Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.15 KB, 21 trang )

Đề tài số 12: Luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương
mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài
MỤC LỤC

Trọng tài thương mại được xem là một phương thức hiệu quả trong việc
giải quyết các tranh chấp giữa các bên tham gia hoạt động thương mại. Theo
Công ước quốc tế về Luật Trọng tài, các quyết định của trọng tài thương mại
có tính pháp lý tương đương của tòa án, có tính ràng buộc chặt chẽ. Nhưng so
với phán quyết của Tòa án, quyết định của trọng tài thương mại mềm dẻo hơn,
nhanh chóng hơn và được coi là kết quả cuối cùng nên không có trường hợp
kháng cáo. Các thủ tục phân xử trọng tài cũng không được công bố công khai,
giúp quá trình phân xử nhanh chóng.
Do đó, tìm đến trọng tài thương mại, các bên liên quan sẽ tiết kiệm được
nhiều thời gian, tiền bạc và không làm căng thẳng quan hệ. Với những ưu điểm
vượt trội của mình, trọng tài đã và đang là phương thức giải quyết tranh chấp
hiệu quả trong thương mại quốc tế.
Trong bài này, em xin trình bày những vấn đề pháp lý liên quan đến “Luật
áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng
trọng tài với những nội dung chủ yếu sau:
- Trọng tài thương mại và vai trò của nó trong việc giải quyết tranh chấp
thương mại có yếu tố nước ngoài
- Vấn đề xác định luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài bằng trọng tài
- Sự phát triển của luật trọng tài Việt Nam, mối tương quan của nó với
pháp luật quốc tế
I. TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI
1. Khái niệm về tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài

1




“Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp thương mại được hiểu là những bất
đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã
hội nhất định được pháp luật điều chỉnh.”1
Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là những mâu thuẫn, bất
đồng xảy ra trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế mà chủ
yếu là quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế. Theo khoản 4, Điều 3 Luật trọng
tài thương mại 2010, tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh
trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được
quy định tài Bộ luật dân sự.
2. Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng
tài
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong đó, các
bên tham gia tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ có một hoặc
một số người (trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài) giải quyết, và phán quyết
của trọng tài mang tính chất chung thẩm và bắt buộc thực hiện. Có thể hiểu
trọng tài một cách đơn giản là một biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính
chất pháp lý, giống như việc kiện tụng tại tòa án và hoàn toàn khác biệt với
nhóm các biện pháp không mang tính bắt buộc về mặt pháp lý như đàm phán,
trung gian, hay hòa giải.
Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay,
các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài xảy ra ngày càng nhiều và đòi
hỏi cần được giải quyết một cách nhanh gọn, thủ tục đơn giản, đảm bảo bí mật
và uy tín kinh doanh của các bên. Trong bối cảnh đó, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài dễ dàng phát huy hiệu quả so với các phương thức
giải quyết khác. Trọng tài với tư cách là “người thứ ba công bằng” đã được
khẳng định vai trò rất lớn trong việc giải quyết tranh chấp ở các nước và đang
dần trở thành phương thức được ưu tiên lựa chon tại Việt Nam hiện nay.
3. Những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

bằng trọng tài so với tòa án

1

Nguyên Bà Diến (Chủ biên), Giáo trình Luật Thương Mại Quốc tế, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội
2005, Tr 581

2


Vai trò của trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài là không thể phủ nhận. Phương thức giải quyết tranh chấp này có
nhiều điểm nổi bật hơn so với tòa án. Hiện nay, thay vì đưa nhau ra tòa khi xảy
ra tranh chấp, các bên trong quan hệ thương mại đã có xu hướng tìm đến sự hỗ
trợ từ phía trọng tài thương mại. Đây là xu hướng tất yếu khi mà những ưu
điểm của trọng tài trong bối cảnh kinh tế hiện nay rõ ràng đã vượt trội hơn so
với tòa án.
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh nước CHXHCN Việt
Nam quyết định đưa cụ tranh chấp ra xét xử theo trình tự tố tụng dân sự được
quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình tố tụng như vậy đương nhiên
phải chặt chẽ, với nhiều thủ tục rườm rà, thời gian kéo dài, xét xử công khai, án
được tuyên không tùy thuộc ý chí các bên mà là kết quả nghị án của Hội đồng
xét xử; án đã tuyên dù có quyền kháng cáo, những “gỡ” được không phải dễ. 2
Trong khi đó, trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận
giải quyết các vụ án tranh chấp khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản về việc
chọn trọng tài. Quá trình giải quyết được thực hiện theo nguyên tắc “phân xử
trọng tài” phù hợp với quy định trong Luật trọng tài thương mại và quy chế của
tổ chức trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
Xét về mặt tổng quát, so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa
án thì việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có một số

ưu điểm như sau:
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với
việc giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm
nổi bật so với tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài có
giá trị chung thẩm, tức là có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2
– 3 lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,
khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (Như viện
kiểm sát…). Còn cách thực giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và
kinh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt
2

Ths. Bạch Thị Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 14(151) tháng 7/2009, tr 23-29

3


buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án
hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết
xong, Ủy ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt
sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động
đầu tư thương mại. Nó đảm bảo răng các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi tham
gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho cả bên nước ngoài và
Việt Nam thông qua tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục
nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định
trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Tòa
án.

Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Tính bí mật của tố tụng trọng tài được coi là một trong các ưu điểm quan
trọng của trọng tài.Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng
biệt. Hầu hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc
trọng tài xử kín nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội
dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin
cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh
tranh.
Một cựu Tổng thư ký của ICC đã phát biểu: “Khi được yêu cầu đưa ra các
đặc điểm của trọng tài thương mại quốc tế có tính hấp dẫn các bên tranh chấp
so với tòa án, thì tính bí mật của trọng tài và thực tế là việc tố tụng này và các
phán quyết trọng tài được tuyên không được công khai, gần như lúc nào cũng
được nhắc đến”3
Với tính chất như vậy, cơ chế này đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín
nghề nghiệp của các thương nhân tham gia tranh chấp, tránh cho các chi tiết
của vụ tranh chấp phơi bày trước tòa án và công chúng – điều mà các doanh
nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục
3

Báo cáo chuyên gia của Stephen Bond, Esso/BHP kiện Plowman, (1995) 11 Arbitration International
No.8, trang 273

4


Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn
trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá
trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban
trọng tài) xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải

quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm
phán được chỉ định giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên quan
đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chuyên môn cao như:
dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng tài,
các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn phù
hợp với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính
xác trong giải quyết tranh chấp. Trọng tài viên – người chủ trì phân xử tranh
chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết
vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết
tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa
thuận.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh
chóng, linh hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án
về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó.
Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục,
thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện
lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá
trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do
luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ
sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án
cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng

5



trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6
tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà
khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ
hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những
bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ
nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối
tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết
định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong
quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên
đương sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu
biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên
ngành có tính chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ
chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên
các mặt sau:
Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết
định trọng tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị
xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp
chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để

6


ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay
đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi
giữ; phong toả tài khoản tại ngân hàng.
Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng
hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ
những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng
bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ
hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện trên các chứng
cứ pháp lý.
II. XÁC ĐỊNH LUẬT ÁP DỤNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
1. Tầm quan trọng của việc quy định luật áp dụng trong giải quyết
tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài
Khoản 2 điều 14 luật trọng tài 2010 quy định về luật áp dụng giải quyết
tranh chấp đối với tranh chấp có yêu tố nước ngoài như sau “đối với tranh châó
có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa
chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài
quyết định áp dụng pháp luật mà hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất”. Như
vậy, việc áp dụng luật nhằm giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước
ngoài là đảm bảo việc tự thỏa thuận của các bên, bên cạnh đó cũng khẳng định
vai trò của trọng tài trong xác định luật áp dụng.
Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài có
thể là luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài, điều ước quốc tế hay cũng có thể là
tập quán quốc tế.

Vấn đề luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố
nước ngoài bằng trọng tài cần đảm bảo cả pháp luật hình thức, pháp luật nội
dụng lẫn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài.
2. Luật áp dụng cho nội dung
Luật áp dụng cho nội dung sẽ xác định giá trị pháp lý của các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng, các bên cần phải

7


biết luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các điều khoản hợp đồng không phải
lúc nào cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên.
Trong thương mại quốc tế, luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa
chọn. Tùy theo khả năng đàm phán, luật áp dụng có thể là luật của quốc gia của
một bên, ví dụ như luật của nước bên bán hoặc bên mua hoặc là luật của một
nước trung lập. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng
thì Hội đồng Trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng.
2.1. Quyền thỏa thuận của các bên tranh chấp về luật áp dụng cho nội
dung
Pháp luật nội dung là tất cả những điều khoản có liên quan đến các điều
ước quốc tế, tập quán quốc tế, pháp luật quốc gia… được áp dụng để điều
chỉnh quan hệ tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài.
Thông thường người ta công nhân cho các bên tham gia vào hợp đồng
thương mại quốc tế có quyền tự do lựa chọn luật (hoặc các quy tắc pháp lý) 4 để
điều chỉnh hợp đồng. Cả các công ước quốc tế và các quy tắc mẫu về tố tụng
trọng tài thương mại quốc tế đều khẳng định các bên có quyền tự do lựa chọn
luật áp dụng cho hợp đồng của mình.
Quy tắc UNCITRAL quy định: “Hội đồng trọng tài áp dụng luật mà các
bên chọn làm luật áp dụng cho nội dung vu tranh chấp”.5
Trong số các quy tắc của các tổ chức trọng tài, quy tắc ICC quy định:

“Các bên được tự do thỏa thuận các quy tắc của luật được hội đồng trọng tài áp
dụng nội dung của vụ tranh chấp”.6
Như vậy, sự tồn tại của một hội đồng trọng tài quốc tế là do có sự thỏa
thuận của các bên và khi áp dụng luật do các bên chọn, hội đồng trọng tài chỉ
đơn thuần đang thực hiện thỏa thuận của các bên. Và “…mặc dù có nhiều điểm
không tương đồng, thông luật, dân luật và luật các nước xã hội chủ nghĩa đều
chịu ảnh hưởng như nhau trước xu thế tiến tới quy tắc cho phép các bên chọn
luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng của mình. Bước phát triển này diễn ra
không giống nhau ở mỗi nước và không hề có nỗ lực chung nào giữa các quốc
4

Ví dụ, có thể là luật của các thương nhân (lex mercatoria)
Điều 33.1 của Quy tắc Tố tụng Trọng tài UNCITRAL.
6
Điều 17.1 của Quy tắc Tố tụng Trọng tài ICC
5

8


gia trên thế giới; đây chính là hệ quả của sự phát triển riêng biệt diễn ra đồng
thời trên thực tế trong hệ thống xung đột pháp luật của các quốc gia”. 7
2.2. Vai trò của trọng tài trong việc xác định luật áp dụng
Pháp luật nội dung của các nước là không hoàn toàn giống nhau, thậm chí
là trái ngược nhau, các bên tranh chấp tất nhiên luôn có xu hướng tìm kiếm hệ
thống pháp luật mang lại lợi ích nhiều hơn cho mình, bởi vậy, không phải trong
vụ tranh chấp nào, các bên cũng có thể thỏa thuận được với nhau về việc lựa
chọn hệ thống pháp luật nào để giải quyết tranh chấp. Với thực tế đó, khi tố
tụng trọng tài bắt đầu, một trong những nhiệm vụ đầu tiên của hội đồng trọng
tài là xác định luật áp dụng cho hợp đồng – điều mà các bên của hợp đồng chưa

làm. Hội đồng trọng tài quyết định chọn luật áp dụng dựa vào các quy phạm
pháp luật xung đột, pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế.
Quy tắc UNCITRAL quy định rằng nếu các bên không quy định luật áp
dụng thì hội đồng trọng tài sẽ áp dụng “luật được xác định bởi các quy tắc xung
đột pháp luật được coi là thích hợp”.8
Luật Mẫu cũng quy định tương tự như vậy. 9 Quy định này nhằm chỉ rõ
rằng hội đồng trọng tài được quyền lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng, trong
trường hợp các bên không có sự lựa chọn luật một cách rõ ràng hoặc ngụ ý.
Trong trường hợp được quyền lựa chọn luật, các trọng tài viễn sẽ tiến hành lựa
chọn một cách khách quan, Trên thực tế, hội đồng trọng tài sẽ áp dụng luật mà
hội đồng trọng tài cho là phù hợp. Khi đi đến quyết định về luật áp dụng trong
trường hợp các bên không quy định, một hội đồng trọng tài có quyền (trừ khi
các quy tắc áp dụng hoặc luật điều chỉnh tố tụng trọng tài – lex arbitri có quy
định khác) “lựa chọn bất kỳ một hệ thống pháp luật hoặc quy tắc của luật nào,
theo đó bản thân các bên của hợp đồng đã thỏa thuận, nếu họ được làm như
vậy”.10
2.3. Nguồn luật được áp dụng

7

Julian D. M. Lew, Applicable Law in International Commercial Arbitration (1978), Trang 75
Điều 33 Quy tắc Tố tụng Trọng tài UNCITRAL.
9
Điều 28 (2) UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration
10
Alan Redfern and Martin Hunter with Nigel Blackaby and Constantine Partasides, Pháp luật và Thực
tiễn Trọng tài Thương mại Quốc tế, Tr.149
8

9



Thường thì việc giải quyết tranh chấp thương mại giữa các bên trong một
quốc gia được giải quyết theo quy định của pháp luật quốc gia đó. Pháp luật
thường quy định về các nội dung tranh chấp, hoạt động của trọng tài và nếu cần
thiết thì đó là việc thực thi các quyết định bởi tòa án. Điều này khác với việc
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường trọng tài. Theo bản
chất – tranh chấp giữa các chủ thể của các quốc gia khác nhau, địa điểm trọng
tài, nơi thực thi quyết định trọng tài và các nội dung khác – việc giải quyết các
tranh chấp thương mại này vượt ra khỏi tầm biên giới quốc gia.
Đa số các tranh chấp thương mại bằng trọng tài, tính hiệu quả của nó phụ
thuộc vào sự bổ trợ của các hệ thống pháp luật khác nhau, đó có thể là pháp
luật quốc gia, điều ước quốc tế, hay đơn giản hơn là tập quán thương mại giữa
các chủ thể trong hoạt động kinh doanh.
Pháp luật quốc gia
“Trong hầu hết các hợp đồng thương mại quốc tế, bao gồm cả các hợp
đồng có sự tham gia của phía nhà nước, hoặc một cơ quan nhà nước, thông
thường một hệ thống pháp luật nhất định sẽ được chọn làm luật áp dụng cho
hợp đồng”.11
Theo như nhận định trên, trong giao kết hợp đồng thương mại quốc tế, các
bên trong quan hệ hợp đồng có thể lựa chọn pháp luật Việt Nam hoặc hệ thống
pháp luật của bất kỳ nước nào làm luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp. Đó có
thể là luật của nước mà phía đối tác nước ngoài là chủ thể, hay cũng có thể là
luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng, hoặc là luật của nước mà
các bên chọn làm nơi giải quyết tranh chấp.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận trước về vấn đề này, hội đồng
trọng tài sẽ lựa chọn luật áp dụng, và pháp luật quốc gia cũng là một trong
những lựa chọn của họ.
. Điều ước quốc tế
Một trong những biện pháp thích hợp và hiệu quả nhất trong việc tạo lập

một hệ thống pháp luật để điều chỉnh hoạt động trọng tài thương mại quốc tế là
thông qua các công ước quốc tế (và gần đây là luật Mẫu). Các công ước quốc tế
11

Alan Redfern and Martin Hunter with Nigel Blackaby and Constantine Partasides, tài liệu đã dẫn, Tr
118

10


đóng vai trò kết nối các hệ thống pháp luật khác nhau vào thành một hệ thống
pháp luật thống nhất và dễ dàng trong việc áp dụng.
Công ước New York là một trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất
liên quan tới trọng tài thương mại quốc tế. “Quả thực như vậy, nó được coi như
là nhân tố chủ yếu trong tiến trình phát triển của trọng tài như là một phương
thức để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế”. 12 Mục tiêu của Công
ước New York là tạo ra những tiêu chuẩn pháp lý chung cho việc công nhận
các thỏa thuận trọng tài cũng như việc công nhận và thi hành các quyết định
trọng tài nước ngoài. Theo đó các quốc gia thành viên Công ước không được
phân biệt đối xử đối với các quyết định trọng tài nước ngoài và có nghĩa vụ
phải đảm bảo các phán quyết trọng tài nước ngoài được công nhận và có khả
năng thi hành giống như các quyết định trọng tài trong nước. Ngoài ra, Công
ước New York còn yêu cầu tòa án của các nước thành viên trao hiệu lực đầy đủ
cho thỏa thuận trọng tài bằng cách từ chối giải quyết các các tranh chấp có dẫn
chiếu đến một thoả thuận trọng tài.
Việt Nam gia nhập công ước New York vào ngày 12/12/1995, đây là một
trong nhưng nguồn luật áp dụng quan trọng khi giải quyết tranh chấp thương
mại có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh công ước New York, Việt Nam còn ký kết các Hiệp định song
phương, đa phương về thương mại, đầu tư, mà những hiệp định này cũng có

thể được lựa chọn trong giải quyết tranh chấp. Việt Nam đã ký kết hàng loạt
các Hiệp định thương mại với các nước như Ba Lan (1968), Australia (1990),
Trung Quốc (1991), đặc biệt là hiệp định thương mại Việt Mỹ BTA được ký
kết vào ngày 13/7/2000.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ đưa ra hai loại tranh chấp có thể áp dụng
thủ tục giải quyết bằng trọng tài, đó là tranh chấp thương mại và tranh chấp đầu
tư.
Hai loại tranh chấp trên có thể sẽ xảy ra khá phổ biến khi hai bên của hiệp
định xúc tiến các hoạt động thương mại và đầu tư. Nếu như ở những tranh chấp
thương mại, các bên tranh chấp chỉ là những công dân và công ty của hai nước,
12

Bản nghiên cứu đầy đủ về quá trình thực hiện của Công ước New York do Van Den Berg thực hiện.
Công ước về trọng tài năm 1858 (1981).

11


thì ở những tranh chấp đầu tư, một trong các bên tranh chấp có thể là một bên
của hiệp định, nghĩa là một quốc gia, do đó tính chất của loại tranh chấp thứ hai
trong một vài trường hợp sẽ phức tạp hơn rất nhiều so với loại tranh chấp thứ
nhất. Tuy nhiên, cho dù mức độ và tính chất của các loại tranh chấp này có thể
khác nhau, Hiệp định vẫn khuyến cáo các bên tham gia vào quan hệ giao dịch
thương mại cũng như quan hệ đầu tư nên thỏa thuận trước về hình thức giải
quyết trong trường hợp có tranh chấp phát sinh, đặc biệt khuyến khích các bên
thỏa thuận về việc sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp. Quan điểm này được
thể hiện rất rõ ràng ngay từ những phần mở đầu của hiệp định, điều đó phần
nào chứng tỏ hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được các bên của
hiệp định rất chú trọng. “Các bên khuyến khích việc sử dụng trọng tải để giải
quyết các tranh chấp từ các giảo dịch thương mại được ký kết giữa các công

dân và công ty của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và các công dân và
công ty của Hợp Chúng Quốc Hòa Kỳ.”13
Ngoài các hiệp định thương mại song phương như đã nói ở trên, vấn đề
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài còn được nhác đến trong nhiều
hiệp định khác như Hiệp định về khuyến khiacsh và bảo hộ đầu tư, hiệp định
về buôn bán hàng dệt may Việt Nam- Eu, Hiệp định khung về thiết lật khu vực
đầu tư ASEAN, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, …
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia là nguồn quan
trọng trọng viêc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài, là
nhân tố góp phần đơn giản hóa trong việc áp dụng luật cho giải quyết tranh
chấp.
Tập quán thương mại
Tập quán thương mại bao gồm các quy tắc và thực tiễn đã phát triển trong
các cộng đồng kinh doanh quốc tế. Luật này có thể thích ứng được với các nhu
cầu của thương mại quốc tế hiện đại và có thể áp dụng thống nhất. Luật trọng
tài thương mại 2010 của Việt Nam cũng thừa nhận việc sử dụng tập quán
thương mại làm cơ sở để giải quyết tranh chấp “Trường hợp pháp luật Việt
Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đề nội
13

Khoản 2, Điều 7 Hiệp định Thương Mại Việt Mỹ

12


dung tranh chấp thì hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải
quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.14
Quy tắc của các tổ chức trọng tài (như các quy tắc ICC) và các quy trắc
trọng tài quốc tế (như quy tắc UNCITRAL) đòi hỏi hội đồng trọng tài phải xem

xét tới các tập quán thương mại có liên quan. 15 Trong Luật Mẫu16 và một số
luật quốc gia, như Luật trọng tài Hà Lan17 1986 cũng có quy định tương tự
Việc tham khảo tập quán thương mại thường có thể bổ sung những thiếu
sót trong luật áp dụng, bởi các tập quán trong thế giới thương mại quốc tế có
thể phát triển nhanh hơn luật.18 Tuy nhiên, trọng tài viên không thể sao lãng
luật do các bên chọn với lý do họ đang xem xét các tập quán thương mại.
Nếu các bên đã không chọn được luật áp dụng, thì các trọng tài viên đôi
khi chỉ dựa trên các tập quán thương mại để nêu ra những căn cứ pháp lý cho
quyết định của họ. Nếu làm như vậy, các trọng tài viên sẽ phải dựa vào các
công ước quốc tế và/hoặc quy tắc tố tụng trọng tài quy định các trọng tài viên
có thể, hoặc sẽ, trong mọi trường hợp được dựa vào thực tiễn thương mại.
3. Luật áp dụng cho tố tụng trọng tài
Trong trọng tài thương mại quốc tế, người ta thường thấy luật áp dụng cho
tố tụng (được gọi là lex arbitri) khác với luật áp dụng cho hợp đồng và luật áp
dụng cho thoả thuận trọng tài,
Ví dụ, uỷ ban trọng tài ở Xingapo có thể được yêu cầu áp dụng luật của
Pháp hoặc của Anh cho nội dung vụ tranh chấp. Tuy nhiên, cách tiến hành tố
tụng của uỷ ban trọng tài đó không bị điều chỉnh bởi luật của Pháp hay của
Anh mà bởi luật trọng tài của Xingapo, nơi nhóm họp uỷ ban trọng tài.
Luật áp dụng cho tố tụng không đơn thuần quy định các thủ tục nội tại của
tố tụng trọng tài, ví dụ như quy tắc trình các văn bản, chứng cứ của các nhân
chứng,v.v…Luật áp dụng cung cấp các chỉ dẫn cho việc tiến hành tố tụng trọng
tài. Luật quy định các quy tắc thành lập uỷ ban trọng tài, hoặc thay thế các
14

Khoản 3, Điều 14, Bộ luật Trọng tài Thương mại 2010
Điều 17.2 của Quy tắc Tố tụng trọng tài ICC; Điều 33.3 của Quy tắc Tố tụng Trọng tài UNCITRAL.
16
Điều 28(4)
17

Điều 1054
18
Trung tâm Thương Mại Quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa
chọn: giải quyết các tranh chấp thương mại như thế nào, Tr 125
15

13


trọng tài viên, ít nhất cho tới phạm vi mà các bên đã không quy định đưa tranh
chấp của họ ra xét xử theo các quy tắc của một tổ chức trọng tài thường trực.
Tóm lại, luật áp dụng quy định các quy tắc mà theo đó một phán quyết trọng tài
có thể được công nhận và thi hành, hoặc bị huỷ.
Bằng thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử theo quy tắc của một tổ chức
trọng tài thường trực, các bên chấp nhận tuân thủ các quy tắc của tổ chức đó.
Các quy tắc này không giống nhau giữa các tổ chức. Quy tắc của một số tổ
chức gần như không có điều khoản nào khác ngoài những điều khoản liên quan
tới chỉ định trọng tài viên. Quy tắc của những tổ chức khác như Quy tắc của
ICC quy định cụ thể hơn, liên quan cả đến việc tổ chức và giám sát toàn bộ tố
tụng do tổ chức đó thực hiện, bắt đầu từ khi nộp yêu cầu xét xử trọng tài cho tổ
chức cho tới khi thông báo phán quyết trọng tài.
Các bên và hội đồng trọng tài cần biết rõ về các quy tắc thủ tục mà họ sẽ
phải tuân thủm đặc biệt là trong tố tụng trọng tài quốc tế, khi mà các bên
thường có nền tảng kiến thức khác nhau. Các quy tắc của các tổ chức trọng tài
quốc tế như ICC hay LCIA hay các quy tắc của các tổ chức trọng tài Việt Nam
như ACIAC, TRACENT đều quy định một cách tổng thể cho quá trình tiến
hành tố tụng trọng tài.
Có thể tóm tắt quy trình tố tụng trọng tài tại VIAC như sau:1) Nguyên
đơn nộp đơn kiện. 2)VIAC tiếp nhận hồ sơ đơn kiện và ra thông báo. 3) Bị đơn
nộp bản tự bảo vệ. 4) Thành lập hội đồng trọng tài. 5) VIAC chuyển hồ sơ vụ

kiện cho HĐTT. 6)HĐTT nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc. 7) Phiên họp
giải quyết vụ tranh chấp. 8) Phán quyết trọng tài. 9) VIAC gửi phán quyết
trọng tài.19
Các quy tắc của các trung tâm trọng tài khác của Quốc tế và Việt Nam
đều quy định tương tự như vậy
4. Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài
Công ước New York quy định một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị theo
“luật mà các bên lựa chọn để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài hoặc, nếu trong
trường hợp các bên không lựa chọn thì sẽ theo luật của quốc gia nơi quyết định
19

Quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC

14


trọng tài được ra”.20 Nói theo cách khác, theo công ước New York, một thỏa
thuận trọng tài chỉ có giá trị khi nó được cho là có giá trị theo luật do các bên
lựa chọn để điều chỉnh thỏa thuận đó hoặc trong trường hợp không có sự lựa
chọn luật như vậy thì theo luật của địa điểm tiến hành trọng tài.
“Điều khẳng định trước tiên là, thoả thuận trọng tài phải tuân thủ luật của
nước được áp dụng đối với thoả thuận trọng tài (dù là một điều khoản trong
hợp đồng hay một thoả thuận được lập ngoài hợp đồng vào thời điểm phát sinh
tranh chấp) nếu các bên mong muốn tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng
tài chứ không phải là một phương pháp khác; hơn nữa là, phán quyết trọng tài
cuối cùng sẽ có hiệu lực và được bảo đảm thi hành”.21
Ở Việt Nam hiện nay, số vụ tranh chấp có liên quan tới thương mại quốc
tế được xét xử bằng trọng tài không nhiều và tập trung chủ yếu tại Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam. Thực tiễn xét xử trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam

cho thấy, đối với các vấn đề về thoả thuận trọng tài, các trọng tài viên Việt
Nam thường chỉ phải giải quyết sự mập mờ, không rõ nghĩa trong thoả thuận
chọn trọng tài giải quyết tranh chấp, mà hiếm khi phải xác định luật áp dụng
cho thoả thuận trọng tài vì vấn đề hiệu lực của nó, đặc biệt là trường hợp các
bên tranh chấp không thoả thuận về luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài.
Tóm lại, một thoả thuận trọng tài, trong bất kỳ bối cảnh nào, cũng sẽ có
hiệu lực nếu phù hợp với các quy định trong luật được các bên thoả thuận. Tuy
nhiên, nếu không có sự thoả thuận của các bên, thì không có bộ quy tắc nào về
chọn luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài được sử dụng chung cho các trọng tài
viên. Việc xem xét luật điều chỉnh hiệu lực của thoả thuận trọng tài phụ thuộc
vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài mà sẽ có những quyết định riêng rẽ, chẳng
hạn, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi phán quyết được tuyên, luật điều
chỉnh nội dung tranh chấp. Vì vậy, để tránh những rắc rối có thể xảy ra trong
quá trình trọng tài, các bên nên dành thời gian để thoả thuận kỹ lưỡng về điều
khoản trọng tài cũng như luật áp dụng đối với nó.
20

Điều V(1)(a) Công ước New York 1858 về công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước
ngoài
21
Trần Minh Ngọc (2009), Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong Trọng tài Thương mại Quốc
tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 1(249), Tr 49-53

15


III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI Ở VIỆT
NAM
1. Luật trọng tài Việt Nam từ pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
đến luật Trọng tài thương mại 2010

Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 về cơ bản phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của Trọng tài như: quy
định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành Trọng tài viên, về
trọng tài vụ việc, mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ
giữa Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành
thoả thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu
huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, Pháp lệnh này cũng bộc lộ
không ít những hạn chế và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài; chủ thể của các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá
trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về mặt nội dung và hình thức; việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét thỏa
thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng
tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài; cách tính thời hiệu khởi kiện v.v…
Mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với trước đây, Pháp lệnh
Trọng tài thương mại năm 2003 vẫn chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho
việc thực hiện chủ trương của Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng Trọng
tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác, cần được
khắc phục bằng việc ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại - Luật
Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ
sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới,
hoàn chỉnh hơn.
Luật Trọng tài thương mại có 13 Chương và 82 Điều, với những điểm
mới cơ bản sau đây:
- Luật trọng tài thương mại đã quy định rõ các hình thức trọng tài và mở
rộng phạm vi lĩnh vực hoạt động của tổ chức trọng tài, trên cơ sở đó bảo đảm

16



sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành
khác với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn
chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại
của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới
nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật
TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so
với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của
các nước trên thế giới.
- Loại bỏ bớt các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được coi là
không cần thiết. Luật trọng tài thương mại 2010 đã bỏ quy định về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu khi không chỉ rõ tên tổ chức trọng tài giải quyết. Nếu thỏa
thuận hai bên không rõ ràng thì nguyên đơn được quyền chọn lựa tổ chức trọng
tài để khởi kiện.
- Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong
việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Lần đầu tiên, luật quy định tranh chấp liên quan đến người tiêu dùng thì
ưu tiên cho người tiêu dùng được quyền chọn lựa phương thức giải quyết tranh
chấp là trọng tài hoặc Tòa án mà không cần sự chấp thuận của nhà cung cấp
hàng hóa, dịch vụ.
Theo Luật Trọng tài thương mại (Điều 17), đối với các tranh chấp giữa
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, dù điều khoản trọng tài đã
được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa
chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp
thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt
ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản

trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy
cần có quy định bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết.

17


- Luật trọng tài thương mại đã phân biệt rõ quyết định trọng tài và phán
quyết trọng tài. Theo đó, quyết định trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng
tài trong quá trình giải quyết tranh chấp, phán quyết trọng tài là quyết định của
Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố
tụng trọng tài.22
- Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc
tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định
làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín
nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam
tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một
số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay
cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do
Pháp lệnh năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng
tài được tiến hành tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung
tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố
tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi
Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
- Mở rộng thẩm quyền của hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng
thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập
nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và

50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu UNCITRAL được
thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.
- Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy
định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên
được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý
với quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố
22

Điều 9, 10, Luật trọng tài thương mại 2010

18


tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết
trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.
- Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố
tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố
tụng của các nước phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi
một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi
phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó
trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy
định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố
tụng trọng tài.
- Luật Trọng tài thương mại 2010 đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa
Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các
bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ
pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động
trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng
tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng
tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng

tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của
người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi
trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung
những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất
cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài
cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể,
góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
- Luật trọng tài 2010 đã Nội luật hóa các cam kết quốc tế về dịch vụ trọng
tài. Việt Nam đã đưa vào luật trọng tài thương mại những nội dung quan trọng
trong các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia. Đây là bước tiến quan trọng trong việc phát triển luật trọng tài, cũng như
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài
2. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam trong mối tương quan với
pháp luật quốc tế

19


Luật Trọng tài thương mại khẳng định rằng khung pháp luật về trọng tài
của Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo phù hợp với pháp luật trọng
tài thương mại quốc tế. Có thể nói, các chuẩn mực của pháp luật trọng tài quốc
tế đã được thể hiện trong Luật trọng tài thương mại.
Luật Trọng tài Thương mại được ban hành trong điều kiện đất nước ta
đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới, vì thế đã giúp cho Pháp luật về
Trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế. Th.S Vũ Ánh
Dương - Phó tổng thư ký Trung tâm trọng tài quốc tế (VIAC) cho biết, điểm
tiến bộ của Luật Trọng tài thương mại đó là mở rộng phạm vi thẩm quyền của
trọng tài (lĩnh vực: thương mại, các bên: bao gồm cả cơ quan quản lý nhà
nước).
Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cũng được mở rộng. Hội đồng được

ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, triệu tập nhân chứng, thu
thập chứng cứ. Chính đó đảm bảo quá trình trọng tài được diễn ra nhanh chóng,
kịp thời và hiệu quả hơn.
Luật trọng tài thương mại đã thể hiện rất rõ nguyên tắc được quốc tế công
nhận. Đó là những quy tắc áp dụng đối với quy trình tố tụng trọng tài sẽ do các
bên thoả thuận, giúp cho pháp luật về trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn tới
các chuẩn mực quốc tế, cụ thể là Luật Trọng tài mẫu quốc tế UNCITRAL.
Thậm chí, luật có một điểm khác biệt quan trọng so với luật mẫu đó là mở rộng
phạm vi áp dụng với mọi loại tranh chấp chứ không hạn chế ở các tranh chấp
thương mại.
IV. KẾT LUẬN
Tầm quan trọng của luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế bằng trọng tài là không thể phủ nhận. Vấn đề đặt ra ở đây hiện nay là
từng bước hoàn thiện hơn nữa hệ thống Luật pháp quốc gia, tiến tới phù hợp
với xu hướng chung của quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cần áp dụng pháp luật
một cách có hiệu quả, để Trọng tài thương mại trở thành sự lựa chọn hàng đầu
của các doanh nghiệp Việt Nam khi xảy ra tranh chấp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật trọng tài thương mại 2010

20


2. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
3. Luật Mẫu Về trọng tài thương mại quốc tế 1985, sửa đổi 2006
4. Quy tắc Tố tụng Trọng tài UNCITRAL
5. Quy Tắc Tố tụng trọng tài ICC
6. Quy tắc Tố tụng Trọng tài VIAC
7. Quy tắc Tố tụng Trọng tài ACIAC
8. Quy tắc Tố tụng Trọng tài TRACENT

9. Công ước New York 1858 về Công nhận và Thi hành các Quyết định
Trọng tài nước ngoài
10. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
11. Nông Quốc Bình, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an Nhân dân, 2008
12. Trung tâm Thương Mại Quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phương
thức giải quyết tranh chấp lựa chọn: giải quyết các tranh chấp thương
mại như thế nào, Gonevo, 2001
13. Julian D. M. Lew, Applicable Law in International Commercial
Arbitration (1978),
14. Alan Redfern and Martin Hunter with Nigel Blackaby and Constantine
Partasides, Pháp luật và Thực tiễn Trọng tài Thương mại Quốc tế,
London, Sweet & Maxwell, 2004
15. Trần Minh Ngọc (2009), Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài trong
Trọng tài Thương mại Quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 1(249),
Tr 49-53
16. Bạch Thị Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ
của Tòa án, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 14(151) tháng 7/2009, tr
23-29
17. Đỗ Văn Đại, Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt
Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2007

21



×