Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Biến đổi của quan hệ sản xuất ở việt nam từ năm 1986 đến nay thực trạng và những vẫn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ VINH

BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY: THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

LÊ THỊ VINH

BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY: THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Lương Đình Hải



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TSKH. Lương Đình Hải. Các kết quả nghiên cứu được trình
bày trong luận án là trung thực, khách quan. Các thông tin trích dẫn trong luận án
đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 07 tháng 7 năm 2017
Tác giả luận án

Lê Thị Vinh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...........................................6
1.1. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ sản xuất nói chung .............6
1.2. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ sở hữu ..............................10
1.3. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất .19
1.4. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ phân phối .........................26
1.5. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu và một số khái niệm cơ bản ...........32
Chương 2. BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ..............................................39
2.1. Thực trạng biến đổi của quan hệ sở hữu ............................................................39
2.2. Vấn đề đặt ra ......................................................................................................64
Chương 3. BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76

3.1. Thực trạng biến đổi của quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất ...............................76
3.2. Vấn đề đặt ra ....................................................................................................100
Chương 4. BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................115
4.1. Thực trạng biến đổi của quan hệ phân phối .....................................................115
4.2. Vấn đề đặt ra ....................................................................................................137
KẾT LUẬN .............................................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ......................................................................................................155
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................156


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, bao gồm: quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý quá trình sản xuất và quan hệ
trong phân phối các yếu tố của quá trình sản xuất. Ba mặt này thống nhất với nhau,
tạo thành hệ thống ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực
lượng sản xuất. Toàn bộ các quan hệ sản xuất tạo nên cơ sở hạ tầng, đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng và ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống.
Tính đúng đắn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đã được thực tiễn chứng minh và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, khiến cho quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội biến đổi nhanh
chóng và phức tạp với nhiều biểu hiện mới vượt ra khỏi những kiến giải của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta không chỉ đứng vững
trên lập trường mácxít, mà còn phải vận dụng linh hoạt các học thuyết khác về quan
hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối để phân tích, lý

giải và giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Ở Việt Nam, quan hệ sản xuất luôn là đề tài thu hút được sự quan tâm của
giới nghiên cứu lý luận và các nhà hoạt động thực tiễn. Trước đổi mới, các nghiên
cứu chủ yếu tập trung luận giải cho tính tất yếu của việc quốc hữu hóa, tập thể hóa
các tư liệu sản xuất cơ bản và coi đây là điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế có kế hoạch. Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (tháng 12 năm 1986), với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, các nghiên
cứu về quan hệ sản xuất đã bám sát tiến trình xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cho đến nay, đã có rất nhiều công
trình đề cập đến sự biến đổi của toàn bộ quan hệ sản xuất hoặc của từng phương
diện trong quan hệ sản xuất ở Việt Nam. Tuy nhiên, những khái quát triết học về
1


thực trạng biến đổi quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, gồm cả
những vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi đó, vẫn còn nhiều nội dung chưa được
làm sáng tỏ.
Mặt khác, từ nửa cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và do tác động của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, quan hệ sản xuất ở các
quốc gia không ngừng biến đổi. Nhiều đối tượng sở hữu mới xuất hiện, trong đó, sở
hữu giá trị ngày càng đóng vai trò quan trọng. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất
không bó hẹp trong sản xuất mà được mở rộng đến các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội với nhiều mô hình và phương thức phong phú. Quan hệ phân phối không chỉ
bao gồm phân phối các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất mà còn thêm
nhiều khách thể phân phối mới cùng nhiều hình thức phân phối đan xen. Những
biến đổi trong quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội
ở mỗi quốc gia cũng như quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về quan
hệ sản xuất là đề tài mang tính thời sự.
Ở Việt Nam, trước đổi mới, do nhận thức đơn giản về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cho rằng quan hệ sản xuất có thể đi trước một bước, từ đó mở đường

cho lực lượng sản xuất phát triển nên chúng ta đã thiết lập quan hệ sản xuất không
hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và phương
thức phân phối mang tính chất bình quân đã kìm hãm sự phát triển, là nguyên nhân
góp phần dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thập
niên 70 – 80 của thế kỷ XX. Trước đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và tác
động của bối cảnh quốc tế, từ năm 1986 đến nay, quan hệ sản xuất ở Việt Nam đã
có những biến đổi so với thời kỳ trước đổi mới, và vẫn tiếp tục không ngừng vận
động. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất đã góp phần quan trọng tạo nên thành tựu
của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, do đó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

2


Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay đang đặt ra yêu cầu thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nghiên cứu sự biến đổi của
quan hệ sản xuất từ năm 1986 đến nay để xác định những thành tựu, đặc biệt là
những vấn đề còn tồn tại, là việc làm cấp thiết.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn “Biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra” làm đề tài luận
án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ thực trạng biến đổi quan hệ sản xuất ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay và những vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi đó.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, phân tích thực trạng biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ
năm 1986 đến nay trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu, quan hệ

tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối.
Hai là, phân tích một số vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi của quan hệ sản
xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung phân tích thực trạng và một số vấn
đề nổi cộm đặt ra từ sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến
nay, bao gồm sự biến đổi của quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ sản xuất
qua các kỳ Đại hội. Ngoài ra, luận án có kế thừa và phát triển những thành tựu
nghiên cứu của các học giả đi trước.
3


Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận triết học là chủ yếu, trong một số
trường hợp cụ thể có kết hợp với phương pháp tiếp cận liên ngành. Luận án sử dụng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: so sánh, phân tích, tổng hợp, lịch sử,
logic, quy nạp, diễn dịch, trừu tượng hóa, khái quát hóa.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án chỉ ra những biến đổi và vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi của
quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay về quan hệ sở hữu, quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối từ góc độ tiếp cận triết học. Cụ thể:
- Luận án phân tích sự biến đổi về đối tượng sở hữu, chủ thể sở hữu và cơ
cấu hình thức sở hữu trong nền kinh tế; xác định những vấn đề đặt ra từ thực trạng
biến đổi của quan hệ sở hữu, trong đó, phân tích một số bất cập nảy sinh từ quan
niê ̣m về thành phần kinh tế chủ đạo ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án phân tích thực trạng đổi mới mô hình tổ chức, quản lý sản xuất;
biến đổi về chủ thể tổ chức, quản lý sản xuất và biến đổi về phương thức tổ chức,
quản lý sản xuất; xác định những vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi của quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất, trong đó, phân tích vấn đề vai trò của Nhà nước trong quản
lý nền sản xuất xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án phân tích thực trạng biến đổi về chủ thể phân phối, khách thể phân
phối và hình thức phân phối; xác định những vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi
của quan hệ phân phối, trong đó, làm rõ vấn đề vai trò của Nhà nước trong đảm bảo
phân phối công bằng ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần khẳng định giá trị quan điểm của chủ
nghĩa Mác về quan hệ sản xuất; góp phần tổng kết thực tiễn những biến đổi của
quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu, cứ liệu cho những người
nghiên cứu, giảng dạy và học tập triết học Mác – Lênin, có thể là lý luận tham khảo
cho việc hoạch định chính sách và quản lý kinh tế – xã hội hiện nay.

4


7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương, kết luận, danh mục các công trình
nghiên cứu của tác giả, tài liệu tham khảo.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trước hết, phải khẳng định rằng quan hệ sản xuất là đề tài được nhiều nhà

khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như triết học, luật học, kinh tế học, v.v.. và
nhiều nhà quản lý quan tâm, nghiên cứu với hàng loạt công trình đã được công bố,
gồm đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài
báo, luận án, luận văn, v.v.. Trong số đó, chúng tôi chọn tổng quan một số công
trình mà theo chúng tôi là có nội dung liên quan trực tiếp đến những biến đổi của
quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Ngoài ra, chúng tôi còn kế thừa
kết quả nghiên cứu của nhiều học giả khác mà công trình của họ đã được chúng tôi
thống kê tại danh mục tài liệu tham khảo.
1.1. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ sản xuất nói
chung
Dưới góc độ lịch sử, công trình Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới ở Việt Nam [104] do Phạm Thị Quý chủ biên (2000) đã nghiên cứu quá trình
hình thành quan hệ sản xuất mới ở Việt Nam, gắn với chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước qua từng thời kỳ, gợi ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để
hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở Việt Nam. Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất,
các tác giả chỉ ra cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng tạo lập
đồng bộ các loại thị trường, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà
nước, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật kinh tế và tăng cường các công cụ quản lý vĩ
mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Sách Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam [101] do Lương Xuân Quỳ chủ biên (2002), đề
cập đến hệ quan điểm, phương hướng, chính sách và giải pháp xây dựng quan hệ
sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt
Nam. Phần thứ hai của cuốn sách khái quát thực trạng biến đổi quan hệ sản xuất và
những tác động chủ yếu của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
trong 15 năm đổi mới. Các tác giả cho rằng, việc chuyển sang nền kinh tế nhiều
6


thành phần sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa “là biến đổi đầu tiên, mang

tính chất đột phá và là biến đổi quan trọng nhất trong mấy chục năm xây dựng nền
kinh tế nước ta” [101, tr. 87-88]. Theo các tác giả, đặc trưng căn bản nhất và cũng là
thành tựu to lớn nhất của việc đổi mới quan hệ quản lý ở Việt Nam từ năm 1986 là
“chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ sự chuyển đổi này mà
cơ chế và do đó là các quan hệ quản lý thay đổi ở cả tầm vĩ mô và vi mô, tạo ra
động lực thúc đẩy tăng trường kinh tế” [101, tr. 93]. Về quan hệ phân phối, các tác
giả đề cập đến việc thay đổi nguyên tắc phân phối lần đầu và chú trọng thực hiện
phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Đây là những chỉ dẫn quan trọng để chúng tôi
phân tích thực trạng biến đổi quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Trong bài viết Một số mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [115], Mai Thị Thanh
(2015) khẳng định từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Theo tác giả, đó là quá trình phức tạp, nổi bật là phải đối diện với ba mâu
thuẫn: thứ nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa với trình độ lực lượng sản xuất còn lạc hậu và phát triển không đồng
đều; thứ hai, mâu thuẫn giữa tính đa dạng, phức tạp của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ với kinh nghiệm xác lập quan hệ sản xuất mới còn rất
hạn chế; thứ ba, mâu thuẫn về tính hiệu quả kinh tế của kinh tế tập thể và kinh tế
nhà nước còn mới mẻ với các hình thức kinh tế khác đã trải qua nhiều thử nghiệm
trong lịch sử và còn tỏ rõ sức sống.
Bài viết Về quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [107] của Trần Văn Rón (2015) đã phân tích quá
trình hình thành quan hệ sản xuất mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trước và trong những năm đổi mới. Tác giả đã khái quát thực trạng và xu
hướng phát triển quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trên cả ba phương diện: quan hệ về sở hữu đối với
7



tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối, trao
đổi sản phẩm xã hội. Theo tác giả, quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay đã và
đang từng bước hoàn thiện theo hướng tiến bộ và phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất hiện có.
Sách chuyên khảo Tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất: Từ lý luận đến thực tiễn Việt Nam [72] của Nguyễn Đức Luận (2016) đã làm
rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những tác động của quan hệ sản xuất
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quan điểm này ở Việt
Nam hiện nay, chỉ ra một số hạn chế của quan hệ sản xuất và đề xuất các giải pháp
khắc phục những hạn chế đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mặc dù không đi sâu phân tích thực trạng biến đổi của quan hệ sản xuất, nhưng
những khảo cứu về một số biểu hiện mới của quan hệ sản xuất trong thời đại ngày
nay; về quá trình đổi mới quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay; đặc
biệt là phần phân tích một số hạn chế về sở hữu trong quan hệ sản xuất, về tổ chức
quản lý sản xuất, về phân phối sản phẩm ở Việt Nam hiện nay đã cung cấp cho
chúng tôi nhiều tư liệu quan trọng.
Cuốn sách Xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [6] do Trương Tuấn Biểu và Trần Đăng Bộ
đồng chủ biên (2016) đã làm rõ ba nội dung lớn: thứ nhất, cơ sở lý luận về xây dựng
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam; thứ hai, thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; thứ ba, quan điểm và giải pháp xây dựng
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tác
giả đã khái quát về các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hạn chế, nguyên nhân
và những vấn đề đặt ra từ thực trạng xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế
đó.
Ngoài ra, sự biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
còn được đề cập đến trong tổng kết 30 năm đổi mới. Mặc dù đây không phải là

8


chuyên khảo về biến đổi của quan hệ sản xuất, nhưng những thành tựu trong đổi
mới quan hệ sản xuất, cũng như những bất cập trong quan hệ sở hữu, quan hệ tổ
chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối đều được chỉ ra một cách thẳng thắn.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 –
2016) [26] đã khái quát những thành tựu trong đổi mới nhận thức của Đảng về chế
độ sở hữu và các thành phần kinh tế, về quan hệ phân phối, về vai trò, chức năng
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; thành tựu trong thực tiễn xây dựng quan
hệ sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nguyên
nhân những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế liên quan đến lĩnh vực quan hệ sản
xuất [xem 26, tr. 63-79]. Trong cuốn sách 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam
[53], các tác giả khẳng định: bước chuyển từ đơn sở hữu với sự phân biệt đối xử
sang đa sở hữu, đa thành phần kinh tế; bước chuyển từ quản lý theo cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường; bước chuyển từ phân phối
bình quân, cào bằng, không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân
phối là những bước chuyển quan trọng trong đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [xem 53, tr.
93]. Các tác giả cũng chỉ ra rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức lý
luận và thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói
chung, quan hệ sản xuất mới nói riêng còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về quan hệ sản xuất và biến đổi của
quan hệ sản xuất đã làm rõ một số nội dung sau:
Thứ nhất, các vấn đề lý luận chung về quan hệ sản xuất. Các tác giả dựa trên
quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích nội hàm khái
niệm quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và kết cấu của quan hệ
sản xuất. Đây là cơ sở lý thuyết để các tác giả khảo cứu quá trình xây dựng quan hệ
sản xuất ở Việt Nam.
Thứ hai, sự biến đổi của quan hệ sản xuất nói chung ở Việt Nam. Nội dung

này đã được các nhà nghiên cứu trình bày qua so sánh giai đoạn trước và trong đổi
mới với những biểu hiện phong phú trên cả ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, bao
9


gồm quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất,
quan hệ về phân phối. Sự biến đổi của quan hệ sản xuất được phân tích bao gồm
những đổi mới trong nhận thức về quan hệ sản xuất và thực tiễn xây dựng quan hệ
sản xuất mới ở Việt Nam.
Thứ ba, phương hướng, định hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên cơ sở khảo cứu quá trình xây
dựng và biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, các tác giả
đề xuất định hướng, phương hướng cơ bản và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ sở hữu
Sách Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam [124] của Nguyễn Văn Thức
(2004) đã nghiên cứu một cách tổng quát những vấn đề lý luận về sở hữu, khẳng
định tính tất yếu của sự đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ, xác
định vai trò của các loại hình sở hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số nội dung cơ bản của việc cải tạo và xây dựng các
hình thức sở hữu trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Những phân tích của tác giả về đa dạng hóa các hình thức sở hữu cũng như
vấn đề cải tạo và xây dựng các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã gợi cho chúng tôi một số ý tưởng
quan trọng trong quá trình triển khai nghiên cứu.
Bài viết Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của sự
đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam hiện nay [11] của Nguyễn Trọng
Chuẩn (2004) đã khái quát quá trình đổi mới về chế độ sở hữu ở Việt Nam. Theo
tác giả, “trong khi chủ trương coi kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân đóng vai trò
chủ đạo thì cũng cần khách quan và tỉnh táo để nhận ra rằng, trong điều kiện của

chúng ta hiện nay và cả trong thời gian còn rất dài, vai trò động lực của sở hữu nói
chung và sở hữu tư nhân nói riêng là vô cùng lớn” [11, tr. 23].
Trong bài viết Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận [29], Phạm
Văn Đức (2005) đã chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc đổi mới về sở hữu ở Việt
10


Nam, gồm: sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; sự thay đổi quan niệm về sở hữu, coi sở hữu vừa là mục đích vừa là
phương tiện. Tác giả khẳng định việc xác định sở hữu là phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước chưa trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thực hiện quá độ rút ngắn đi lên chủ nghĩa xã
hội. Theo đó, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình sở hữu khác
nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu, nhằm phát triển lực lượng sản xuất, năng động
hóa nền kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân lao động. Phạm Văn Đức nhận
định: “sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ thuộc vào
những chủ trương và giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các loại hình sở hữu,
cả sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể lẫn sở hữu tư nhân” [29, tr. 31].
Sách Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong
những năm đầu thế kỷ XXI [37] do Lương Việt Hải chủ biên (2008) là tập hợp một
số bài viết trong hai cuộc hội thảo do Viện Triết học - Viện Khoa học Xã hội của
Việt Nam và Trung Quốc phối hợp tổ chức vào tháng 10 năm 2004 tại thành phố
Hồ Chí Minh và tháng 9 năm 2006 tại Trung Quốc. Trong công trình này, chúng tôi
quan tâm nhiều hơn đến các bài viết về vấn đề sở hữu ở Việt Nam, bao gồm: đổi
mới quan niệm về sở hữu (của Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức – chúng tôi đã
đề cập ở trên), về kinh tế tư nhân (của Lương Việt Hải), về kinh tế tư bản nhà nước
(của Lương Đình Hải), về cổ phần hóa (của Vũ Văn Viên), về sở hữu nhà nước về
tài nguyên đất đai (của Nguyễn Văn Thức), về tồn tại đan xen các hình thức sở hữu
(của Đặng Hữu Toàn). Đây là tài liệu tham khảo hữu ích để chúng tôi khảo cứu sự
biến đổi cơ cấu sở hữu ở Việt Nam.

Trong cuốn sách Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam [138] do Nguyễn Kế Tuấn chủ biên (2010), bức tranh
toàn cảnh về thực trạng vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam được phân tích khá toàn
diện. Quá trình hoàn thiện và phát triển quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề
sở hữu và thành phần kinh tế được tái hiện qua phần điểm những tư tưởng cơ bản về
11


sở hữu và thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội Đảng. Từ đó, các tác giả rút ra hai
kết luận lớn: một là, trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế đã có
những chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy nhận thức về vấn đề sở hữu; hai là, chủ
trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và
đa dạng hóa các hình thức tổ chức kinh doanh được khẳng định một cách nhất quán,
nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ về lý luận dẫn đến những nhận thức
khác nhau và gây khó khăn trong tổ chức thực hiện [xem 138, tr. 164, 167]. Trong
công trình này, các tác giả cũng trình bày quá trình thể chế hóa quan điểm, chủ
trương của Đảng về vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế; thực trạng các hình thức
sở hữu, thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh và các vấn đề đặt ra.
Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu mô tả thực trạng, chưa tập trung phân tích làm nổi
bật sự biến đổi của các hình thức sở hữu.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Quan điểm của C. Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin về sở hữu và vận dụng các quan điểm đó vào thực tiễn Việt
Nam hiện nay [63] do Đặng Thị Lan chủ trì (2011), đã phân tích một cách hệ thống
những quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin về sở hữu, đặc biệt là sở
hữu trong chủ nghĩa xã hội; nghiên cứu quá trình vận dụng lý luận sở hữu vào hoàn
cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả luận chứng tính tất
yếu của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chỉ ra vai trò của các hình thức sở
hữu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Những phân tích của
tác giả về quá trình đổi mới chế độ sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam là tư liệu

tham khảo tốt để chúng tôi thực hiện nghiên cứu.
Sách chuyên khảo Sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện đại: Lý luận,
thực tiễn thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam [100] do Phạm Thái Quốc chủ biên
(2015) đã phân tích khá toàn diện vấn đề sở hữu trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường và hướng tới hiện đại của Việt Nam, gồm các nội dung: tóm lược các
tranh luận về vấn đề sở hữu ở Việt Nam trong thời gian qua, quá trình đổi mới về
vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng, hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nước về sở hữu, hiện trạng chế độ sở hữu ở Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới,
12


đánh giá thực trạng vấn đề sở hữu ở Việt Nam trong 30 năm qua, những khác biệt
về thể chế sở hữu của Việt Nam so với các nền kinh tế thị trường trên thế giới. Các
tác giả khẳng định, Việt Nam đã đạt được nhiều đổi mới quan trọng trong lĩnh vực
sở hữu, nhưng chế độ sở hữu ở Việt Nam vẫn mang tính đặc thù của sở hữu ở các
nền kinh tế chuyển đổi [xem 100, tr. 221]. Bối cảnh, định hướng và khuyến nghị
nhằm hoàn thiện vấn đề sở hữu ở Việt Nam cũng được các tác giả đưa ra trong
chương cuối của cuốn sách.
Bài viết Thực hiện công bằng xã hội đối với các hình thức sở hữu vì sự phát
triển con người ở nước ta hiện nay [106] của Trần Văn Rón và Lương Đình Hải
(2015) đã chỉ ra những bất cập trong việc xác định cơ cấu, hình thức sở hữu, thành
phần kinh tế ở Việt Nam từ khi đổi mới. Đặc biệt, các tác giả tập trung phân tích
vấn đề đảm bảo công bằng xã hội đối với các khu vực, các thành phần kinh tế hiện
nay. Theo các tác giả, “nhà nước không nên xác định và không nên sử dụng tư
tưởng chủ đạo mà nên quán triệt và thực hiện nguyên tắc đảm bảo công bằng, cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh của tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần, khu vực kinh tế, khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát
triển đúng theo quy định của pháp luật” [106, tr. 56]. Đây là tư liệu quan trọng để
chúng tôi phân tích vấn đề đặt ra từ thực trạng biến đổi của quan hệ sở hữu ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay.

Ngoài các công trình nghiên cứu về quan hệ sở hữu nói chung như chúng tôi
đã nêu ở trên, các hình thức sở hữu cụ thể gắn với các thành phần kinh tế là đề tài
của rất nhiều công trình. Chúng tôi tạm gọi đây là nhóm công trình nghiên cứu
chuyên biệt về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế cụ thể. Trong đó, sở hữu nhà
nước – kinh tế nhà nước và sở hữu tư nhân – kinh tế tư nhân là hai khu vực thu hút
được lượng công trình nghiên cứu nhiều nhất.
Trong các nghiên cứu về sự biến đổi của sở hữu nhà nước và kinh tế nhà
nước, đa số các học giả đề cập đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
đàm luận về vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước, thực trạng của sở hữu nhà nước

13


và kinh tế nhà nước cũng như các vấn đề còn tồn tại và các giải pháp khắc phục. Có
thể kể đến các công trình sau:
Trong cuốn sách Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay [117] do
Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên (2004), các tác giả dành
nhiều dung lượng để phân tích thực trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu
đất đai ở Việt Nam. Các tác giả nhận định, do những thay đổi trong cơ chế, chính
sách và việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước mà sở hữu trong doanh nghiệp nhà
nước đã thay đổi lớn, nổi bật là các quá trình: (1) Đổi mới cơ chế chính sách, tách
quyền quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp với
quyền sử dụng tài sản trong sản xuất kinh doanh để doanh nghiệp nhà nước tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, hạch toán kinh doanh trong cơ chế thị trường; (2) Sắp xếp, giải
thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không
cần nắm giữ để khu vực doanh nghiệp Nhà nước có cơ cấu và quy mô hợp lý; (3)
Tổ chức, củng cố, phát triển các tổng công ty nhà nước nhằm tập trung nguồn lực
của nhà nước vào những ngành then chốt mà Nhà nước cần chi phối; (4) Cổ phần
hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát

triển và doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để thành lập công ty cổ phần
mới [117, tr. 118-119].
Sách chuyên khảo Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [12] do Nguyễn Cúc, Kim Văn
Chính chủ biên (2006) là công trình nghiên cứu khá toàn diện về sở hữu nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước về mặt lý luận cũng như thực tiễn ở một số quốc gia trên
thế giới và Việt Nam. Theo nhóm tác giả, “ở khắp nơi trên thế giới, kể cả các nước
phương Tây có nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, cũng như ở các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây, đã có sự biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc đối với khu vực
kinh tế nhà nước cả về nhận thức lý luận lẫn thực tiễn tổ chức và chính sách quản
lý” [12, tr. 153]. Trong công trình này, sở hữu nhà nước được phân tích dưới góc độ
quản lý. Những phân tích về thực trạng và định hướng đổi mới quản lý đối với sở
14


hữu nhà nước cũng như các chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới hệ thống doanh
nghiệp nhà nước là những chỉ dẫn quan trọng đối với chúng tôi khi tiến hành nghiên
cứu.
Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân là đề tài thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu từ khi đổi mới đến nay với hàng loạt các công trình được
công bố, nhất là trong khoảng trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Đó là các
công trình chuyên khảo: Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập [80]
của Trịnh Thị Hoa Mai (2005), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [142] của Nguyễn Thanh Tuyền
(2006), Kinh tế tư nhân và đảng viên làm kinh tế tư nhân [89] do Nhà xuất bản Lao
động – Xã hội biên soạn (2006), Kinh tế tư nhân – Một động lực cơ bản cho phát
triển [15] do Vũ Hùng Cường chủ biên (2016) v.v.. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết
được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và website. Với nhiều góc độ nghiên
cứu, các công trình này đã làm rõ một số vấn đề lý luận về sở hữu tư nhân và kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quá trình đổi

mới tư duy của Đảng về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân; thực trạng phát triển của
sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân từ khi đổi mới. Đây là nguồn tư liệu phong phú
cho chúng tôi khảo cứu thực trạng biến đổi của hình thức sở hữu rất quan trọng này
ở Việt Nam mà theo như nhận định của Lương Minh Cừ và Vũ Văn Thư (2011)
trong cuốn sách Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay: Một số
nhận thức về lý luận và thực tiễn [13]: “sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân là một phạm
trù tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và
phát triển của nó là do yêu cầu của các quy luật khách quan, trước hết là do quy luật
“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Trong
quá trình tồn tại và phát triển vai trò, vị trí của nó ngày càng tăng lên và đang trở
thành nhân tố quan trọng làm đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian
tới. Do đó, sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân sẽ tồn tại lâu dài trong suốt thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội và cả sau khi kết thúc thời kỳ quá độ” [13, tr. 254-255].

15


Ngoài ra, các hình thức sở hữu khác cũng đã được nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình sau:
Sách Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [65] do Chử Văn Lâm chủ biên (2006) đã phân
tích vị trí, vai trò của sở hữu tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở khảo cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn sở hữu tập thể và
kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường trên thế giới, các tác giả làm rõ một số
vấn đề lý luận và thực trạng phát triển sở hữu tập thể, kinh tế tập thể ở Việt Nam từ
khi đổi mới. Nhóm tác giả khẳng định: (1) Đa dạng hóa hoạt động là một xu hướng
khá phổ biến trong các hợp tác xã ở tất cả các loại hình sản xuất kinh doanh; (2) xu
hướng trong tương lai của sở hữu tập thể hợp tác xã sẽ là sở hữu hỗn hợp ở những
trình độ khác nhau trong nền kinh tế thị trường; (3) nhân tố cản trở lớn nhất quá
trình phát triển hợp tác xã là đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ quản lý thấp, hiểu

biết về kinh tế thị trường hạn chế [xem 65, tr. 200-209]. Bên cạnh đó, các nội dung
về vai trò và mức độ đóng góp của kinh tế tập thể vào tăng trưởng kinh tế, xu thế
phát triển của sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác trong điều kiện nền kinh tế hội nhập
cùng các giải pháp và gợi ý chính sách cũng được các tác giả cuốn sách trình bày rất
chi tiết.
Bài viết Sở hữu trong đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế [64] của Nguyễn Thường Lạng (2009) đã phân tích xu hướng
điều chỉnh về sở hữu trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tác giả nhận định, đây
là vấn đề phức tạp, vì vậy cần được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Đây là tài
liệu hữu ích để chúng tôi khảo cứu sự biến đổi trong hình thức sở hữu đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam hiện nay.
Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu liên quan, chúng tôi nhận thấy, sự
biến đổi của quan hệ sở hữu ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã được các học giả
phân tích ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về tính tất yếu của sự biến đổi của quan hệ sở hữu ở Việt Nam.
Các học giả đã chỉ ra các khía cạnh sau đây khi phân tích bối cảnh đòi hỏi phải điều
16


chỉnh quan hệ sở hữu ở Việt Nam: một là, do yêu cầu của toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế; hai là, do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ; ba là, đòi hỏi tất
yếu của xu hướng phát triển kinh tế trên thế giới, với sự phân công lao động quốc tế
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao; bốn là, bài học từ sự
thất bại của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu; năm là, yêu cầu tất yếu
được đặt ra do khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước trước năm 1986 và thực tiễn
phát triển đất nước từ năm 1986 đến nay. Nhìn chung, các học giả đều khẳng định
sự thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của sở hữu là cơ sở cho những chủ trương,
chính sách điều chỉnh quan hệ sở hữu ở Việt Nam từ khi đổi mới. Theo các học giả,
quá trình đổi mới nhận thức dẫn đến sự biến đổi quan hệ sở hữu ở Việt Nam là sự
nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa

Mác – Lênin, trước hết là sự nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Thứ hai, về sự biến đổi đối tượng sở hữu. Nếu như trước đổi mới, các nghiên
cứu ở Việt Nam chỉ nhấn mạnh về sở hữu tư liệu sản xuất và khẳng định chế độ sở
hữu công cộng về các tư liệu sản xuất chủ yếu là chìa khóa để có chủ nghĩa xã hội,
thì từ khi đổi mới đến nay, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có một số
công trình nghiên cứu về các đối tượng sở hữu mới cũng như những đổi mới liên
quan đến các đối tượng sở hữu truyền thống, trong đó chủ yếu là về sở sở hữu trí tuệ
và sở hữu đất đai.
Các công trình nghiên cứu về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đều khẳng định vai
trò ngày càng quan trọng của sở hữu trí tuệ, từ đó nhấn mạnh cần phải đổi mới và
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ do việc thực hiện bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, các vấn đề
liên quan đến sở hữu trí tuệ mới chủ yếu được các nhà nghiên cứu phân tích dưới
góc độ tiếp cận luật học.
Các biến đổi trong quan hệ sở hữu đất đai đã được phân tích ở các khía cạnh:
nhận thức của Đảng, quy định của pháp luật, thực tiễn vận động, các vấn đề đặt ra
17


và khuyến nghị nhằm giải quyết các vướng mắc còn tồn tại. Trong đó, các học giả
đều thống nhất nhận định quan hệ sở hữu đất đai ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
chuyển biến tích cực theo hướng tạo điều kiện nhiều hơn cho người sử dụng đất.
Tuy nhiên, qua các công trình đã được công bố, chúng ta có thể nhận thấy cuộc
tranh luận về chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam hiện nay vẫn đang tiếp tục. Mặc
dù Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và Luật đất đai sửa đổi năm 2013 khẳng định chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng điều này đang tạo ra nhiều bất cập cả về
phương diện lý luận và thực tiễn.
Thứ ba, về biến đổi chủ thể sở hữu. Mặc dù chưa có công trình nào nghiên

cứu chuyên biệt về sự biến đổi chủ thể sở hữu ở Việt Nam, nhưng nội dung này đã
được các học giả đề cập đến trong các nghiên cứu về quá trình hội nhập kinh tế của
Việt Nam, về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và về kinh tế tư nhân. Khái quát
lại, chủ thể sở hữu ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay đa dạng hơn nhiều so với
thời kỳ trước đổi mới: ngoài chủ thể sở hữu Nhà nước còn có các chủ thể sở hữu là
doanh nhân (trong và ngoài nước), người lao động, có những chủ thể sở hữu tư nhân
là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ thể sở hữu là tập thể gồm nhiều thành
viên thuộc các thành phần khác nhau (sở hữu hỗn hợp).
Thứ tư, về sự biến đổi cơ cấu sở hữu ở Việt Nam. Có thể nói, đây là nội dung
được nhiều học giả tập trung phân tích nhất trong mảng đề tài nghiên cứu về biến
đổi quan hệ sở hữu ở Việt Nam. Nội dung này được đề cập đến trong hàng loạt công
trình nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như
các nghiên cứu về chế độ sở hữu nói chung, các hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế nói riêng. Các học giả đã so sánh quan hệ sở hữu ở Việt Nam trước và trong
đổi mới, từ đó khẳng định tính đúng đắn của chủ trương đa dạng hóa các hình thức
sở hữu. Các công trình đã mô tả sự biến đổi về cơ cấu sở hữu ở Việt Nam theo xu
hướng thu hẹp phạm vi của sở hữu công cộng, đồng thời tạo điều kiện và nhấn
mạnh vai trò của các hình thức sở hữu khác. Quá trình biến đổi này đã và đang đặt
ra nhiều vấn đề cần giải quyết cả về phương diện lý luận và phương diện thực tiễn.

18


Từ đó, các học giả đã đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm khắc phục
những hạn chế còn tồn tại.
1.3. Các công trình nghiên cứu về biến đổi của quan hệ tổ chức, quản lý
sản xuất
Công trình Chức năng kinh tế của Nhà nước – Lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay [21] của Trần Thái Dương (2003) là chuyên khảo về cơ sở lý luận và
thực tiễn của chức năng kinh tế và nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế

của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tác giả khẳng định: “Bằng chính sách, pháp
luật và các công cụ quản lý vĩ mô khác, qua gần hai thập kỷ đổi mới đất nước, Nhà
nước ta thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo
ra chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước [21, tr. 137]. Tác giả đã chỉ ra một số
thành tựu, những tồn tại và bất cập trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước và
nguyên nhân của những tồn tại, bất cập này. Trong đó, chúng tôi lưu ý hơn đến
phân tích rất thẳng thắn của tác giả về nguyên nhân do ảnh hưởng tư tưởng cũ trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung [xem 21, tr. 149-151].
Cuốn sách Quan hệ thị trường và kế hoạch trong phát triển kinh tế nước ta
hiện nay [96] do Vũ Văn Phúc chủ biên (2004) đã làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng
mối quan hệ giữa cơ chế thị trường và kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua các nội dung: (1) nhận thức
về mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường; (2) thực trạng về thị trường và cơ chế
thị trường ở Việt Nam. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị
trường được các tác giả phân tích qua các giai đoạn: 1979 – 1985, 1986 – 1989,
1990 – 1994 và 1995 – 2004. Qua đó, các tác giả đánh giá mặt tích cực và tiêu cực
trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường sau gần 20 năm đổi mới. Thực trạng
kế hoạch hóa nền kinh tế vĩ mô trong cơ chế thị trường được phân tích khá cụ thể
qua các giai đoạn: bước đầu quá trình đổi mới cơ chế kế hoạch, từng bước ổn định
kinh tế vĩ mô và những nỗ lực đổi mới, giai đoạn ổn định kế hoạch hóa và kế hoạch
kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường (1990 – 2000). Từ đó, các tác giả chỉ ra
19


những vấn đề đặt ra cần được giải quyết trong mối quan hệ thị trường và kế hoạch
hóa kinh tế vĩ mô như: vẫn còn tình trạng bao cấp ở một số lĩnh vực, nội dung kế
hoạch chưa chú ý đúng mức đến những cân đối lớn của toàn bộ nền kinh tế, các
thông tin kinh tế - xã hội không chính xác và không được phân tích đầy đủ trong
quá trình xây dựng kế hoạch, hệ thống kế hoạch yếu kém và năng lực của Nhà nước

còn hạn chế.
Sách Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [3] do Vũ
Đình Bách chủ biên (2008) được biên soạn trên cơ sở tổng hợp nội dung của 11 đề
tài có mã số từ KX.01.01 đến KX.01.11 thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong công trình này, chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến những kiến giải về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tác giả đã làm rõ thực trạng xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, những vấn đề cốt
lõi của quản lý Nhà nước về kinh tế, thực trạng quản lý Nhà nước trong nền kinh tế,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý Nhà nước về kinh tế. Theo
nhóm tác giả, quá trình đổi mới quan hệ quản lý nhà nước về kinh tế bắt đầu từ sự
đổi mới tư duy về nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế, về xây dựng mô hình
kinh tế trong thời kỳ quá độ, thực hiện quyền dân chủ trong kinh tế, phát triển nền
kinh tế mở thay thế cho nền kinh tế khép kín, về vai trò của Nhà nước trong xã hội,
nội dung và cách thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Từ những thay đổi này,
Nhà nước ta đã dần từng bước trở lại làm đúng với chức năng của mình đối với nền
kinh tế [3, tr. 157]. Kết quả của sự đổi mới quản lý của Nhà nước được trình bày ở
các nội dung: (1) định hướng phát triển kinh tế - xã hội, (2) cung cấp khung khổ
pháp luật và chính sách kinh tế, (3) cung cấp kết cấu hạ tầng cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng làm rõ thực trạng phát triển hệ thống thị
trường trong nền kinh tế thị trường, từ đó chỉ ra một số khó khăn, tồn tại của hệ
thống thị trường ở Việt Nam. Trên cơ sở khẳng định toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế là xu thế khách quan, các tác giả khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới quan hệ
quản lý ở Việt Nam.
20


Những vấn đề mấu chốt liên quan đến quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất ở
Việt Nam đã được các nhà quản lý, các nhà khoa học tập trung thảo luận tại Hội
thảo Khoa học Quốc gia Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn [45] do Hội đồng lý luận Trung
ương và Trường Đại học Kinh tế quốc dân tổ chức năm 2009. Kỷ yếu hội thảo được
chia thành bốn phần chính: phần 1, những vấn đề chung về lý thuyết và mô hình
kinh tế tổng quát của Việt Nam; phần 2, sở hữu, thành phần kinh tế và vai trò quản
lý của Nhà nước; phần 3, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; phần 4, tăng
trưởng kinh tế và các chính sách phát triển kinh tế. Hội thảo đã tập hợp được rất
nhiều bài viết có chất lượng tốt, trong đó có nhiều nhận định thẳng thắn về thực tiễn
nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đây
là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với chúng tôi khi nghiên cứu về biến đổi
quan hệ sản xuất nói chung, đặc biệt là biến đổi quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất ở
Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Trong bài viết Mối quan hệ giữa Nhà nước – thị
trường trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Nguyễn Bách Khoa và Phạm Thị Tuệ đã phân tích vai trò nhà nước trong nền kinh
tế ở Việt Nam trong thời gian từ đầu những năm 1990 đến 2008. Nhóm tác giả nhận
định: “đánh giá một cách khái quát, nhà nước đã thực hiện khá tốt vai trò của mình
trong việc giải quyết các vấn đề phát triển và nỗ lực chuyển sang kinh tế thị trường”
[45, tr. 333]. Tuy nhiên, theo các tác giả, có thể dễ dàng nhận thấy những dấu hiệu
của tăng trưởng không bền vững, điều đó chứng tỏ vai trò của nhà nước thiếu hiệu
quả, thể hiện ở chỗ: thứ nhất, nhà nước thiếu tầm nhìn chiến lược để đầu tư cho
nhân tố và mô hình tăng trưởng dài hạn; thứ hai, nhà nước chưa hình thành đồng bộ
nền kinh tế thị trường; thứ ba, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế quá sâu,
làm suy giảm tính cạnh tranh, không tạo được môi trường cạnh tranh bình đẳng cho
các thành phần kinh tế [xem 45, tr. 335]. Từ đó, các tác giả đưa ra các quan điểm và
giải pháp điều chỉnh vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Cũng trong Hội thảo này, Trương Đình Chiến đã có những phân tích về mối quan
hệ giữa nhà nước mà trực tiếp là chính quyền các cấp với thị trường và doanh
21



×