Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.73 KB, 6 trang )

MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
NÓI THẬT NHÉ,
“NGÁN ĐẾN TẬN CỔ”

Phóng viên : - Thưa anh Vương Trí Nhàn, vừa qua trên Văn nghệ
Trẻ, thầy giáo dạy văn Vũ Xuân Túc khi đề cập đến môn văn bây giờ ở
phổ thông đã nói đây là "nỗi khiếp sợ", là "sự nhàm chán" đối với học
sinh. Với tư cách một phụ huynh, anh nghĩ thế nào về chuyện dạy văn,
học văn trong nhà trường phổ thông?

VƯƠNG TRÍ NHÀN (VTN): - Lâu nay, với chuyện này, tôi cũng có
nhiều điều bức xúc. Bản thân tôi có đứa con út, vừa tốt nghiệp Trung học cơ
sở. Cháu học Toán khá hơn Văn. Tôi lúc đầu do chán văn nhà trường lắm,
nên cũng … mặc kệ. Về sau, lo chuyện thi cử, đành cắn răng khuyên con
học. Tôi bảo, thôi phận làm trò, người ta có bắt nuốt sỏi nuốt đá cũng phải
nuốt. Lần thi vào cấp 3 vừa rồi, điểm môn Toán cháu được 8.75, Văn được
6.5, trong hoàn cảnh đa số bạn bè trong lớp được 7, 8, vậy mà đã mừng lắm
rồi, và thấy không oan uổng gì. Với mọi người trong gia đình và cơ quan, tôi
thường dùng mấy chữ “ngán đến tận cổ" để chỉ cái khoản văn chương vốn
có dính dáng đến cả cuộc đời bản thân. Vì nó hoàn toàn mất đi cái hào
quang, sự lôi cuốn sự thiêng liêng mà bọn tôi tìm thấy hồi trẻ.

Thú thực là lâu nay bạn bè đồng nghiệp cơ quan hễ nghe ai đó giới thiệu
có con giỏi Văn là tôi lảng ngay, không muốn nói chuyện thêm nữa. Tôi nhớ
những bài văn mẫu mà học trò phải mua để học. Giời ạ, văn chương gì mà
như vậy?! Lảm nhảm, sáo rỗng, giả dối - xin lỗi nếu ai cảm thấy đã bị xúc
phạm, nhưng quả thật tôi đã nghĩ thế. Chắc cậu hay cô học trò con bạn tôi
cũng là “ tác giả” của những trang viết tương tự. Vậy còn biết nói chuyện gì
với các cháu nữa!

PV: - Xin anh nói rõ hơn: trước khi đi thi, cháu nhà anh học văn


như thế nào?

VTN: - Học kỳ II, con tôi cùng lúc học bốn thầy cô dạy văn. Tại sao học
nhiều như thế? Bởi qua theo dõi bài vở của cháu chính tôi cũng hoang mang
không dám chắc là như thế nào thì đạt yêu cầu.
Tôi không trách các thầy cô. Cái chính là họ dạy theo hướng dẫn trên Bộ
trên Sở. Các hướng dẫn này, nhiều chỗ như là đánh đố nhau, lại mù mờ tùy
tiện mỗi người có thể hiểu một khác. Sau này đáp án cho bài thi lại còn khác
nữa. Thành ra học sinh đi thi mất điểm như chơi!

Cái đáng sợ trước tiên, với học sinh và - nếu tôi không nhầm - cả các
thầy giáo cô giáo, là các bài giảng văn. Bài văn được chọn nhiều khi không
ra văn chương, nội dung cổ lỗ giả tạo, xa lạ với đời sống hiện thời. Cách
khai thác của nhà trường lại tô đậm thêm sự khó chịu một lần nữa. Tôi phải
bảo con: để sự yêu thích hay chán ngán sang một bên, hãy chỉ lo học lấy
những gì mà chương trình bắt phải học. Từ các bài giảng tôi giúp cháu đúc
kết lại, tổng hợp lại, cố gắng “chế” ra một văn bản tương đối hợp lý, khô
khan không có xúc động cũng được. Bao giờ tôi cũng chỉ hy vọng cháu được
trên điểm trung bình chứ không dám mơ khá với giỏi.

Chỉ có một việc trong khi giúp cháu, tôi thấy một chút hứng thú, đó là
trình bày văn bản. Tuy muộn, nhưng tôi cố gắng giúp con viết thành câu,
diễn đạt được ý. Tôi thấy ở trường người ta không dạy được cho trẻ con yêu
tiếng Việt, viết và nói chính xác, trình bày ý tưởng của mình một cách sáng
rõ mạch lạc. Mà theo tôi, lẽ ra đó là yêu cầu cơ bản.

PV: - Thưa anh, có lẽ trẻ em các nước người ta được quan tâm dạy
tiếng mẹ đẻ hơn?

VTN: - Trong một chuyến sang Trung Quốc, tôi có tìm mua được một

cuốn "Sổ tay tri thức cơ bản Ngữ văn bậc cao - trung" của bạn. Sách gồm
những kiến thức cơ bản mà mỗi học sinh cao trung, tương đương với học
sinh Trung học phổ thông của ta, cần nắm vững. Để ý thì thấy cuốn "sổ tay"
này trước tiên dành đến 300 trang cho phần ngôn ngữ, hơn 328 trang về sau
mới đi vào kiến thức văn học.

PV: - Vậy là 50/50?

VTN: - Vâng, Ngữ và Văn là cân bằng về mặt khối lượng. Tìm hiểu nội
dung sách, thì thấy người ta không chỉ dạy ngữ pháp. Một phần đáng kể là
vốn ngôn ngữ. Đó là những câu danh ngôn lấy ra từ các văn bản cổ điển,
những câu phương ngôn tục ngữ, những điển tích... mà người Trung quốc
thường vận dụng trong đời sống hàng ngày. Tất cả được họ kê ra đầy đủ, học
sinh bắt buộc phải biết, phải thuộc. Trong khi đó, ở ta, môn Tiếng Việt dạy ở
phổ thông quá tệ. Nó không xác định được cái vốn ngôn ngữ thực sự mà tối
thiểu ai cũng phải biết. Hình như học sinh cái gì cũng biết mà lại chả biết cái
gì đến đầu đến đũa. Ngay phần ngữ pháp cũng không ổn, sau khi học xong
các em viết câu sai, không nắm được các từ loại... Nhân đây tôi muốn nêu
một nhận xét nhỏ: Một trong những lý do khiến nhiều người chúng ta - kể
cả thầy và trò trong trường - không nắm vững tiếng Việt và khó đi sâu vào
tiếng Việt là vì chúng ta ít biết ngoại ngữ.

PV: - Chắc không phải, thưa anh. Thời trước, cách đây chừng ba
chục năm có mấy ai được học ngoại ngữ cho ra học đâu mà tiếng Việt
lại ổn hơn bây giờ?

VTN: - Xin phép cho tôi được giữ ý kiến này của mình. Cái ổn ngày xưa
mà anh nói có gì đó không chắc chắn, và nó chỉ hợp với sự phát triển chậm
chạp của xã hội thời trước, sang thời nay thì lộ rõ sự thiếu sót. Cũng tương
tự như một hiện tượng trong kiến trúc dân sự. Ngày trước làng xóm ta và cả

một số phố xá nhiều nơi toàn nhà lá hoặc nhà cấp 4... Nhưng đường làng
ngõ xóm lúc ấy vẫn mạch lạc, vẫn có hàng có lối. Bây giờ những cái nhà lá
ấy - sau khi được chêm vào, được cơi nới thêm rồi tôn lên thành bê tông
gạch đá - thì vẫn không ra nhà cao cửa rộng, mà chỉ phô ra vẻ ngổn ngang
chắp vá. Ngôn ngữ bây giờ cũng vậy. Việc nắm vững nó đòi hỏi một cái vốn
cơ bản hơn sâu sắc hơn cả về thực tế lẫn lý luận. Trong khi đó ta không có
thì giờ lo liệu. Việc nghiên cứu tiếng Việt quá sơ đẳng, hàng chục năm qua
vẫn không tiến triển được bao nhiêu. Cái tình hình chung này khiến cho học
sinh khổ trước tiên.
Một nhận xét nữa có liên quan đến cả tình hình ngôn ngữ cả trong nhà
trường lẫn ngoài xã hội là hiện tượng pha tạp học đòi tiếng nước ngoài kể cả
tiếng Anh lẫn chữ Hán. Nhưng đây là chuyện khá dài, tôi muốn ta bàn vào
một dịp khác.

PV: - Về Ngữ thì nói chung là như thế, còn về Văn thì sao, thưa anh?

VTN: - Để tôi nói tiếp chuyện học văn ở cuốn sách Trung quốc mà tôi
đọc được. Họ quan niệm là có một loại kiến thức văn chương mà người học
đến bậc ấy nhất thiết phải biết. Như họ có thống kê là thời trung đại, đâu là
những tác phẩm tiêu biểu cho một nước, tác phẩm đó của ai, có những nhân
vật tên là gì. Thời đương đại cũng tương tự. Rồi họ khuyến khích học sinh
về nhà tìm đọc nếu có thể. Ở ta thì hình như kiến thức văn học loại này
không đặt ra, hoặc yêu cầu quá đơn giản. nhà trường chỉ lo dạy trò cảm thụ
một số bài chán ngắt với lại làm ra thứ văn rất sáo.

PV: - Nếu cần khái quát về phần dạy văn này anh nói sao ?

VTN: - Ta quá dàn trải. Chương trình tãi ra rất nhiều vấn đề. Bắt học
sinh làm biết bao đề văn lẩm cẩm. Bảo là để giúp cho học sinh hiểu cách đọc
văn thì không phải, mà là bắt học sinh học thuộc một số bài văn mẫu. Chính

ra cần thiết học cái khác theo cách khác .
Một người quen của tôi có con học trường tiếng Anh ở Thái Lan. Tôi
hỏi: cháu học bên ấy, phần tập làm văn thì làm thế nào? Anh bạn kể một
năm học chỉ làm 5 hoặc 7 bài tập làm văn, mỗi bài làm trong thời gian cả
tháng. Thầy giáo ra đề, học sinh làm dàn bài, thầy chữa dàn bài, học sinh
viết và thầy lại chữa. Học sinh không phải làm theo khuôn giống nhau. Thầy
hướng dẫn học sinh diễn đạt cho đúng, cho hay cái ý của học sinh chứ không
phải là ý của thầy. Họ thì thế, còn ta thì sao? Một đời đi học trẻ con Việt
Nam làm không biết bao nhiêu bài tập làm văn, nhưng chẳng bài nào ra bài
nào.

PV: - Thầy cô dạy văn bây giờ không có điều kiện chữa bài cho trò,
chỉ chấm và ghi nhận xét chung chung thôi... Quay trở lại phần giảng
văn , anh nghĩ sao?

VTN: - Cũng nhiều vấn đề cần xem xét lại. Học sinh phải học bao nhiêu
là tác giả, tác phẩm, nhưng một ít bài học thật kĩ thì không có. Người ta
không giúp học trò hiểu về văn học mà chỉ bắt chúng nhồi vào đầu những
cách hiểu cụ thể về tác giả, tác phẩm mà người ta coi là mẫu mực. Sau này
thi cử, người ta chủ yếu chỉ kiểm tra cái đó mà không kiểm tra năng lực đọc,
viết, cảm thụ của học sinh. Cảm thụ văn học theo những cái có sẵn, theo
hướng có sẵn, - tôi gọi nhồi sọ là như vậy. Đó là thiếu sót. Chưa kể nhiều bài
văn rất kém về chất lượng mà vẫn đưa vào chương trình phổ thông.

PV: - Ý anh là có những tác phẩm chưa thực sự hay cũng được đưa
vào chương trình dạy văn?

VTN: - Vâng, tỷ lệ số bài tầm thường, xoàng xĩnh quá cao. Tôi biết lỗi
đầu tiên là các nhà văn nhà thơ đương thời, họ chỉ biết làm ra thứ văn
chương lẩm cẩm đó. Nhưng các nhà soạn sách phải biết cách từ chối chứ,

sao lại sợ bóng sợ vía những chức danh hão huyền của nhà văn, rồi vơ bèo
vạt tép, cái gì cũng lôi vào làm khổ thế hệ trẻ. Với tất cả sự tỉnh táo cần thiết
và tinh thần trách nhiệm của một người trên bốn chục năm sống bằng nghề
viết văn, tôi muốn nói thẳng là nhiều bài văn học sinh trung học cơ sở phải
học phải thi hiện nay thuộc loại bất thành nhân dạng, ngay cả kết cấu cũng
rất kém. Đã có lần tôi nghĩ mình mà là tác giả những bài văn này thì mình sẽ
đề nghị những người soạn sách tha cho đừng bắt các em phải học vì chúng
có hại cho mỹ cảm và sự yêu văn chương chân chính. Nhưng giá kể tôi bảo
thế, người ta sẽ nghĩ tôi điên ....

PV: - Tác phẩm được chọn đã có vẫn đề như vậy, còn phần bình
giảng, phân tích của các thầy - cái mà học trò phải học thuộc để đi thi
trả lời cho đúng - anh đánh giá như thế nào?

VTN: - Gần đây dạy chương trình phổ thông là đua nhau dạy theo kiểu
bài văn này cần khai thác mấy ý? Mỗi ý này có bao nhiêu ý nhỏ? Phải diễn
tả được cái gì?
Bài chọn không phải là bài hay nhất, những ý kiến bình giảng không
phải là cái tốt nhất. Mục đích cuối cùng không phải từ bài đó để hiểu bài
khác mà lại chốt lại trong chính bài đó thôi, coi đấy là chân trời của học trò
rồi. Và bắt người ta nghĩ giống một kiểu - đó là một cách làm ăn rất phản sư
phạm.

.PV: - Và không có đất cho sự sáng tạo?

VTN: - Sáng tạo làm sao trong cái khung chật hẹp và cứng nhắc của
những cái mẫu cổ lỗ ấy. Nó đánh mất ở người ta những xúc động hồn nhiên
tươi tắn .



PV: - Một câu hỏi muôn thuở : Tại sao lại xảy ra nông nỗi đó ?
Chuyện dạy văn, học văn nó thế là bởi vì đâu?

VTN: - Tại trình độ của khoa nghiên cứu văn học nói chung, đội ngũ
phụ trách giảng dạy văn nói riêng. Bắt đầu từ việc quan niệm về môn học,
rồi thì chuyện soạn sách giáo khoa, đáng lẽ lĩnh vực nào cũng phải có nhiều
chuyên gia khác nhau, ở ta hàng chục năm vẫn quanh quẩn mấy người ấy,
khi một số người già về hưu thì ấn học trò vào thay xí chỗ, người sau bao
giờ cũng thua người trước.

PV: - Chắc anh cho rằng chương trình và sách giáo khoa, việc đào
tạo ở các khoa văn sư phạm chính là yếu tố chủ đạo tác động tới việc
dạy và học văn ở trường phổ thông?

VTN: - Đúng thế. Và tôi muốn nói rằng bộ phận này ở ta đang trì trệ.
Tôi có cảm tưởng các thầy soạn sách giáo khoa môn Văn thời nay quá tự tin,

×