Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

DSpace at VNU: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài tại Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.99 KB, 16 trang )

Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài bằng trọng tài tại Việt Nam - những
vấn đề lý luận và thực tiễn
Vũ Thị Ngân Hà
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Phan Chí Hiếu
Năm bảo vệ: 2006
Abstract: Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài (TCTMCYTNN) bằng phương thức trọng tài nhằm chỉ
ra những ưu điểm, nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này. Phân tích
những quy định pháp luật về giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài để chỉ ra những
điểm chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Từ đó đề xuất những kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài, góp phần nâng cao vị thế của trọng tài trong giai
đoạn hiện nay đối với việc giải quyết các tranh chấp thương mại, đặc biệt là
TCTMCYTNN
Keywords: Luật kinh tế; Tranh chấp thương mại; Trọng tài kinh tế; Việt Nam

Content
I. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cùng với sự giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng thì hoạt động thương
mại giữa nước ta và các nước diễn ra ngày càng nhiều, đặc biệt là khi chúng ta đang tiến gần đến
việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Có nhiều quan hệ thương mại với các quốc
gia khác cũng đồng nghĩa với việc có nhiều tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài (sau đây
gọi tắt là TCTMCYTNN) phát sinh. Do các tranh chấp này chứa đựng nhân tố nước ngoài nên có
những đặc thù riêng so với các tranh chấp thương mại khác, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu
riêng đối với việc giải quyết chúng.
Trên thế giới, phương thức trọng tài thường được các bên tranh chấp lựa chọn để giải quyết
TCTMCYTNN. So với thương lượng, hoà giải, Toà án thì trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp có nhiều điểm thích hợp với các TCTMCYTNN vì nó cho phép các bên được thoả
thuận chọn Trọng tài viên, chọn luật áp dụng, ngôn ngữ, địa điểm và thủ tục tố tụng trọng tài để




giải quyết tranh chấp. Ngoài ra thủ tục giải quyết thông qua trọng tài khá đơn giản, nhanh gọn,
phán quyết của trọng tài là chung thẩm...
Tại Việt Nam, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu đổi mới pháp luật về giải
quyết tranh chấp, đặc biệt là giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài đã được Đảng và Nhà
nước ta coi là một biện pháp bảo đảm quan trọng cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư
nước ngoài. Ngày 25/02/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trọng tài
thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH (gọi tắt là PLTTTM) và ngày 15/01/2004, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của PLTTTM.
Những quy định mới, tiến bộ của PLTTTM được ban hành với mục đích tạo cơ sở pháp lý cho
sự phát triển của trọng tài thương mại ở nước ta, giúp giải quyết nhanh chóng các tranh chấp
thương mại, giảm bớt gánh nặng của Tòa án. Tuy nhiên, sau hơn ba năm triển khai trên thực tế
PLTTTM để giải quyết các tranh chấp thương mại (trong đó gồm cả các tranh chấp có yếu tố
nước ngoài) đã bộc lộ nhiều vướng mắc làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp
trong và ngoài nước vào phương thức giải quyết tranh chấp này. Do đó, nghiên cứu về giải quyết
TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp để hoàn
thiện pháp luật trọng tài, nâng cao hiệu quả của việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại
Việt Nam trong điều kiện hiện nay là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Tính đến nay đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các quy định pháp luật
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài tại Việt nam. Tuy nhiên, hầu hết các
công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu về trọng tài phi chính phủ tại Việt Nam, giải
quyết tranh chấp thương mại (chủ yếu là các tranh chấp trong nước) bằng trọng tài Việt Nam từ
trước khi PLTTTM được ban hành nên chưa tiếp cận trực tiếp đến các quy định trong PLTTTM.
Tính đến thời điểm hiện tại chưa có công trình nghiên cứu tổng thể, phân tích chi tiết về giải
quyết tranh chấp thương mại nói chung, TCTMCYTNN bằng trọng tài Việt Nam nói riêng trên
cơ sở các quy định của PLTTTM. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đây về
trọng tài Việt Nam và giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tại Việt Nam, luận văn tập
trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng của việc giải quyết các
TCTMCYTNN tại các Trung tâm trọng tài của Việt Nam, phân tích những quy định của

PLTTTM về vấn đề này và việc thi hành chúng trên thực tiễn.
II.

Mục đích nghiên cứu của luận văn.

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải
quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam, chỉ ra những điểm hợp lý, tiến bộ cũng như
những vấn đề còn tồn tại trong pháp luật hiện hành về vấn đề này để từ đó đề xuất những kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại theo hướng phù hợp với thực tiễn
áp dụng và thông lệ quốc tế.
III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải
quyết những TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam. Luận văn tập trung nghiên cứu việc
giải quyết các TCTMCYTNN bằng trọng tài từ khi hình thành trọng tài phi chính phủ tại Việt
Nam đặc biệt là từ giai đoạn ban hành PLTTTM năm 2003 đến nay.


- Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong việc tìm hiểu phân tích các đặc trưng của
TCTMCYTNN, các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết các tranh chấp dạng này; sự phù hợp,
vai trò của phương thức trọng tài đối với các TCTMCYTNN; phân tích các quy định của
PLTTTM đối với việc giải quyết các TCTMCYTNN tại Việt Nam; tìm hiểu thực tiễn giải quyết
TCTMCYTNN tại các Trung tâm trọng tài Việt Nam từ đó nêu lên những điểm bất cập của pháp
luật về trọng tài đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục.
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lê Nin về chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề
tài đặt ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và
khảo sát thực tiễn.
V.


Kết quả của luận văn

Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về vai trò cũng như những đặc điểm
riêng của việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng phương thức trọng tài so với các
phương thức giải quyết tranh chấp khác, đánh giá về thực trạng việc giải quyết TCTMCYTNN
bằng con đường trọng tài kể từ khi Pháp lệnh trọng tài ban hành ngày 25/02/2003 đến nay và đề
xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài nhằm nâng cao vai trò chủ động của
trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
VI.

Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu thành
ba chương:
Chương 1: Khái quát về TCTMCYTNN và giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài
bằng trọng tài tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng giải quyết các TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả của trọng tài trong việc giải quyết
tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài
Chƣơng 1:
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI CÓ YẾU
TỐ NƢỚC NGOÀI BẰNG
TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và các đặc trƣng pháp lý của TCTMCYTNN
1.1.1 Khái niệm TCTMCYTNN

Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp là những những xung đột, bất đồng về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. TCTMCYTNN là những mâu thuẫn,
bất đồng xảy ra trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài (một số



tài liệu còn gọi là hoạt động thương mại quốc tế). Trên thế giới, tính chất quốc tế của các quan hệ
thương mại được hiểu không giống nhau và căn cứ trên nhiều tiêu chí khác nhau nhưng nhìn
chung đều căn cứ vào ba dấu hiệu là: chủ thể trong quan hệ tranh chấp là các bên có quốc tịch
khác nhau hoặc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; đối tượng của quan hệ tranh chấp
như hàng hoá, dịch vụ... ở nước ngoài; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan
hệ tranh chấp xảy ra ở nước ngoài. Trên cơ sở tham khảo, phân tích các quan niệm khác nhau ở trong
nước và trên thế giới về tranh chấp thương mại, tính chất quốc tế của các tranh chấp thương mại, luận
văn đã đưa ra một khái niệm riêng về TCTMCYTNN. Theo đó, TCTMCYTNN được hiểu là những
mâu thuẫn, bất đồng liên quan đến quyền và lợi ích kinh tế giữa các bên tranh chấp khi tham gia
vào các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của TCTMCYTNN

Các TCTMCYTNN là những tranh chấp vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ của một quốc gia
và có những dấu hiệu đặc trưng so với các tranh chấp thương mại ở trong nước. Luận văn đã
nghiên cứu và chỉ ra các đặc điểm pháp lý nổi bật của TCTMCYTNN là:
Thứ nhất, một trong những dấu hiệu đặc thù của quan hệ TCTMCYTNN là một hoặc các
bên chủ thể có quốc tịch nước ngoài.
Thứ hai, căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp ở nước ngoài
Thứ ba, tài sản tranh chấp ở nước ngoài
Thứ tư, luật áp dụng để giải quyết TCTMCYTNN bao gồm: điều ước quốc tế, pháp luật
các quốc gia, án lệ, tập quán thương mại.
1.2 Giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài
1.2.1 Các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết các TCTMCYTNN

Xuất phát từ những đặc trưng của hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài, việc giải
quyết TCTMCYTNN phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, việc giải quyết các TCTMCYTNN phải phù hợp với thông lệ quốc tế
Thứ hai, việc giải quyết TCTMCYTNN phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên

Thứ ba, việc giải quyết TCTMCYTNN phải nhanh chóng, chính xác và công bằng
Thứ tư, việc giải quyết TCTMCYTNN phải bảo đảm bí mật kinh doanh của các bên đồng
thời duy trì quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên
1.2.2 Các phương thức giải quyết TCTMCYTNN

Mỗi nước, tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, có thể có nhiều phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại. Các thương nhân lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp theo thói
quen, tập quán thương mại, tính hiệu quả và sự thuận lợi của phương pháp giải quyết tranh chấp
thương mại. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại cũng như
mặt bằng trình độ dân trí, văn hoá kinh doanh cũng là yếu tố quan trong tác động đến việc lựa


chọn phương thức giải quyết TCTMCYTNN. Tại Việt Nam, các bên tranh chấp có thể lựa chọn
những phương thức sau để giải quyết TCTMCYTNN: thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài.
Luận văn đã phân tích nhằm chỉ ra rằng trong các phương thức trên, phương thức trọng tài có
nhiều điểm phù hợp với việc giải quyết TCTMCYTNN, đáp ứng được yêu cầu của các bên tranh
chấp vì các lý do sau:
Thứ nhất, giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tạo điều kiện tối đa để phát huy khả
năng tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Thứ hai, Trọng tài giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử không công khai.
Thứ ba, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng tạo ra cho các bên đương sự cơ
hội để tự chọn Trọng tài viên là những chuyên gia trong lĩnh vực đang có tranh chấp, có khả năng nắm
bắt và giải quyết nhanh nhất những vấn đề mà các bên đương sự yêu cầu.
Thứ tư, thủ tục trọng tài thường linh hoạt, thông thoáng, các bên còn có thể tự thoả thuận
xây dựng quy tắc tố tụng riêng để giải quyết vụ tranh chấp.
1.2.3 Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết TCTMCYTNN

Trọng tài có vai trò quan trọng đối với việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói
chung, các TCTMCYTNN nói riêng, cụ thể:
- Trọng tài hỗ trợ đắc lực cho Toà án trong việc giải quyết tranh chấp.

- Trọng tài bảo đảm tối đa quyền tự do thoả thuận của các bên tranh chấp.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng sẽ rút ngắn thời gian kiện tụng, làm giảm thiểu
những chi phí, tổn thất do việc theo kiện và đảm bí mật kinh doanh cho các bên tranh chấp.
- Đặc biệt, đối với doanh nghiệp Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài
bằng trọng tài Việt Nam sẽ giúp họ được tham gia vụ kiện ngay tại “sân nhà”.
1.3 Pháp luật về giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài
Pháp luật về giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài được cấu thành bởi hai bộ phận có
mối quan hệ khăng khít là pháp luật hình thức và pháp luật nội dung.
1.3.1 Pháp luật nội dung:

Pháp luật nội dung là tất cả những điều khoản có liên quan trong các điều ước quốc tế, tập
quán quốc tế, pháp luật quốc gia... được áp dụng để điều chỉnh quan hệ TCTMCYTNN. Liên
quan đến việc xác định pháp luật nội dung của việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài,
luận văn cũng trình bày về các hiện tượng xung đột pháp luật của các bên tranh chấp và xung
đột giữa thoả thuận các bên và pháp luật.
1.3.2 Pháp luật hình thức

Pháp luật hình thức liên quan đến việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt
Nam bao gồm hai bộ phận: PLTTTM và các văn bản hướng dẫn thi hành; Quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài hoặc quy tắc tố tụng theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Trong phạm


vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật hình thức về giải quyết TCTMCYTNN tại Việt Nam mà trọng tâm là quy định pháp
luật của PLTTTM.
1.3.3 Quan hệ giữa pháp luật – quy tắc tố tụng và sự thoả thuận của các bên trong việc giải quyết

TCTMCYTNN bằng trọng tài
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tạo cho các bên quyền tự định đoạt tối đa trong
việc lựa chọn pháp luật áp dụng. Ngược lại, các quy định của pháp luật cũng chính là những căn

cứ để đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp của thỏa thuận giữa các bên tranh chấp.


THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI BẰNG
TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM

2.1 Về thẩm quyền giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam
Theo khoản 1 Điều 2 PLTTTM, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận. Như vậy, một vụ TCTMCYTNN thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau: thứ nhất, tranh chấp phát
sinh từ hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài; thứ hai, các bên có thỏa thuận chọn trọng tài
để giải quyết vụ tranh chấp đó.
2.1.1 Các TCTMCYTNN được giải quyết bằng trọng tài Việt Nam

Luận văn tập trung phân tích các quy định tại khoản 2 Điều 4, khoản 3 Điều 2 PLTTTM
nhằm làm rõ thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại có
yếu tố nước ngoài của các Trung tâm trọng tài Việt Nam. Về cơ bản, PLTTTM đã mở rộng thẩm
quyền trọng tài theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý để trọng tài thương
mại Việt Nam tiến gần với các Trung tâm trọng tài quốc tế trên thế giới về mặt thẩm quyền trong
việc giải quyết TCTMCYTNN. Tuy nhiên, các quy định của PLTTTM vẫn bộc lộ những hạn chế
sau:
Thứ nhất, việc định nghĩa theo cách liệt kê cụ thể các hành vi được coi là hoạt động thương
mại như quy định tại khoản 3 Điều 2 của PLTTTM có nhược điểm là thiếu tính khái quát, không
bao quát hết những hoạt động thương mại trên thực tế cũng như không dự liệu được những hoạt
động thương mại có thể được thực hiện trong tương lai.
Thứ hai, các quy định liên quan đến chủ thể của quan hệ TCTMCYTNN vẫn chưa được cụ
thể, đầy đủ, cách sử dụng thuật ngữ chưa chuẩn xác, thể hiện:
- PLTTTM quy định chủ thể của các hoạt động thương mại là các “cá nhân, tổ chức kinh
doanh” nhưng không giải thích rõ về các thuật ngữ này và chưa xác định các tiêu chuẩn để trở

thành chủ thể của quan hệ thương mại nói chung, quan hệ tranh chấp thương mại nói riêng.
-Việc quy định một hoặc các bên chủ thể của quan hệ TCTMCYTNN là người nước ngoài,
pháp nhân nước ngoài là chưa đầy đủ bởi lẽ còn thiếu các trường hợp liên quan đến yếu tố “cư
trú” của chủ thể.
- Thứ ba, PLTTTM chưa đề cập đến những tranh chấp có tính chất kinh doanh, thương mại
nhưng không được giải quyết theo thủ tục trọng tài.
2.1.2 Hiệu lực của thoả thuận trọng tài

Luận văn đã tiến hành nghiên cứu toàn diện các quy định của pháp luật về thoả thuận trọng
tài, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định này để làm rõ nội dung và ý nghĩa của chúng trong
việc điều chỉnh các quan hệ tranh chấp. Nhìn chung, những quy định của PLTTTM về thoả thuận


trọng tài khá chi tiết, toàn diện, phù hợp với các quy định trong Luật mẫu và pháp luật trọng tài
của các quốc gia trên thế giới, tạo cơ sở pháp lý để mở rộng thẩm quyền giải quyết
TCTMCYTNN tại các Trung tâm trọng tài Việt Nam. So với các văn bản pháp luật trước kia,
PLTTTM đã có những quy định mới, tiến bộ liên quan đến việc xác định hiệu lực của thoả thuận
trọng tài như hình thức của thoả thuận trọng tài, sự độc lập của thoả thuận trọng tài trong mối
quan hệ với hợp đồng đã được ký kết giữa các bên, nguyên tắc Toà án phải từ chối thụ lý vụ
tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài hợp pháp...
Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích thực tiễn xét xử các TCTMCYTNN nói riêng trong thời gian
qua luận văn đã chỉ ra một số căn cứ pháp lý để tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu tại Điều 10
PLTTTM chưa thật sự rõ ràng nên đã dẫn đến những cách hiểu không thống nhất khi xem xét tính
hiệu lực của thoả thuận trọng tài, cụ thể:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 10 PLTTTM chưa điều chỉnh bao quát hết các tình huống thực tế
phát sinh liên quan đến việc ký kết thỏa thuận trọng tài sai thẩm quyền.
Thứ hai, quy định tại khoản 4 Điều 10 PLTTTM rất chung chung, không rõ ràng dẫn đến
tình trạng khó áp dụng hoặc hiểu sai trên thực tế.
2.2 Vấn đề xác định luật nội dung và quy tắc tố tụng
2.2.1 Xác định luật nội dung


2.2.1.1 Áp dụng luật do các bên lựa chọn
Do TCTMCYTNN có thể được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau nên đồng thời
với việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên cũng cần lựa chọn
pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài sẽ xét xử tranh chấp dựa trên pháp
luật do chính các bên đã lựa chọn. Đối với vụ TCTMCYTNN tại Việt Nam các bên có thể áp
dụng một trong các nguồn luật sau:
- Điều ước quốc tế;
- Pháp luật Việt Nam;
- Pháp luật nước ngoài;
- Tập quán thương mại;
2.2.1.2 Áp dụng luật theo quyết định của Hội đồng trọng tài
Trong trường hợp các bên tranh chấp không có thỏa thuận về luật áp dụng (do các bên
không thỏa thuận được với nhau hoặc do họ hy vọng rằng sẽ không có tranh chấp xảy ra) hoặc
điều khoản thỏa thuận quá chung chung, không rõ ràng thì Hội đồng trọng tài sẽ phải dựa vào
các quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế của nước mình để xác định luật áp dụng cho tranh
chấp.
2.2.2 Xác định quy tắc tố tụng

Đối với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên được toàn quyền thoả thuận về
việc áp dụng những quy tắc tố tụng của các Trung tâm trọng tài trong nước, nước ngoài cũng như
những quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế. Đây là một quy định tương đối thoáng, thể hiện sự


tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp. Tuy nhiên luận văn cũng phân tích tình
huống thực tiễn nhằm đánh giá về những cách hiểu chưa chính xác, chưa phù hợp với quy định
pháp luật của một số Trung tâm trọng tài trong nước. Ví dụ, việc VIAC từ chối thụ lý vụ tranh
chấp giữa Centrimex và Liven Agrichem do các bên tranh chấp lựa chọn VIAC nhưng không
chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC mà lại chọn Quy tắc tố tụng của Tòa án Trọng tài quốc
tế ICC để giải quyết tranh chấp.

2.3 Các biện pháp hỗ trợ của Toà án đối với các bên trong TCTMCYTNN
Một trong những điểm mới của PLTTTM là đã xây dựng được cơ chế hỗ trợ và giám sát
của cơ quan tư pháp đối với tố tụng trọng tài. Những quy định về vấn đề này của PLTTTM mang
đến cho trọng tài những đảm bảo hiệu quả trong việc giải quyết các TCTMCYTNN. Theo quy
định của PLTTTM, khi vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, Toà án phải có sự hỗ trợ
cho các bên tranh chấp trong một số trường hợp nhất định. Các biện pháp hỗ trợ của Toà án với
trọng tài bao gồm:
2.3.1 Xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài

Toà án có thẩm quyền xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài để đảm bảo thực thi những
thỏa thuận có giá trị pháp lý cũng như kịp thời đình chỉ những thỏa thuận vô hiệu nhằm giúp các
bên không tốn kém về thời gian, tiền bạc trong quá trình giải quyết tranh chấp.
2.3.2 Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên

Toà án sẽ tiến hành chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đối với hình thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài do các bên thành lập nếu bị đơn từ chối việc chỉ định Trọng tài viên hoặc hai
Trọng tài viên do các bên lựa chọn không chọn được Trọng tài viên thứ ba để thành lập Hội đồng
trọng tài (Điều 26 PLTTTM). Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Toà án có thể chỉ định
Trọng tài viên có tên trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm
trọng tài của Việt Nam hoặc là Trọng tài viên nước ngoài theo quy định của pháp luật về trọng
tài nước đó (Khoản 3 Điều 49 PLTTTM).
2.3.3 Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Sự hỗ trợ của Tòa án đối với các bên tranh chấp trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của PLTTTM là rất cần thiết nhằm đảm bảo cho quá trình xét xử vụ tranh
chấp bằng trọng tài tại Việt Nam được tiến hành thuận lợi và hiệu quả. Tuy nhiên, luận văn cũng
chỉ ra những thiếu sót của pháp luật về vấn đề này nhằm khắc phục tình trạng bên bị kiện trong
vụ tranh chấp thường dựa vào “kẽ hở” này của pháp luật để tranh thủ tẩu tán tài sản, chứng cứ vi
phạm.
2.3.4 Huỷ quyết định trọng tài


Trên cơ sở phân tích các căn cứ pháp luật để huỷ quyết định trọng tài, Luận văn chỉ ra
những điểm cần làm rõ hơn, tránh tình trạng huỷ quyết định trọng tài một cách tuỳ tiện:


- Thứ nhất, pháp luật về trọng tài không đưa ra những dấu hiệu cụ thể để xác định khi nào
Trọng tài viên bị xem là đã không “vô tư”, “khách quan” khi giải quyết tranh chấp.
- Thứ hai, pháp luật chưa làm rõ khi nào thì một quyết định trọng tài bị xem là trái với lợi
ích công cộng của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
2.4 Thủ tục giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam
Luận văn đã khái quát các bước tiến hành giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt
Nam bao gồm:
- Một là, thủ tục nộp đơn kiện;
- Hai là, tiến hành phiên họp xét xử vụ tranh chấp;
- Ba là, thủ tục ra quyết định trọng tài;
- Bốn là, thi hành quyết định trọng tài. Đây là thủ tục có ý nghĩa quan trọng và được luận
văn tập trung phân tích. Việc thi hành các quyết định trọng tài trong các vụ TCTMCYTNN vô
cùng phức tạp, bởi lẽ các quyết định đó có thể được thi hành tại Việt Nam hoặc thi hành tại một
quốc gia khác.
Đối với việc thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam: So với các quy định pháp luật
trước đây, điểm mới của PLTTTM là cho phép bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền
làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên
phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài. Tuy nhiên, thực tế thi hành các phán quyết của các
Trung tâm trọng tài tại Việt Nam trong hơn ba năm vừa cho thấy không đạt những kết quả khả
quan như mong đợi, các quyết định của các Trung tâm trọng tài vẫn chưa được các cơ quan chức
năng hỗ trợ thi hành, thiếu tính cưỡng chế do thiếu các quy định pháp luật cũng như những khó
khăn từ phía các cơ quan chức năng.
Việc thi hành quyết định trọng tài ở nước ngoài cũng chưa thực sự khả thi do những khó
khăn về thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam có thể gây ảnh hưởng đến
việc thực thi các quyết định của trọng tài Việt Nam tại các quốc gia khác theo nguyên tắc có đi

có lại.

Ch-¬ng 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA TRỌNG TÀI TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
Tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, việc lựa chọn trọng tài để giải quyết
các tranh chấp thương mại, đặc biệt là các TCTMCYTNN đã trở thành một “thói quen” của các
thương nhân. Tại Việt Nam, Đảng và nhà nước ta cũng đã có nhiều biện pháp, chính sách tích
cực nhằm phát huy vị trí, vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các loại tranh chấp thương


mại trong và ngoài nước như xây dựng pháp luật về trọng tài, tạo điều kiện để thành lập các
Trung tâm trọng tài, tiến hành các chương trình thực trạng hoạt động của trọng tài…Tuy nhiên,
thực tế cho thấy các TCTMCYTNN được giải quyết bởi trọng tài tại Việt Nam còn rất ít, chưa
phản ánh đúng tình trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại đang diễn ra phổ biến và ngày càng
có chiều hướng gia tăng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chính vì thế để
phát huy hiệu quả của trọng tài đối với việc giải quyết TCTMCYTNN trong thời gian tới tác giả
luận văn đã đề xuất một số kiến nghị cụ thể sau:
3.1 Xây dựng các tiêu chí xác định thẩm quyền giải quyết TCTMCYTNN của trọng tài
Để pháp luật trọng tài thực sự phù hợp với đời sống thực tiễn, đảm bảo tôn trọng quyền
định đoạt của các bên khi thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp PLTTTM cần phải
sửa đổi hoặc quy định cụ thể hơn về các vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định rõ hơn phạm vi các vụ TCTMCYTNN được giải quyết bằng trọng tài
tại Việt Nam trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Thứ hai, xác định rõ yếu tố chủ thể trong TCTMCYTNN theo hướng:
- Quy định chi tiết về các tiêu chí để trở thành các chủ thể trong quan hệ tranh chấp thương
mại như tiêu chí về đăng ký kinh doanh hoặc/và mục tiêu lợi nhuận.
- Bổ sung yếu tố nơi cư trú của chủ thể vào định nghĩa về tranh chấp có yếu tố nước ngoài
tại khoản 4 Điều 2 PLTTTM.
Thứ ba, bổ sung, hướng dẫn chi tiết hơn đối với các quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu:

- Cần bổ sung vào khoản 2 điều 10 PLTTTM quy định thỏa thuận trọng tài do người không
đúng thẩm quyền ký sẽ không bị vô hiệu nếu sau đó có văn bản chấp nhận của người có thẩm
quyền về thỏa thuận trọng tài này.
- Pháp luật trọng tài cần có hướng dẫn cụ thể về trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu do
không nêu rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp quy định tại khoản 4 Điều
10 PLTTTM để giúp các bên tranh chấp dễ dàng lựa chọn tổ chức trọng tài một cách chuẩn xác.
Theo tác giả luận văn, một thỏa thuận trọng tài sẽ bị coi là không nêu rõ tổ chức trọng tài trong
các trường hợp sau:
- Không xác định chính xác tên, hình thức của tổ chức trọng tài được lựa chọn;
- Lựa chọn tổ chức trọng tài không phải là duy nhất.
Tuy nhiên, nếu thỏa thuận trọng tài quy định không rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp song qua thỏa thuận đó có thể xác định được ý chí thực của các bên về việc
chọn một tổ chức trọng tài cụ thể thì khi đó thỏa thuận trọng tài không thể bị coi là vô hiệu
3.2 Hoàn thiện các quy định về thủ tục trọng tài
3.2.1 Hoàn thiện các quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Liên quan đến vấn đề này luận văn kiến nghị một số vấn đề cần hoàn thiện, đó là:


Thứ nhất, trong thời gian tới pháp luật cần trao cho các bên tranh chấp quyền được yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay từ khi Trung tâm trọng tài thụ lý vụ kiện. Đồng thời
pháp luật cũng cần làm rõ thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu
cầu của các bên kể từ khi vụ kiện được Trung tâm trọng tài tiếp nhận cho đến trước khi thành lập
Hội đồng trọng tài.
Thứ hai, để thực thi một cách hiệu quả các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của
các bên trong các vụ TCTMCYTNN Nhà nước ta cần tăng cường tham gia ký kết các điều ước
quốc tế song phương và đa phương về vấn đề này và các cơ quan tư pháp cũng cần tích cực nhìn
nhận vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án nước ngoài tại Việt Nam nhằm
tạo tiền đề cho sự hợp tác trên cơ sở có đi có lại đối với việc thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm
thời tại quốc gia nước ngoài.

3.2.2 Đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài

Theo tác giả luận văn, vấn đề thi hành quyết định trọng tài quy định tại Điều 57 của
PLTTTM được đánh giá là một trong những điểm tiến bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế hơn so
với các quy định của pháp luật trọng tài trước đây. Tuy nhiên, những đảm bảo về mặt pháp lý
trên có lẽ vẫn là chưa đủ để các phán quyết của trọng tài được tôn trọng thực thi cả trong và
ngoài nước. Chúng ta cần có những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những nguyên nhân
khiến các quyết định trọng tài gặp khó khăn khi áp dụng trên thực tế mà cụ thể là:
Thứ nhất: Pháp luật thi hành án cần có những quy định cụ thể thủ tục thi hành các quyết
định trọng tài trong và ngoài nước.
Thứ hai: Tăng cường năng lực của cơ quan thi hành án
Thứ ba: Các cơ quan nhà nước cần có thái độ tích cực và thiện chí hơn trong việc công
nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài.
3.3 Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho hoạt động của trọng tài
3.3.1 Đảm bảo sự hỗ trợ của Toà án đối với các bên tranh chấp trong quá trình giải quyết các

TCTMCYTNN
PLTTTM đã thiết lập được cơ chế tòa án hỗ trợ và giám sát tương đối chặt chẽ và hợp lý
trong suốt quá trình tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, những quy định pháp luật liên quan đến căn cứ
để tòa án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của PLTTTM hiện nay đang có những rủi ro đối
với hiệu lực của quyết định trọng tài và việc sửa đổi, bổ sung chúng là rất cần thiết, cụ thể:
Thứ nhất, cần làm rõ những dấu hiệu để nhận biết sự không “vô tư, khách quan” khi
giải quyết vụ tranh chấp của Trọng tài viên theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 13
PLTTTM theo hướng tham khảo các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự.
Thứ hai, cần làm rõ về cách hiểu khi nào quyết định của trọng tài trái pháp luật công cộng
Việt Nam.
3.3.2 Nâng cao năng lực đội ngũ Trọng tài viên


Để phát triển số lượng và chất lượng đội ngũ Trọng tài viên tại các Trung tâm trọng tài

Việt Nam hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp là:
Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi những đối tượng có thể trở thành Trọng tài viên. Điều kiện
trở thành Trọng tài viên cần được mở rộng, mang tính linh hoạt hơn, trong đó Nhà nước chỉ đưa
ra một số điều kiện khung, còn các Trung tâm trọng tài được quyền đưa ra các tiêu chuẩn của
riêng mình trên cơ sở tuân thủ các quy định chung.
Thứ hai, các Trung tâm trọng tài cần chủ động, tích cực hơn trong việc mở rộng danh sách
Trọng tài viên, đặc biệt chú trọng tới các chuyên gia có uy tín và trình độ chuyên môn cao.
Thứ hai, các Trung tâm trọng tài cũng cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cũng
như những kỹ năng tố tụng của các Trọng tài viên hiện có nhằm nâng cao chất lượng giải quyết
tranh chấp của Trung tâm.
Thứ ba, bên cạnh đội ngũ Trọng tài viên là công dân Việt Nam, có lẽ nên cho phép Trọng
tài viên nước ngoài có tên trong danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm trọng tài Việt Nam.
3.3.3 Nâng cao nhận thức của các nhà kinh doanh về trọng tài

Để các nhà kinh doanh trong và ngoài nước có thể yên tâm khi chọn các Trung tâm trọng
tài kinh tế của Việt nam để giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa họ thì cần có những biện
pháp phối hợp nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ doanh nhân, các luật sư tư vấn doanh
nghiệp về trọng tài, cụ thể:
Thứ nhất, đối với đội ngũ doanh nhân trong và ngoài nước, cần nâng cao nhận thức của họ
về những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam.
Thứ hai, kiến thức của các luật sư đang hành nghề về giải quyết tranh chấp thương mại và
trọng tài được cải thiện
Thứ ba, chính bản thân các Trung tâm trọng tài Việt Nam cũng phải có những hoạt động
tích cực nhằm quảng bá, nâng cao uy tín của mình đối với các khách hàng

KẾT LUẬN
Nếu trên thế giới trọng tài phi chính phủ đã tồn tại, phát triển lâu đời thì việc sử dụng
trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại trong đó có TCTMCYTNN tại Việt Nam vẫn
còn là một vấn đề tương đối mới mẻ cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Vì thế việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận cũng như thực trạng về giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt

Nam nhằm đưa ra những kiến nghị để phát huy hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp
này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một việc làm có ý nghĩa thiết
thực.
Dưới góc độ lý luận, TCTMCYTNN có thể hiểu là “những mâu thuẫn, bất đồng liên quan
đến quyền và lợi ích kinh tế giữa các bên tranh chấp khi tham gia vào các quan hệ thương mại có


yếu tố nước ngoài”. Do những tranh chấp dạng này chứa đựng “yếu tố nước ngoài” nên so với
các tranh chấp thương mại trong nước chúng có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng cũng như
những yêu cầu riêng về phương thức giải quyết tranh chấp. Trong số các hình thức giải quyết
tranh chấp hiện nay, hình thức trọng tài tỏ ra phù hợp hơn cả đối với việc giải quyết
TCTMCYTNN vì trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước mà nhân danh ý chí các bên
để phân xử, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các
bên, trọng tài xét xử không công khai, quyết định của trọng tài là chung thẩm.
Sự ra đời của PLTTTM, một văn bản có hiệu lực pháp lý cao đã củng cố vị trí, vai trò của
phương thức trọng tài trong hệ thống các hình thức giải quyết tranh chấp của nước ta. Tuy nhiên,
pháp luật về trọng tài bên cạnh những điểm mới, tiến bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết các TCTMCYTNN vẫn bộc lộ những điểm bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Các
quy định về xác định phạm vi trọng tài, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chưa rõ ràng, cụ thể,
một số căn cứ pháp lý để hủy quyết định của trọng tài quá chung chung dẫn đến sự tùy tiện của toà
án, sự thiếu vắng các quy định về quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi
Hội đồng trọng tài được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tranh chấp… chính là những
thiếu sót rất dễ nhận thấy của PLTTTM và là một trong những nguyên nhân khiến cho việc sử dụng
phương thức trọng tài trong việc giải quyết TCTMCYTNN gặp khó khăn trên thực tế.
Trong khi các Toà án đang phải đối mặt với tình trạng quá tải về số vụ tranh chấp phải xét
xử thì các Trung tâm trọng tài Việt Nam lại rơi vào tình trạng rảnh rỗi. Số lượng ít ỏi các vụ
tranh chấp thương mại thương mại có yếu tố nước ngoài được xét xử hàng năm chủ yếu tập trung
ở Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, còn ở các Trung tâm khác thì các vụ tranh chấp dạng
này được đem ra xét xử chỉ có thể tính trên đầu ngón tay. Sở dĩ có tình trạng trên ngoài nguyên
nhân là sự thiếu sót, thiếu tính khả thi trong một số quy định của pháp luật còn phải kể đến

những hạn chế về kinh nghiệm, nhân lực, tính chuyên nghiệp của các Trung tâm trọng tài và
nhận thức chưa đầy đủ, tích cực của các thương nhân trong và ngoài nước về trọng tài. Do đó, để
phát huy hơn nữa vai trò của tích cực của trọng tài đối với việc giải quyết TCTMCYTNN trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay cần phải phối
hợp đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài và xây dựng, hoàn thiện cơ chế
bảo đảm cho hoạt động của trọng tài trong hiện tại và tương lai./.
References
1.Các văn bản pháp luật và văn kiện của Đảng
2.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, NXB Chính trị
quốc gia, 2001.
3.Bộ luật tố tụng dân sự do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI, kỳ
họp thứ 5 thông qua ngày 15/06/2004.
4.Luật thương mại do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 14/06/2005.
5.Luật đầu tư do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 29/11/2005.
6.Luật luật sư do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá XI, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 29/06/2006.


7.Pháp lệnh trọng tài thương mại do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/02/2003.
8.Pháp lệnh thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
ban hành ngày 28/01/2004.
9.Nghị định số 25/2004/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/01/2004 quy định chi tiết thi
hành một số điều của PLTTTM.
10. Các tác phẩm
11. Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà nội,
2001.
12. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, NXB Tư pháp, 2006.
13. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Tư pháp, 2006.

14. Đại học Ngoại thương, Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB
Giáo dục, 2005.
15. Phái đoàn Uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam: Giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), NXB Chính trị quốc gia, 2000.
16. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam, 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, NXB
Chính trị Quốc gia, 2002.
17. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp: Chuyên đề Vấn đề công nhận và thi
hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài,
Thông tin khoa học pháp lý, 2002
18. Các tạp chí, công trình, đề tài khoa học
19. Quang Chung, Gian nan thi hành án dân sự, Thời báo kinh tế Sài Gòn điện tử số 20-2006
(804) ngày 11/05/2006.
20. Didie Xcoocnicki: Trọng tài quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, 1995.
21. Th.S Dương Văn Hậu, Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, NXB
Chính trị Quốc gia, 1999.
22. Phan Gia Hi, Giải quyết tranh chấp thương mại: trọng tài quá rảnh, toà quá tải, Báo
Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, ngày 11/08/2006.
23. TS. Phan Chí Hiếu, Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động trọng tài
thương mại Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số chuyên đề về Bộ luật tố tụng dân sự, năm
2005.
24. TS. Nguyễn Am Hiểu, Một số đặc điểm của pháp luật về trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/ 1997
25. Th.S Nguyễn Vũ Hoàng, Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường toà
án, NXB Thanh niên, 2004.
26. TS. Đào Văn Hội, Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay,
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004.
27. TS. Dương Đăng Huệ, Những nguyên nhân làm làm hạn chế tác dụng của Trọng tài
thương mại và những giải pháp khắc phục, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1999.
28. Trần Hữu Huỳnh, Một số vấn đề cơ bản về thoả thuận trọng tài trong thương mại quốc
tế, Tạp chí Luật học, số 1/2000.

29. Trần Hữu Huỳnh, Pháp lệnh trọng tài những thử thách phía trước, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 4/2003.
30. Đặng Thị Bích Liễu, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng tài, NXB
Chính trị Quốc gia, 1998
31. Dương Thanh Mai, Việc tiếp nhận Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại
quốc tế ở một số nước và việc xây dựng dự thảo PLTTTM, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 8/1998.
32. Lê Hoàng Oanh, Chế định thương nhân trong Luật thương mại, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 8/2004.


33. TS. Nguyễn Như Phát, Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng kinh tế, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 11/2001.
34. TS. Nguyễn Văn Quyền, Đổi mới pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2001.
35. PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết, Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu - án lệ trọng tài và
kinh nghiệm, NXB Chính trị quốc gia, 2002.
36. TS. Nguyễn Trung Tín, Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại
tại Việt Nam, NXB Tư pháp, 2005.
37. TS. Nguyễn Trung Tín, Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 9/2004.
38. Bùi Ngọc Toàn, Trọng tài thương mại - một hình thức chiếm ưu thế trong việc giải quyết
tranh chấp thương mại ở các nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
9/1993.
39. Steward D.P: “Thi hành quốc gia đối với các quyết định trọng tài theo các hiệp định và
công ước”, Trọng tài quốc tế vào thế kỷ thứ 21: theo hướng tư pháp hoá và thống nhất,
NXB. Đa quốc gia Irvington, New York, 1994.
40. Các văn bản, báo cáo của các cơ quan, tổ chức
41. Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Thư chào mừng Đại hội Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam nhiệm kỳ III (2002-2005).

42. Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004”.
43. Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệng Trọng tài Thương mại.
44. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Báo cáo kết quả hoạt động nhiệm kỳ II (1998-2001)
và phương hướng hoạt động của nhiệm kỳ III (2002-2005).
45. Trung tâm trọng tài kinh tế Hà nội (HEAC), Báo cáo tình hình hoạt động từ khi thành
lập đến nay, 2002.
46. Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn, Báo cáo tình hình hoạt động từ

khi thành lập đến

nay, 2002.
47. Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long (ECOARCEN), Báo cáo tóm tắt tình hình hoạt
động, 2002.
48. Trung tâm trọng tài kinh tế Cần Thơ , Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động, 2002.



×