chuyển động của súng khi bắn.
Như vậy học sinh sẽ dễ tiếp thu bài học hơn và hơn hết là tránh được việc nhàm chán, tạo
được hứng thú trong học tập.
- Ví dụ

+ Thứ nhất: Khi giới thiệu về súng trường CKC, ta sử dụng một số hình ảnh:

-

+ Thứ hai: Khi giới thiệu cấu tạo của súng trường CKC,
Khi giới thiệu cấu tạo của súng trường CKC, ta cho học sinh quan sát bằng hình ảnh
tất cả các bộ phận của súng và hình ảnh tách rời các bộ phận của súng.

21


Cấu tạo bộ phận ngắm

cấu tạo bộ phận cò

Cấu tạo của khóa nòng

22


Từ đó giáo viên có thể yêu cầu học sinh so sánh sự khác biệt giữa cấu tạo của súng trường
CKC so với súng tiểu liên AK
+ Thứ ba: Đối với nội dung chuyển động của súng khi bắn, giáo viên có thể cho học
sinh quan sát bằng hình ảnh Flast chuyển động của súng khi bắn.
+ Thứ tư: Đối với nội dung tháo lắp đạn, giáo viên cho học sinh xem đoạn phim hoặc
hình ảnh cách tháo và lắp đạn

3.2.2. Ứng dụng CNTT cho bài giảng “ Kỹ thuật bắn súng Tiểu liên AK và súng trường
CKC”
1) Mục đích của biện pháp:

Để học sinh tiếp thu nội dung bài học một cách nhanh nhất, giúp các em khi ra thao
trường luyện tập biết lấy được đường ngắm cơ bản, đường ngắm đúng, điểm ngắm đúng một
cách nhanh và chính xác; đồng thời cho các em thấy được ảnh hưởng của việc ngắm sai đến
kết quả bắn. Mặt khác, giúp phát huy tính tích cực tự giác, tìm tòi, tạo sự hứng thú cho học
sinh khi học tập và rèn luyện
2) Cách thức thực hiện:
- Khi chúng ta sử dụng giáo án điện tử khi lên lớp phần lý thuyết bài “ kỹ thuật bắn
súng tiểu liên AK và súng trường CKC” thì ngoài việc học sinh được nghe giảng thì các em
còn được quan sát các hình ảnh chuyển động và âm thanh để mô tả cho các định nghĩa hoặc

23


vấn đề đang được đề cập tới. Chẳng hạn khi giới thiệu khái niệm ngắm bắn, giáo viên ngoài
việc trình bày và giải thích để làm rõ khái niệm thì sẽ cho học sinh quan sát sơ đồ đường đạn
bay trong không gian để các em xác định được góc bắn.

Nếu nhìn vào hình vẽ học sinh có thể nhận ra ngay góc “A” là góc bắn nó hợp bởi
đường trục nòng súng và mặt phẳng ngang; Ngoài ra qua hình vẽ học sinh cũng có thể nhận
thấy (hiểu thêm) viên đạn được bắn ra khỏi nòng súng sẽ đi theo đường cầu vồng chứ không
phải đường thẳng như nhiều em vẫn lầm tưởng.
- Hay khi giáo viên giảng định nghĩa về đường ngắm cơ bản nếu theo phương pháp
truyền thống thì giáo viên giảng bài và yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh tĩnh trong SGK,
rồi giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi thế nào là đường ngắm cơ bản hoặc giáo viên
sẽ đưa ra kết luận cho định nghĩa như sau: “ Đường ngắm cơ bản là đường thẳng từ mắt
người ngắm qua chính giữa mép trên khe ngắm đến điểm chính giữa mép trên đầu ngắm.
Với cách giảng bài như vậy học sinh rất khó hiểu kỹ được định nghĩa mà giáo viên
vừa nêu ra. Nhưng nếu áp dụng giáo án điện tử với hình ảnh và chuyển động của đường
ngắm đi từ đâu đến đâu giúp các em sẽ hiểu được thế nào là đường ngắm cơ bản nhanh hơn.


Khi áp dụng các phần mềm điện tử vào giảng định nghĩa ngắm bắn thì giáo viên chỉ
cần cho hiện lên biểu tượng mắt người ngắm, chính giữa mép trên khe ngắm, đầu ngắm và
cho hiệu ứng chạy từ mắt người ngắm đến chính giữa mép trên khe ngắm, đến chính giữa
đỉnh đầu ngắm rồi mời học sinh nhìn vào hình ảnh và phát biểu định nghĩa đường ngắm cơ
bản. Chắc chắn không cần nhìn vào sách giáo khoa chỉ cần nhìn vào hình vẽ các em cũng
trình bày, chính xác, hoàn chỉnh định nghĩa.

24


- Với định nghĩa điểm ngắm đúng

Nhìn vào hình ảnh giáo viên sẽ chỉ cho các em biết được đâu là bia số 4A với bia này
ở cự ly 100m có mấy điểm ngắm đúng là những điểm nào, tại sao? Nhìn vào đó các em hiểu
ngay. Nếu giảng bài như vậy các em sẽ ý thức được đâu là điểm ngắm đúng vì sao phải
ngắm vào vị trí đó khi bắn sẽ đạt kết quả cao. Phần mềm điện tử giúp cho giáo viên soạn
giảng có thể cho hình ảnh và chuyển động của viên đạn khi ra khỏi nòng súng và trúng mục

25


×