Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tư Tưởng HCMvận dụng tư tưởng HCM về thực hiện dân chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.25 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
…. ….

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN
DÂN CHỦ TRONG SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GVHD: THÁI NGỌC TĂNG
Sáng thứ năm, tiết 9-10

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. Đào Thị Mỹ Tiên
2. Nguyễn Thị An
3. Trần Thị Quỳnh Mai
4. Trần Thị Kỳ Duyên
5. Nguyễn Thị Thanh Kim Ngân
Tp HCM, tháng 5 năm 2016

15124147
15124066
15124110
15109074
15124113


Giáo viên hướng dẫn: Thái Ngọc Tăng
Lớp: Chiều thứ năm, tiết 9-10


ĐIỂM

Nhận xét của giảng viên:.................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Giảng viên kí tên

GVHD: Thái Ngọc Tăng

2


MỤC LỤC
A.

LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................ 4

1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................. 4
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................4
5. Bố cục của bài tiểu luận.......................................................................................................4

B.

PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ.........................................5

1.1 Dân chủ là gì?......................................................................................................................5
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.............................................................................5
1.3 Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội...................................................................6
1.4 Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục............................................................6

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH..........................................................................11
2.1 Nội dung cơ bản của việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường...............11
2.2 Nguyên tắc thực hiện dân chủ trong nhà trường.............................................................12
2.3 Thực hiện quy chế dân chủ trong sinh viên của trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật
TP.Hồ Chí Minh...................................................................................................................12
2.3.1 Mục đích cả việc thực hiện dân chủ trong nhà trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật. . .12
2.3.2 Thực trạng thực hiện dân chủ của sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật.......13
2.3.2.1 Biểu hiện tích cực.....................................................................................................13
2.3.2.2 Biểu hiện tiêu cực.....................................................................................................13
2.4 Nguyên nhân của thực trạng trên....................................................................................14
2.5 Các biện pháp nhằm phát huy dân chủ trong sinh viên.................................................14
C.

PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................................16
PHỤ LỤC..........................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo................................................................................................................17

GVHD: Thái Ngọc Tăng


3


A. LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”- vì thế dân chủ trong giáo dục là vô cùng quan trọng.
Và bản thân là một sinh viên em thấy việc tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn
đề liên quan là rất bổ ích. Với mong muốn được tìm hiểu, chia sẻ và học hỏi thêm nhiều điều
mới về tư tưởng Hồ Chí Minh nên nhóm em đã nghiên cứu đề tài: “ Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về việc tực hiện dân chủ trong sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí
Minh”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục từ đó tìm ra những giải pháp để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng
cao hiệu quả việc thực hành dân chủ trong nhà trường đại học trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau:
+ Làm rõ khái niệm dân chủ, dân chủ trong giáo dục.
+ Làm rõ một số nội dung tư tưởng dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Bài tiểu luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục.
+ Sự vận dụng tư tưởng của Người trong thực hành dân chủ ở các trường đại học hiện
nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Tập trung nghiên cứu tư tưởng dân chủ và dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh.
+ Đề tài tiến hành xem xét việc thực hiện dân chủ trong giáo dục tại trường đại học Sư
phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac – Lenin
và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Áp dụng kiến thức

từ các phép biện chứng của triết học để phân tích thực tế. Cũng như vận dụng sự hiểu biết cá
nhân và tham khảo các tài liệu như giáo trình, sách, báo có liên quan, nguồn mạng…
5. Bố cục của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
bài tiểu luận được kết cấu thành 2 chương:
GVHD: Thái Ngọc Tăng

4




Chương 1: Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.



Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong sinh viên
trường đại học Sư phạm Kỹ thuật.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Dân chủ là gì?

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong học thuyết chính trị, dân chủ dùng để mô tả cho
một số ít hình thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính trị. Mặc dù chưa có một
định nghĩa thống nhất về dân chủ, có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào
cũng đưa vào.
Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp
cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên (công dân) đều được

hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi.
Theo định nghĩa trong từ điển, Dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân
trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi
các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo Abrham Lincoln, dân chủ là
một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ

- Khái niệm dân chủ của Hồ Chí Minh là “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”.
+ “Dân là chủ” là muốn nói đến vị thế, quyền lực của dân trong bộ máy nhà nước; vai
trò của nhân dân trong sự phát triển xã hội. Dân phải ở địa vị cao nhất của đất nước. Người
nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
+ “Dân làm chủ” là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của nhân dân. “Chế độ ta là chế
độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”.
+ Tuy Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nhưng phải luôn lấy dân làm gốc. Nghĩa là
Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhưng phải luôn để cho dân làm chủ và dân là chủ.
Hai vế của mệnh đề “ dân là chủ và dân làm chủ” luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí,
vai trò, quyền và trách nhiệm của nhân dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất quan niệm dân chủ
chung trên thế giới được hình thành từ xa xưa: quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân
dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. Cụ
thể:


Ngay khi đất nước còn đang chìm trong đêm trường nô lệ, tại nước Pháp Người đã nhận
thức được những quyền lợi căn bản mà một con người, một công dân trong xã hội phải có, vì
đó là “những quyền không ai có thể xâm phạm được” (Tuyên ngôn độc lập).
GVHD: Thái Ngọc Tăng

5





Tại đại hội Tours năm 1920 của đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu như sau:
“Người Việt Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người châu Âu
hoặc có quốc tịch châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận,
ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có”.



Khi các nước thắng trận như Mỹ, Anh, Pháp họp ở Versailles ngày 18 tháng 1 năm 1919,
nhiều đoàn đại biểu các nước bị áp bức đã đến hội nghị này để đưa nguyện vọng của mình.
Nguyễn Ái Quốc đã nhân danh “một nhóm người Việt Nam yêu nước” ở Pháp đã gửi bản
“Những yêu sách của nhân dân Việt Nam” cho nghị viện Pháp và tất cả những đoàn đại biểu
ở hội nghị này. Bản yêu sách đã thể hiện tư tưởng người sáng của cụ Hồ, thể hiện sự tiếp
nhận sâu sắc tư tưởng nhân quyền, dân quyền của cụ Phan Châu Trinh. Tư tưởng này đã
khởi đầu cho nhận thức về một đất nước Việt Nam trong đó quyền tự do của người dân được
bảo đảm, một thể chế dân chủ, pháp trị chứ không phải hoạt động dựa trên “chỉ thị” hay “sắc
lệnh” của một nhóm người cai trị nào.



Ngay trong bài viết “Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”
năm 1952, cụ Hồ đã viết “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần
chúng”. Để làm được như vậy thì ý dân cần phải được thể hiện qua báo chí tự do và bầu cử
công bằng.
- Người quan niệm Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân: Dân chủ là khát vọng
ngàn đời của con người. Nhân dân ta hàng ngàn năm nay sống dưới chế độ phong kiến và
gần một trăm năm dưới chế độ thực dân đều không biết đến dân chủ, tự do.


1.3 Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

- Dân chủ trong xã hội Việt Nam thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội..., trong đó dân chủ thể hiện trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất và được
biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước do nhân dân thành lập, ủng hộ, xây dựng.
- Điểm cốt lõi của dân chủ trong chính trị là chế độ uỷ quyền của dân thong qua bầu cử,
bằng phương thức dân chủ đại diện, bầu ra Chính phủ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Khi
Chính phủ đó ra đời, nhiệm vụ chủ yếu cấp bách là phải thực hiện dân chủ và quyền làm chủ
của nhân dân. Đó là mục đích căn bản sâu xa của dân chủ trong chính trị.
- Điểm cốt lõi của dân chủ trong kinh tế là vấn đề lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, Chính
phủ là đầy tớ của nhân dân thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân
dân với tinh thần “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
- Dân chủ còn thể hiện ở phương thức tổ chức xã hội, ở đó người dân, cả trực tiếp lẫn
gián tiếp qua dân chủ đại diện đều được tham chính. Thực hiện dân chủ trong xã hội đòi hỏi
phải đảm bảo công bằng trong phân phối lợi ích và công bằng trong cơ hội phát triển, đảm
bảo bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
- Hồ Chí Minh không chỉ coi dân chủ có ý nghĩa là một giá trị chung, là sản phẩm của
văn minh nhân loại mà xem nó là lý tưởng phấn đấu của các dân tộc; nó không dừng lại với
tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ
quốc tế. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong mọi
quan hệ quốc tế.
GVHD: Thái Ngọc Tăng

6


1.4 Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục

Năm 1962 của một nhà văn châu Á nổi tiếng đã từng viết: “Chúng ta có thể cùng
nhau bàn luận và cũng không dễ thống nhất để tìm xem trên đời này, ai là người vĩ đại nhất,

ai là người danh tiếng nhất, ai là người tài giỏi nhất, ai là người uyên bác nhất... Nhưng Hồ
Chí Minh dứt khoát là người hoàn toàn nhất, con người giàu chất người nhất trên thế giới
này”. Con người “giàu chất người nhất trên thế giới này”, “hoàn toàn nhất” này chính là con
người có tầm mắt đại bàng của tư duy (theo cách nói của Heghen - nhà triết học duy tâm
khách quan cổ điển Đức). Có được tầm mắt thiên tài chính là vì nhịp đập của trái tim Hồ Chí
Minh gắn liền với vận mệnh đất nước và nỗi niềm của nhân dân.
Một trong những nhận thức thể hiện tầm mắt đại bàng của tư duy là Người đã sớm
nhìn thấy bản chất thật sự của nền giáo dục thực dân, chỉ rõ bộ mặt thật của cái gọi là “khai
hoá văn minh” của thực dân Pháp: những người đến trường được “đào tạo nên những kẻ làm
tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp”, những người không đến trường thì bị
đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện; tố cáo đanh thép nền
giáo dục thực dân trong việc “làm cho dân ngu để trị”, gieo rắc một nền giáo dục đồi bại,
xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Đồng thời dày công tìm kiếm, phát hiện và giới
thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động.
Đó là nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả.
Trong nền giáo dục ấy, việc phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn
là tiền đề cần thiết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con
người; là nền giáo dục mà theo Người “dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của
Nhà nước”. Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh
viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân, số 5299, ngày 16/10/1968, Hồ Chí Minh
viết: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ
nghĩa”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp giáo dục
nói riêng của đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Với quan niệm dân chủ là của quý
báo nhất của nhân dân và thực hành dân chủ là chìa khóa để giải quyết mọi khó khăn, trong
sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở
nước ta, hơn bao giờ hết tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở
nhà trường càng có ý nghĩa thiết thực và mang tính thời sự sâu sắc, vì rằng chỉ có thực hiện

và phát huy được dân chủ trong nhà trường mới đảm bảo là cơ sở, nền tảng vững chắc cho
việc khơi thông mọi tiềm năng về trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi con người Việt Nam, nhất là
tầng lớp sinh viên, học sinh để đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa
“chuyên”, vừa “hiền” vừa “minh”, có tri thức khoa học kỹ thuật- tự nhiên - xã hội, có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức, sức khoẻ,...
Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo dục đã
được khởi xướng ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến Hội
GVHD: Thái Ngọc Tăng

7


nghị Véc-xây là: “tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các
tỉnh cho người bản xứ”. Đây là quyền tự do của mọi người được hưởng sự giáo dục không
hạn chế, được làm chủ kho tàng tri thức của nhân loại. Trong điều kiện lúc bấy giờ, đó là
quyền được tự do học tập, quyền phát triển các loại trường ngoài hệ thống trường công của
thực dân Pháp, được mở những loại trường như Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội, như
trường Dục Thanh ở Phan Thiết, nơi Hồ Chí Minh đã từng dạy học - là nhằm đào tạo những
nhân tài cho đất nước, góp phần mở mang, nâng cao dân trí, chiến thắng nghèo nàn và lạc
hậu.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh đều đặc biệt quan tâm đến
giáo dục nói chung và việc phát huy dân chủ trong giáo dục ở nhà trường nói riêng để đào
tạo ra nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ đất nước. Người là chiến sỹ tiên phong đi vào phong
trào quần chúng, thức tĩnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện, đưa nhân dân ra đấu
tranh giành tự do độc lập; giải phóng nhân dân thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân
phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân
tộc và mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn hóa, làm chủ vận mệnh và tương lai của
mình trong nền giáo dục mới mà Người đã dày công vun đắp.
Trong nền giáo dục kiểu mới ấy, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xem “giáo dục là sự nghiệp

của quần chúng”. Một trong những mục tiêu cao nhất của nền giáo dục mới, nền giáo dục
cách mạng Việt Nam là “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt
Nam... làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”, trang bị cho mỗi người
dân có kiến thức mới để biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời
sống tươi vui hạnh phúc. Để làm được điều đó, Người yêu cầu phải phát huy đầy đủ dân chủ
xã hội chủ nghĩa vì theo Người, chỉ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả sinh viên, học sinh đề ra sáng kiến. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, các ngành các
cấp, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác giáo dục, tạo
điều kiện giúp đỡ các trường về mọi mặt, riêng nhà trường “phải thật sự mở rộng dân chủ
trong cơ quan”, phải phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục, tạo nên sự đoàn kết nhất trí
giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát triển giáo dục, đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục của ta lên những bước phát triển mới. Trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng
ngành Giáo dục (từ ngày 3 đến 8/6/1957, tại Hà Nội), Hồ Chí Minh nói: “giáo dục trong nhà
trường dù có tốt mấy nhưng thiếu Giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không thu được hoàn toàn”.
Trong khuôn khổ giáo dục ở nhà trường, việc thực hành dân chủ là một đòi hỏi hết sức
bức thiết, theo đó, Người yêu cầu những người làm công tác quản lý giáo dục phải nhận thức
đúng tầm quan trọng của dân chủ trong giáo dục, xác định giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; chủ trương của Nhà trường phải cụ thể, thiết
thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính sách của Nhà nước với tình hình
thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương.

GVHD: Thái Ngọc Tăng

8


Để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường phát huy được hiệu quả, theo
Hồ Chí Minh yếu tố cần thiết đầu tiên là phải đào tạo và xây dựng đội ngũ những người làm
công tác giáo dục, đặc biệt là các cô giáo, thầy giáo - những người vẻ vang nhất, những anh

hùng vô danh, người kỹ sư tâm hồn, vì theo Người, “không có thầy giáo thì không có giáo
dục”. Để xứng đáng với danh hiệu ấy, Người cho rằng “mỗi người thầy giáo phải không
ngừng học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà
giáo, thực sự vừa “hồng” vừa “chuyên”, phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiện
vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải
mình trước. Phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo con em, cải tạo xã hội”, phải thật
sự yêu nghề, yêu trường. Quán triệt quan điểm của Mác - Lênin: “bản thân nhà giáo dục
cũng cần phải được giáo dục”, Hồ Chí Minh cho rằng: “người huấn luyện phải học tập mãi
thì mới làm tốt được công việc của mình - người huấn luyện nào tự cho mình là biết đủ cả
rồi thì người đó là dốt nhất”. Ngoài việc nhắc nhở về học tập chuyên môn, Người cũng lưu ý
một vấn đề hết sức quan trọng đó là học tập chính trị, vì có học tập lý luận Mác - Lênin thì
mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết về trình
độ chính trị mới làm nòng cốt công tác Đảng giao phó. Mặt khác, Người cho rằng bản thân
người thầy cũng phải học tập chính từ thực tiễn sinh động. Người nhắc lại câu “giáo bất
nhiêm, sư chi toạ”, tức là dạy không nghiêm túc, không đến nơi đến chốn là do thầy lười
nhác. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của hoạt động giảng dạy bản thân mỗi người thầy giáo
phải không ngừng rèn luyện trong thực tiễn sinh động của xã hội, tiếp thu lấy chất lượng
sống ở đó mà truyền lại cho thế hệ trẻ:“thầy giáo và học trò, tuỳ hoàn cảnh và khả năng cần
tham gia vào những công tác xã hội ích nước lợi dân, Những kiến thức thực tiễn đó mới thật
là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng thế hệ đang lớn lên”.
Mặt khác, để nâng cao trình độ nhận thức của người học, Hồ Chí Minh cho rằng thầy
cô giáo phải có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ, áp đặt và cần tạo môi trường,
điều kiện để người dạy và người học có sự đối thoại, trao đổi trong quá trình giảng dạy, học
tập. Người chỉ rõ chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào?
Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý, được
hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy, và nhấn mạnh “trong
trường, cần có dân chủ”. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến
gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” và khi mọi
người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự
do phục tùng chân lý. Một cách cụ thể hơn, Hồ Chí Minh kêu gọi giảng viên phải biết tôn

trọng ý kiến của đồng nghiệp, của sinh viên, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái
với ý kiến của mình, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng, phải ra sức
tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối
nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Trong mối tương quan giữa người dạy và người học, xét ở góc độ tác động của người
dạy đến người học, thì một giảng viên giỏi là một giảng viên biết hướng dẫn sinh viên đi tìm
chân lý vì vốn dĩ theo Hồ Chí Minh, “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy
tính chất sáng tạo”. Để làm được điều này, điều cần thiết là phải thật sự tạo ra được một môi
trường học tập thật dân chủ, trong môi trường này thầy và trò cùng nhau thảo luận, đối thoại,
GVHD: Thái Ngọc Tăng

9


ở đó không khí thoải mái, hăng hái sẽ được tạo ra, sinh viên có nhiều cơ hội để thể hiện, phát
huy năng lực của mình và đích đến của nó là sự sáng tạo như lời Người đã nói: “dân chủ,
sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau”. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và
quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng
thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái
làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều. Từ đó, Người yêu
cầu: giảng viên cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng sinh viên, bày cho họ
suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi, đề nghị,...Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ
phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng
hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm.
Tuy nhiên, để dân chủ trong giáo dục ở nhà trường được hoàn chỉnh, Hồ Chí Minh yêu
cầu dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng
đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công khai, khách quan, phản
ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, không được nói gàn, nói vòng quanh,… Đó
là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong đối thoại. Cụ thể như việc đọc tài liệu, Người yêu

cầu “phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề
không thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẻ” cũng như đối với bất cứ vấn đề
gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế
không, có thật đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách
xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn.
Như vậy, mặc dù đề cao và yêu cầu phải dân chủ, phải nêu cao tác phong độc lập suy
nghĩ, tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng khẳng định không thể có dân chủ quá trớn hay tùy
tiện, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, tự do phải gắn liền với kỷ cương.
Ngoài ra, việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường, ngoài những yêu cầu
về người thầy, cũng như sự tương tác giữa người dạy và người học, Hồ Chí Minh cũng đặc
biệt quan tâm đến sự tương tác giữa người học đối với người dạy như nêu ra những yêu cầu
về phía người học: Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ
được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có
đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh
thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng
cao năng lực làm chủ của mình, “con người xã hội chủ nghĩa” - con người toàn diện, “nhất
định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để việc
thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đạt hiệu quả, bản thân sinh viên, học sinh
phải xác định được ý thức làm chủ, ra sức học tập, nghiên cứu, phát huy tinh thần tự học để
xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, người chủ của chính cuộc sống của mình.

GVHD: Thái Ngọc Tăng

10


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
2.1 Nội dung cơ bản của việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường.


Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong hoạt động của Nhà trường. Đảng và
nhà nước ta đã xây dựng một bộ chế tài về quy chế dân chủ trong trường học. Trên cơ sở quy
định của Hiến Pháp, pháp luật và chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ chính trị,
Nghị định số 71/1998-NĐ-CP ngày 08/09/1998 của Chính phủ, vào ngày 01/03/2000 Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã ký ban hành Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT về
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường nêu rõ: mục đích của việc
thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất những quy
định của Luật Giáo dục theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong
các hoạt động của nhà trường thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đảm
bảo cho cán bộ, giảng viên, nhân viên được quyền đóng góp ý kiến, giám sát, kiểm tra, đóng
góp cho các hoạt động của nhà trường. Thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhằm phát
huy tiềm năng, trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, cán bộ, công chức, người lao
động trong nhà trường trong quá trình phát triển và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
trường.
Quy chế thực hiện dân chủ trong nhà trường quy định “Hiệu trưởng là người do cơ
quan có thẩm quyền bổ nhiệm, có trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động của nhà
trường” và “Thực hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý nhà trường. Phối hợp chặt chẽ với
các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường phát huy dân chủ trong hoạt động của nhà trường”.
Những việc Hiệu trưởng cần phải lấy ý kiến đóng góp của các cá nhân và tổ chức, đoàn
thể trước khi ra quyết định:
- Kế hoạch phát triển, tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác
của nhà trường.
- Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ, sản xuất
của nhà trường.
- Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hằng năm, xây dựng nội quy,
quy chế trong nhà trường.
- Các báo cáo sơ kết, tổng kết năm học.
Quy chế về thực hiện dân chủ trong Nhà trường cũng nêu rõ những việc nhà giáo, cán
bộ, công được biết, tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp

hoặc thông qua tổ chức, đoàn thể trong nhà trường.
- Những chủ trương, chính sách chế độ của nhà trường và nhà nước đối với nhà giáo, cán bộ,
công chức.
- Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường.
- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật nếu có.
GVHD: Thái Ngọc Tăng

11


- Công khai các khoản đóng góp của người học, việc sử dụng kinh phí và chấp hành chế độ
thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành.
- Giải quyết các chế độ, quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo, cán bộ, công
chức, người học.
- Việc thực hiện thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương, thuyên chuyển,
biểu dương, đề bạc, khen thưởng, kỷ luật.
- Những vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi trong năm học.
- Báo cáo sơ kết, tổng kết, nhận xét, đánh giá công chức hằng năm.
2.2 Nguyên tắc thực hiện dân chủ trong nhà trường.
- Mở rộng dân chủ phải đảm bảo có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện trách nhiệm của Hiệu trưởng và phát huy vai trò của
các tổ chức, các đoàn thể trong nhà trường.
- Thực hiện dân chủ trong nhà trường phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; quyền phải đi
đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; dân chủ phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương trong nhà
trường.
- Xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ, xâm phạm quyền tự do dân chủ làm
ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động của nhà trường.
2.3 Thực hiện quy chế dân chủ trong sinh viên của trường Đại Học Sư Phạm Kĩ Thuật
TP. Hồ Chí Minh
2.3.1 Mục đích của việc thực hiện dân chủ trong nhà trường Đại Học Sư Phạm Kĩ

Thuật
- Đề ra quy chế dân chủ trong nhà trường là nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất những
điều được Luật giáo dục quy định theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” trong các hoạt động của nhà trường thong qua các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện, đảm bảo cho công dân, cơ quan tổ chức được quyền giám sát, kiểm tra đón góp ý
kiến tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục thực sự là của dân, do dân và
vì dân.
-Thực hiện dân chủ trong trường nhằm phát huy quyền làm chủ và huy động tài năng trí tuệ
của hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, đội ngủ cán bộ, công chức trong nhà trường theo luật
định, góp phần xây dựng nề nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường, ngăn
chặn các hoạt động tiêu cực và tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp
với đường lối, chủ trương của Đảng và của Nhà nước về thực hiện dân chủ của trường Đại
Học Sư Phạm Kĩ Thuật.

GVHD: Thái Ngọc Tăng

12


2.3.2Thực trạng thực hiện dân chủ của sinh viên trường trong trường Đại Học Sư
Phạm Kĩ Thuật
2.3.2.1 Biểu hiện tích cực
Thực hiện dân chủ hiện đã đem lại những biến đổi quan trọng đối với quá trình quản lý
và quá trình đào tạo thành viên của Đại học Đại Học Sư Phạm Kĩ Thuật. Các nguyên tắc cơ
bản của dân chủ dần dần được xác lập và được vận dụng một cách đa dạng, từng bước phù
hợp với đặc thù của nhà trường vào những thời điểm nhất định. Cán bộ, giảng viên, sinh
viên trong trường ngày càng nhận thức đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của mình, tham gia
tích cực vào quá trình quản lý và đào tạo của nhà trường. Hình thức dân chủ trực tiếp ngày
càng được mở rộng và hiệu quả .
Trên cơ sở hiểu biết về quyền dân chủ của mình, các sinh viên của trường đã có nhiều

cố gắng tham gia làm chủ quá trình học tập, làm chủ nhà trường và làm chủ bản thân. Khi
đánh giá về mức độ tham gia làm chủ của một số bạn trong lớp, thì đa số các bạn đảm bảo
tốt được khả năng làm chủ của mỗi cá nhân. Đây là một điều đáng khích lệ vì đại đa số sinh
viên được hỏi quan tâm đến vấn đề dân chủ, đến quyền làm chủ của mình trong trường.
Nhà trường luôn hướng đến việc bảo vệ quyền dân chủ cho sinh viên cụ thể như : cho
sinh viên khảo sát công tác việc giảng dạy của giáo viên, cho phát biểu nêu ý kiến riêng của
cá nhân về các hoạt động trong trường,lớp,…
Các phong trào lớn do Đoàn, Hội các nhà trường tổ chức như: Sinh viên tình nguyện,
Mùa hè xanh, Nhịp sống sinh viên, Sáng tạo sinh viên, các hoạt động từ thiện khác... đã lôi
cuốn được đông đảo sinh viên tham gia và đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân sinh viên
và cho cộng đồng. Khi tham gia các hoạt động Đoàn, Hội đã góp phần làm cho sinh viên thể
hiện được vai trò làm chủ của mình, rèn luyện được năng lực độc lập, tự chủ trong sinh hoạt,
tính tự giác và tính kỷ luật trong hoạt động, có tinh thần trách nhiệm đối với bản thân và
cộng đồng. Những cố gắng của tổ chức Đoàn và Hội được sinh viên ghi nhận, đánh giá cao.
Các đề xuất của sinh viên, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều được các cấp quản lý quan
tâm nghiên cứu, giải quyết phù hợp với chế độ, chính sách và các quy định, quy chế chuyên
môn. Tuy không thể thoả mãn được mọi nguyện vọng của sinh viên, bởi trên thực tế, không
phải tất cả những đề xuất đó đều là hợp lý, nhưng nhìn chung cách giải quyết của các cấp
quản lý đã được sinh viên đồng tình, chấp nhận.
2.3.2.2 Biểu hiện tiêu cực
-Bên cạnh tính năng động, sáng tạo, tự giác của đa số sinh viên hiện nay, vẫn còn một bộ
phận không nhỏ sinh viên của Đại học Sư Phạm Kĩ thuật còn thụ động, chây lười, thiếu trách
nhiệm trong học tập của mình, buông thả trong sinh hoạt. Nhiều bậc phụ huynh phản ánh về
con, em mình: “Khi học phổ thông thì rất chăm chỉ học tập, còn từ khi vào đại học lại không
thấy tự học như trước”.
-Hoạt động của sinh viên chủ yếu được thực hiện trong khuôn khổ lớp học. Là sinh viên
năm nhất dù chưa có nhiều cơ sở để phán đoán, nhưng theo em điều đó được thể hiện qua
đầu năm học 2016: Khi có ý kiến, vướng mắc các bạn thường đề cập ở đâu? Số nhiều sinh
viên được hỏi cho rằng họ phản ánh thông qua ban cán sự lớp; tiếp đến là họ phản ánh với
giáo viên chủ nhiệm; và sau đó là đề đạt ý kiến đến ban chủ nhiệm khoa; rất ít sinh viên

GVHD: Thái Ngọc Tăng

13


được hỏi đề đạt trực tiếp nguyện vọng, ý kiến của mình với phòng chức năng và ban giám
hiệu nhà trường.
2.4 Nguyên nhân của thực trạng trên
Sinh viên trường là đội ngũ thanh niên có trình độ học vấn cao, là lứa tuổi nhạy cảm,
ham tìm hiểu cái mới nên họ nắm bắt thông tin rất nhanh nhạy. Hiện nay có rất nhiều nguồn
cung cấp thông tin đa chiều tác động đến sinh viên sinh viên Đại Học Sư Phạm Kĩ Thuật nên
dễ gây ra những biến động trong tâm lý, tư tưởng của sinh viên. Vì vậy, nhà trường nên quan
tâm nhiều hơn đến công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống để định hướng cho sự hình
thành, phát triển nhân cách toàn diện cho sinh viên. Thông qua những hội nghị, hội thảo sinh
viên được học tập, phổ biến các quy chế, quy định của ngành và nhà trường, các chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, qua đó nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của
mình. Ngoài ra, các đơn vị còn cung cấp cho sinh viên các tài liệu liên quan dưới dạng "Sổ
tay sinh viên" để họ tự nghiên cứu. Nếu sinh viên tham dự đầy đủ các hoạt động trên thì
nhận thức dân chủ của họ là tương đối toàn diện.
Ngoài ra nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện tiêu cực là:
-Do với quy trình đào tạo theo học chế tín chỉ, khi mà biên chế lớp học truyền thống bị phá
vỡ. Mà trường Đại Học Sư Phạm Kĩ Thuật lại có quy mô tuyển sinh theo ngành lớn, tính
chất liên thông nhiều thì lớp học phần không trùng với lớp sinh hoạt, do đó tồn tại hai hệ
thống lớp khác nhau, việc quản lý trở nên phức tạp hơn. Không kiểm soát được tình hình
mỗi sinh viên trong lớp .
-Khi học phổ thông thì rất chăm chỉ học tập, còn từ khi vào đại học lại không thấy tự học
như trước. Dù biết phần lớn là do lỗi của mỗi cá nhân sinh viên, nhưng cũng có một phần do
lỗi của công tác quản lý đào tạo, quy trình đào tạo, phương pháp đào tạo của nhà trường, một
phần do bị hạn chế bởi những quan hệ truyền thống làm cho những sinh viên này e dè, ngại
tham gia vào những mối quan hệ tế nhị như quan hệ thầy - trò, quan hệ sinh viên - khoa nhà trường.

-Do sinh viên phần lớn đi học xa nhà ,không được bố mẹ kiểm xoát, do đó sống buông thả,
không được thúc dục.
2.5 Các biện pháp nhằm phát huy dân chủ trong sinh vên
Một số biện pháp:
- Một là, cần phải nâng cao hơn nữa năng lực làm chủ của tập thể giáo viên, cán bộ
công nhân viên cũng như sinh viên trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Thành phố Hồ Chí
Minh, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, xây dựng thói quen làm chủ. Khi họ
có kiến thức, hiểu biết đúng đắn về quyền dân chủ và trách nhiệm của người làm chủ thì họ
mới biết phát huy quyền dân chủ và biết dùng quyền dân chủ để dám nói, dám làm, dám
kiểm tra, giám sát để bảo vệ những lợi ích thiết thân của cá nhân và tập thể nhà trường.
- Hai là, trên cơ sở Quy chế dân chủ do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, các trường
học cần xây dựng Quy chế dân chủ sao cho thật cụ thể, chi tiết, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị mình. Các nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cần chú
ý đảm bảo tính cụ thể, công khai, minh bạch, đặc biệt trong những vấn đề quan trọng như
GVHD: Thái Ngọc Tăng

14


tuyển sinh, chiêu sinh, học phí, học bổng, thu – chi tài chính, sử dụng tài sản công, xây dựng
cơ sở vật chất của nhà trường, công tác điều động, bố trí, đề bạt cán bộ….
- Ba là, tăng cường trách nhiệm của Hiệu trưởng, Ban giám hiệu nhà trường trong việc
thực hiện Quy chế dân chủ. Hiệu trưởng, Ban giám hiệu phải tôn trọng quyền dân chủ của
tập thể giáo viên, cán bộ công chức nhà trường và sinh viên, học viên, chú ý lắng nghe các ý
kiến đóng góp, làm rõ đúng sai trong những điều mà họ thắc mắc.Đảm bảo nguyên tắc công
bằng và dân chủ, hợp hiến, hợp pháp, hợp quy định trong các hoạt động của nhà trường,
tránh thái độ chuyên quyền, độc đoán, tùy tiện, áp đặt chủ quan, chống trục lợi cá nhân và
những biểu hiện sai trái khác. Không trù dập, thù oán vì những ý kiến trái chiều, không trả
thù những cá nhân mạnh dạn tố cáo các sai phạm, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm những
biểu hiện vi phạm pháp luật hay lạm dụng quyền dân chủ để có những hành vi đi ngược lại

lợi ích chung của tập thể nhà trường.
- Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, đặc biệt
là Công đoàn, Ban thanh tra nhân dân và Hội sinh viên. Ban giám hiệu nhà trường và các tổ
chức đoàn thể phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa để thực hiện nghiêm túc Quy chế dân
chủ trong hoạt động của nhà trường.
- Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Cấp ủy Đảng phải làm tốt công tác tư tưởng, khuyến khích, động viên
quần chúng thực hiện Quy chế dân chủ, thường xuyên phối hợp với Công đoàn nhà trường
tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với
cán bộ giáo viên, sinh viên, học viên trong nhà trường. Các Đảng viên phải tích cực, gương
mẫu thực hiện Quy chế dân chủ, kiên quyết đấu tranh với tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng
và những biểu hiện tiêu cực khác trong hoạt động của nhà trường.

GVHD: Thái Ngọc Tăng

15


C. PHẦN KẾT LUẬN
Nhà nước luôn đảm bảo thực hiện đúng đắn và đúng con đường mà đảng và Bác đã
chọn. Tích cực xây dựng ,hoàn thiện về vấn đề dân chủ và mọi lĩnh vực khác trong xã hội.
Trong đó việc thực hiên dân chủ trong lĩnh vực giáo dục là hàng đầu trong quá trình thực
hiện dân chủ toàn dân. Việc thực hiện quy chế dân chủ trong các trường Đại Học là vấn đề
bức thiết của các trường Đại Học. Thực hiện tốt dân chủ trong giáo dục ở nhà trường là tiền
đề quan trọng để nhà trường thực hiện tốt các chủ trương giáo dục, tạo không khí dân chủ
trong giáo dục là để nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện đúng các mục tiêu giáo dục
trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện dân chủ trong giáo dục phải đi liền với nề nếp, kỉ cương trong giáo dục. Cần
tránh tư tưởng dân chủ quá trớn, lợi dụng tư tưởng dân chủ để thực hiện mục đích tuyên
truyền, phá hoại, làm mất đoàn kết nội bộ, bôi nhọ các chủ trương, chính sách đúng đắn.

Dân chủ của Trường Đại Học Sư Pham Kỹ Thuật cũng đang ngày được cải thiện và
phát huy vai trò hơn. Các thành quả thực hiện dân chủ trong trường, một mặt góp phần nâng
cao vị thế của mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường, mặt khác tham gia tích cực
vào sự phát triển chung của nhà trường. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho sinh viên được
tham gia làm chủ tập thể, làm chủ nhà trường. Tuy vậy, quá trình thực hiện dân chủ của
trường vẫn còn không ít những hạn chế cần được nghiên cứu kỹ để tìm ra nguyên nhân, đề
xuất phương hướng, giải pháp khắc phục. Trường Đại Học Sư Phạm Kĩ Thuật hiện rất chú
trọng cơ sở vật chất cho sinh viên, nên đã dần tạo ra được môi trường học hiện đại hơn, đáp
ứng phần nào quyền lợi cho sinh viên.

GVHD: Thái Ngọc Tăng

16


PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo:
1. />3.
4.
5.
6.

chu.html
/>option=com_content&view=article&id=3421:s-kcb-nckh&Itemid=357
/> /> />articleid=23&sitepageid=423#sthash.FvY1jaZT.dpbs
/>
GVHD: Thái Ngọc Tăng

17




×