Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Ứng dụng mô hình logit trong xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng viettinbank chi nhánh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.82 KB, 68 trang )

Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng
bước đổi mới và được coi là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu. Với hoạt
động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, trong đó hoạt động tín
dụng ( là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay ) là hoạt động sinh lời lớn nhất,
song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không ngừng lớn mạnh và đã
thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình đó các Ngân hàng cũng
đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động kinh doanh gây tổn thất nặng nề.
Nên đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên là điều kiện tiên quyết trước khi cho
vay.
Thực tiễn đã cho thấy thất bại của ngân hàng trong hoạt động tín dụng gắn
chặt với sự thiếu hiểu biết về khách hàng. Một trong những kỹ thuật quản trị rủi ro tín
dụng của ngân hàng là sử dụng phân tích chấm điểm để xếp hạng uy tín về mặt tín
dụng của mỗi khách hàng một cách thường xuyên. Do vậy, xếp hạng tín dụng đang là
vấn đề được các ngân hàng rất quan tâm nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng,
giảm bớt tỷ lệ nợ xấu phải trích dự phòng rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel và
Ngân hàng nhà nước.
Từ những lý do trên, đồng thời với nhận định thời gian tới rủi ro tín dụng vẫn
tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngân hàng và từ đó tác động mạnh đến nền kinh tế,
nên em đã chọn đề tài: “Ứng dụng mô hình logit trong xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp tại ngân hàng viettinbank chi nhánh Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình
Em xin cảm ơn sự chỉ bảo hướng dẫn của TS Ngô Văn Thứ_trưởng khoa toán
kinh tế;cảm ơn các anh chị phòng phân tích tín dụng_ngân hàng viettinbank chi
nhánh Nghệ AN đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49


1
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
thương mại và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam
1.1. Khái quát rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
- Khái niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 điều 02 của quy định về phan loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro, theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của thống đốc NHNN thì: ”Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng, do khách hàng không thực hiện hoặc không có khă năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết”.
+ Loại rủi ro phát sinh trong suốt quá trình cấp tín dụng của ngân hàng đối với
khách hàng
+ Khả năng xảy ra tổn thất khi người đi vay không trả được nợ, hoặc trả nợ
không đầy đủ, không đúng hạn cho ngân hàng
+ Khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng do khách hàng không
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết (Theo điều 2, quyết định 493)
+ Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất trong hoạt động ngân hàng,là loại rủi
ro chủ yếu của rủi ro ngân hàng
+ Rủi ro tín dụng là loại rủi ro tồn tại khách quan gắn liền với hoạt động ngân
hàng.
- Chủ động nhận diện và lượng hóa (có chính sách rõ ràng)
- Sẵn sàng tiếp nhận và xử lý (coi nó là hiện tượng kinh tế, không hình sự hóa
vấn đề).

Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng nợ lại không thực hiện hoạc không đủ
khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay,
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
2
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao
thanh toán của ngân hàng.
- Mục đích tín dụng
- Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất
động sản, bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại
và bất động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả
lương.
- Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp, nhằm trợ giúp cho các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và
chăn nuôi gia súc.
- Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm
hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, trang thiết bị trong nhà…
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
- Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho thuê lại chúng.
- Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên
(ví dụ, tín dụng kinh doanh chứng khoán
1.1.2. Hoạt động tín dụng trong ngân hàng

Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu tiên của quy trình tín dụng, nó được
thực hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn.
Lập hồ sơ tín dụng là bước quan trọng vì đó là khâu thu nhập thông tin làm cơ sở để
thực hiện các khâu sau, đặc biệt là khâu phân tích và ra quyết định cho vay.
Bước 2: Phân tích tín dụng
Là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn,
khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc lẫn lãi. Mục tiêu của phân tích
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
3
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên liệu
khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó, dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn
chế thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm
tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về
thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay.
Bước 3: Quyết định và ký hợp đồng tín dụng
Quyết định tín dùng là quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay đối với một
hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đây là bước cực kỳ quan trọng trong quy trình tín
dụng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bước này là cũng là bước khó xử lý và dễ gặp
phải sai lầm nhất.
Bước 4: Giải ngân
Là bước tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết. Giải ngân là phát
tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Giải
ngân cũng là bước quan trọng vì nó có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời
nếu có sai sót ở các khâu trước. Ngoài ra giải ngân còn góp phần kiểm tra và kiểm
soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích cam kết hay không.
Bước 5: Giám sát tín dụng

Là bước khá quan trọng nhằm mục tiêu bảo đảm cho tiền vay được sử dụng
đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời
những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các phương pháp
có thể áp dụng như giám sát hoạt động tài khoản khách hàng, phân tích báo cáo tài
chính, viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất…
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Thanh lý hợp đồng tín dụng có thể xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng
hoặc do khoản vay đã đến thời điểm đáo hạn. Đây là bước kết thúc của quy trình tín
dụng. Bước này gồm có các việc quan trọng cần xử lý như thu nợ cả gốc và lãi, tái
xét hợp đồng tín dụng và thanh lý hợp đồng tín dụng
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
4
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
1.1.3. Các loại rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng những
rủi ro tiềm ẩn. Hoạt động kinh doanh của NHTM cũng không tránh khỏi rủi ro. Vậy
rủi ro là gì?
Rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Do đặc điểm về đối tượng kinh doanh, về tính hệ thống nên kinh doanh ttrong
ngân hàng rủi ro cao hơn so với doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác.
Nhưng rủi ro mà NHTM thường gặp phải là:
- Rủi ro lãi suất
Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nên có tác động trực tiếp đến giá
trị tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng. Mọi sự thay đổi của lãi suất đều có thể tác
động đến việc tăng, giảm thu nhập, chi phí và lợi nhuận của ngân hàng. Nếu thu nhập
từ lãi không lớn hơn chi phí về lãi thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro về lãi suất.
Rủi ro lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất gây nên. Nếu ngân hàng
có tài sản nợ nhảy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản có nhảy cảm với lãi suất, thì khi lãi

suất tăng lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm. Ngược lại, lãi suất giảm sẽ làm tăng lợi
nhuận của ngân hàng.
Nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các kỳ
hạn của tài sản nợ và tài sản có.Ngoài ra còn do các nguyên nhân khac như: Do bất
lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho
vay để thu hút khách hàng, do đó làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng;
Do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền, nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn;
Do chính sách ưu đãi trong cho vay của Nhà nước nên ngân hàng phải giảm lãi suất
cho vay.
- Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự
sống của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả
năng thanh toán, như là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại,
tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
5
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Đặc trưng cơ bản của rủi ro thanh toán là tính lỏng của tài sản có thấp hơn so
với tài sản nợ, nên ngân hàng có thể không đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu thanh
toán. Rủi ro thanh toán xuất hiện do hai nguyên nhân chính-đó là nguyên nhân từ
phía tài sản nợ và nguyên nhân từ phía tài sản có.
- Rủi ro vốn chủ sở hữu
Khi vốn huy động quá lớn so với vốn chủ sở hữu, tỷ lệ đòn bẩy đã được sử dụng
quá cao, khách hàng có thể sẽ lo lắng đến khả năng hoàn trả của ngân hàng và vì vậy
khách hàng sẽ không gửi tiền vào ngân hàng đó, thậm chí họ có thể rút tiền ra.
Do đó, khi quyết định phải huy động nguồn vốn mới,nhà quản trị ngân hàng
cần có sự lựa chọn phù hợp cho mục tiêu kinh doanh của ngân hàng khi đánh đổi
giữa rủi ro với chi phí huy động và ngược lại.
- Rủi ro hối đoái

Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên.
Nhưng rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ có liên quan đến ngoại tệ
của ngân hàng như: Cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ; Mua bán ngoại tệ; Đầu tư
chứng khoán bằng ngoại tệ…
Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của ngân
hàng, bất cứ một trạng thái ngoại hối ”trường” hay “đoản” đều có thể hặp rủi ro hối
đoái khi tỷ giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ trưởng thì khi
ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó
xuống giá. Nếu ngân hàng ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ
lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại.
Như vậy việc tạo ra các trạng thái ngoại tệ “trưởng” hay “đoản” chính là
nguyên nhân gây rủi ro hối đoái cho ngân hàng. Đây chính là kết quả của việc ngân
hàng thực hiện các giao dịch ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và cho chính bản thân
mình, hoặc ngân hàng huy động vốn bằng ngoại tệ và đầu tư vào các tài ssanr có
bằng ngoại tệ.
- Các rủi ro khác
Ngoài những rủi ro cơ bản trên hoạt động ngân hàng còn chịu những rủi ro
khác như:
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
6
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
+ Rủi ro môi trường: Là rủi ro do môi trường hoạt động của ngân hàng gây
nên, bao gồm: rủi ro do sự biến động của thiên nhiên (lũ lụt,động đất), rủi ro về kinh
tế (khủng hoảng,suy thoái kinh tế), rủi ro do sự thay đổi chính sách pháp luật của nhà
nước gây bất lọi cho ngân hàng.
Rủi ro do môi trường là những rủi ro mà ngân hàng khó kiểm soát được,
chúng có thể làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây rủi ro
cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính.
- Rủi ro về công nghệ: Loại rủi ro này thường xảy ra trong các trường hợp:

Ngân hàng đã đầu tư rất lớn vào phát triển công nghệ nhưng hiệu quả sử dụng lại
không cao, không tiết kiệm chi phí cho ngân hàng theo như mong muốn/Hoặc hệ
thống công nghệ của ngân hàng gặp trục trăc làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt
động kinh doanh của ngân hàng gây ra những tổn thất nhất định.
1.1.4. Phân loại rủi ro tín dụng
- Rủi ro giao dịch
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm
và rủi ro nghiệp vụ.
Rủi ro giao dịch là loại hình rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình giao dịch
tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Rủi ro giao dịch là loại rủi ro mang nặng tính
chủ quan của bên cho vay trong quá trình tác nghiệp, bao gồm:
+ Rủi ro lựa chọn: Qúa trình đánh giá ,phân tích, lựa chọn khi tác nghiệp chưa
tốt:
Phân tích, đánh giá khách hàng thiếu bao quát, còn nhiều sơ hở
Phân tích, lựa chọn phương án vay vốn của khách hàng còn lỏng lẻo, qua loa
Lựa chọn phương án thu nợ thiếu cân nhắc có nhiều sơ hở dẫn đến rủi ro
+ Rủi ro đảm bảo: Là rủi ro các vấn đề liên quan đến đảm bảo tài sản:
Điều khoản đảm bảo tín dụng thiếu chặt chẽ, rõ ràng
Danh mục tài sản đảm bảo thiếu tính cụ thể
Hình thức đảm bảo và phương pháp xử lý tài sản còn bất cập
Tỉ lệ đảm bảo tài sản thiếu dứt khoát, rõ ràng
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
7
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
+ Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử
lý các khoản vay có vấn đề.

- Rủi ro danh mục
Rủi ro danh mục là loại hình rủi ro tín dụng phát sinh trong quản lý danh mục
cho vay của ngân hàng. Rủi ro danh mục là loại rủi ro vừa mang tính chủ quan, lại
vừa tác động của các nhân tố khách quan. Rủi ro danh mục bao gồm rỉ ro nội tại và
rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có,
mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Nó xuất phát tù đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay
vốn.
+ Rủi ro tập trung: Rủi ro tập trung là rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân
hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng , cho vay quá nhiều
doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một
vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.5. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
- Nhóm nguyên nhân khách quan
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu
thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị
tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Ngành dệt may trong một số năm
gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho
vay nói chung. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa
qua. Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá
phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất
do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Quá trình tự do
hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi
trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
8

Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc
khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến
chNền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu
thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị
tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Nhóm nguyên nhân thuộc về người đi vay:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh thiếu ổn định vững chắc;
+ Tình hình tài chính không tốt;
+ Công tác quản lý kinh doanh còn hạn chế;
+ Thái độ thiếu thiện chí và bất hợp tác của người đi vay;
+ Hiện tượng cố ý, cố tình lừa đảo.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi, nếu không kiểm tra, phân tích xem xét, có thể bị rủi ro. Số
lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích , cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm
đoạt tài sản tuy không nhiều, nhưng không phải không có, thạm chí có những vụ việc
phát sinh hết sưc nặng nề và nghiêm trọng , liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm
ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô nguồn
vốn chủ sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối là đặc điểm chung của hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam. Công tác quản lý tài chính kế toán còn tùy tiện, thiếu
đồng bộ, mang tính đối phó, làm cho thông tin ngân hàng có được không chính xác,
chỉ mang tính chất hình thức. Do đó khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài
chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu
tính thực tế và sai lệch quá nhiều,rủi ro xảy ra là lẽ đương nhiên.
- Nhóm nguyên nhân thuộc về ngân hàng cho vay:
+ Chính sách tín dụng chưa hợp lý;

+ Chưa nêu cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động tín dụng;
+ Chưa xác định tính quy mô và tốc độ tăng trưởng của tín dụng;
+ Chưa có chính sách khách hàng hợp lý;
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
9
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
+ Chưa linh hoạt trong lãi suất và ưu đãi lãi suất;
+ Đạo đức kinh doanh chưa tốt… .
Các nguyên nhân nêu trên, trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiêú một
chính sách tín dụng nhất quán,chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng
chung cho việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về
bảo đảm tiền vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn.
-Nhóm nguyên nhân thuộc về Ngân hàng cho vay:
+ Chính sách tín dụng chưa hợp lý;
+ Chưa nêu cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động tín dụng;
+ Chưa xác định đúng quy mô và tốc độ tăng trưởng của tín dụng;
+ Chưa có chính sách khách hàng hợp lý;
+ Chưa linh hoạt trong trong lãi suất và ưu đãi lãi suất;
+ Chưa đơn giản hóa quy trình thủ tục cấp tín dụng;
+ Chưa có chiến lược cạnh tranh và maketing hợp lý;
+ Qúa cứng nhắc trong việc xác định và kiểm soát hạn mức tín dụng;
+ Quy trình cho vay có nhiều kẻ hở bị khách hàng lợi dụng;
+ Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế;
+ Đạo đức kinh doanh chưa tốt.
Các nguyên nhân nêu trên, trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu
chính sách tín dụng nhất quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng
chung cho việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về
bảo đảm tiền vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn.
Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, để phân tích và đánh

giá khách hàng, dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác
định thời hạn cho vay và trả nợ phù hợp với phương án kinh doanh cảu khách hàng.
Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trước, trong và sau khi cho vay, làm cho
ngân hàng không phát hiện kịp thời dù vốn vay đã bị sử dụng sai mục đích.
Ngân hàng quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, tài sản cầm cố, bảo lãnh, bảo
hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi vốn vay.
Chạy theo thành tích số lượng hoặc chỉ tiêu kế hoạch mà xem nhẹ chất lượng
khoản tín dụng, quá tin tưởng vào phương án kinh doanh của khách hàng.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
10
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ tín dụng
ngân hàng chưa theo kịp yêu cầu. Quản lý , sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa
thỏa đáng, không giữ được cán bộ tài năng.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng gay gắt thậm chí còn chưa thực sự lành mạnh,
việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan
tâm đến chất lượng khoản vay.
1.1.6. Đánh giá rủi ro tín dụng
- Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn
+ Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ,
toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ)
+ Tỷ lệ nợ quá hạn
Chỉ số được sử dụng đến đánh giá mức độ quá hạn là tỉ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ)
Trong đó:Tổng dư nợ bao gồm:
-Các khoản cho vay, ứng trước thấu chi và cho thuê tài chính;

- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu chứng từ có giá;
- Các khoản bao thanh toán;
- Các hình thức tín dụng khác.
- Nợ xấu
Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn, nhưng ở cấp độ nghiêm trọng hơn, do đó
được gọi là nợ xấu. Nợ xấu có thể gây ảnh hưởng nặng nề đến kết quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, do đó cần được theo dõi quản lý chặt chẽ.
- Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số rủi ro tín dụng = (Tổng dư nợ cho vay / Tổng tài sản có)
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng các khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục
trong tài khoản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn, nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất
cao.
- Dư nợ trên vốn huy động
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
11
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng vốn huy động được sử dụng để cho
vay đối với nền kinh tế. Dư nợ trên vốn huy động còn gián tiếp phản ánh khả năng
huy động vốn của ngân hàng. Chỉ tiêu này lớn chứng tỏ vốn huy động tham gia vào
dư nợ ít, khả năng huy động vốn của ngân hàng chưa được tốt.
Dư nợ trên vốn huy động = (Dư nợ / Vốn huy động)
- Chỉ tiêu hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ cao cho thấy công tác thu nợ đang tiến triển tốt, rủi ro tín dụng
thấp. Chỉ tiêu này còn biểu hiện khă năng thu hồi nợ của ngân hàng từ việc cho khách
hàng vay.
Hệ số thu nợ = (Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay)
- Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng dùng để đo lường tốc độ luân chuyển vốn của tín
dụng ngân hàng, nó cho thấy thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Nếu vòng quay

vốn tín dụng nhanh, tức việc đưa vốn vào sản xuất , kinh doanh của ngân hàng đạt
hiệu quả cao.
Vòng quay vốn tín dụng = (Doanh số thu nợ / Dư nợ bình quân)
1.1.7. Tác động của rủi ro tín dụng
- Tác động đến hoạt động kinh doanh cảu ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến
hạn. Điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn
tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí của ngân hàng
tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó mất khả năng thu hồi, thì ngân hàng phải sử dụng
các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Đến một chừng mực nào đấy
,ngân hàng không đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng sẽ rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản.
Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh,năng lực tài chính giảm sút, uy tín sức
cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà lan rộng ra các nước.
- Tác động đến nền kinh tế xã hội
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
12
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Khi ngân hàng gặp rủi ro tín dụng với mức độ lớm, sẽ ảnh hưởng đến người
gửi tiền làm cho người gửi tiền hoang mang, lo sợ và kéo nhau đến rút tiền, không
những ở ngân hàng có sự cố mà còn ở những ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ
thống ngân hàng gặp phải khó khăn. Khủng hoảng thanh khoản xảy ra và ảnh hưởng
rất nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng bị ảnh hưởng ,hoạt động không hữu hiệu sẽ ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội. Nó có thể làm cho nền kinh tế bị suy giảm, lạm phát
tăng , sức mua giảm,thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định…
1.1.8. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng

- Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng
* Theo nghĩa rộng và bao quát: Chính sách quản lý rủi ro tín dụng là hệ thống
các quan điểm,chủ trương và biện pháp của một ngân hàng thương mại, để nhận diện
và quản lý rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả nhằm thiệt hại và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của ngân hàng.
* Theo nghĩa hẹp: Chính sách quản lý rủi ro tín dụng là cơ chế và chính sách
cụ thể để giám sát và quản lý rủi ro tin dụng một cách có hệ thống và có hiệu
quả,nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong ngân hàng thương mại.
- Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng
* Phân định rõ cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng với cơ cấu giám sát, quản lý
rủi ro tín dụng trong một ngân hàng thương mại:
Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị và cá nhân
đới với các vấn đề như: Thẩm định tín dung, phê duyệt tín dụng, theo dõi, quản lý thu
hồi nợ vay.
Tách bạch các chức năng nhiêm vụ của các bộ phận liên phận thẩm địnhvà
quản lý tín dụng.
Hội đồng quản trị giám sát và quản lý rủi ro tín dụng thông qua hội đồng quản
lý rủi ro.
* Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Xây dựng quy chế cho vay phù hợp với quy chế cho vay của ngân hàng Nhà
Nước.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
13
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Tổ chức nghiên cứu, tập huấn và áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống các
văn bản có liên quan đến hoạt động tín dụng.
Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện quy trình cho vay bảo lãnh… phù hợp với
yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng ISO.
* Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý

Phân cấp và ủy quyền tuân thủ các quy định của pháp luật và chế độ của ngân
hàng về hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả.
Xác định quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp điều hành trong
toàn bộ hệ thống về hoạt động tín dụng.
Phân cấp ủy quyền có sự linh hoạt phù hợp với đặc điểm, quy mô, điều kiện
của từng đơn vị, phù hợp với năng lực của cán bộ được phân cấp.
Xác định đúng thị trường, ngành nghề, lĩnh vực cho vay của ngân hàng.
Xây dựng các giới hạn trong hoạt động tín dụng
Cụ thể hóa những trường hợp không được cho vay, và hạn chế tín dụng theo
quy định của pháp luật.
* Xây dựng hệ thống các công cụ đo lường và định hạng rủi ro tín dụng
Khách hàng là doanh nghiệp: Xếp hạng doanh nghiệp dựa trên hai nhóm chỉ
tiêu và xếp thành nhiều hạng AAA, AA, BBB, BB…
Xếp hạng rủi ro tín dụng chi nhánh trực thuộc: Dựa vào các chỉ tiêu như:
+ Tỷ lệ nợ quá hạn, tăng giảm tỷ lệ nợ quá hạn;
+ Tỷ lệ nợ xấu, tăng giảm tỷ lệ nợ xấu;
+ Tỷ lệ nợ đã cơ cấu lại;
+ Lãi chưa thu ngoại bảng.

* Trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro
Thực hiện việc trích dự phòng rủi ro theo quy định
+ Dự phòng chung: Trích theo tỷ lệ 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1-4
+ Dự phòng cụ thể: Trích theo tỷ lệ quy định đối với từng nhóm nợ
Ngân hàng được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng mõi quý một lần
phù hợp với mức trích dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ,đồng thời tiến hành
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
14
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Nếu không đủ mới sử dụng dự phòng chung để xử lý,

nếu vẫn còn thiếu thì hạch toán phần chênh lệch thiếu vào chi phí hoạt động.
1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế hàng hóa, ngay từ những thời gian đầu còn sơ khai đã xuất
hiện nhiều tổ chức mà hoạt động của nó mang dáng dấp của hoạt động ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức tín dụng này ngày càng phát triển
và hoạt động ngày càng phong phú.Hoạt động của ngân hàng thương mại trong lĩnh
vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, và được coi là một loại định chế tài chính
đặc biệt vủa nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các
loại hình doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân,bằng việc huy động vốn dưới
hình thức nhận tiền gửi hoạt kỳ,tiền gửi định kỳ, tiền phát hành kỳ phiếu,trái phiếu, đồng
thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện
thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong
nền kinh tế. Sự có mặt của ngân hàng thương mại trong hầu hết các mặt hoạt động của
nền kinh tế xã hội đã chứng minh rằng: Ở đâu có một hệ thống ngân hàng thương mại
phát triển, thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế-xã hội.
1.2.2. Qúa trình ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngày nay, trong mỗi quốc gia toàn bộ hệ thống ngân hàng đã được định hình
thành hai cấp rõ rệt gồm ngân hàng Trung ương và hệ thống ngân hàng Trung gian.
Trong sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống ngân hàng chúng ta thấy rõ
mối liên hệ hữu cơ giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng với sự phát triển của
lưu thông tiền tệ. Chính hệ thống lưu thông tiền tệ bắt đầu từ hình thái tiền đúc bằng
kim loại. Điều này đã làm nảy sinh nghề ngân hàng cách đây hàng ngàn năm kể từ
đó qua nhiều thế kỷ. hệ thống ngân hàng đã được định hình. Có thể khái quát quá
trình hình thành ngân hàng bằng quy trình sau: Bắt đầu từ chế độ lưu thông tiền đúc
bằng kim loại quý, qua quá trình lưu thông làm cho tiền đúc bị hao mòn gây khó khăn
cho lưu thông trao đổi hàng hóa.Từ đó làm nảy sinh nghề đổi tiền, từ nghề đổi tiền,
các nhà kinh doanh tiền tệ lúc bấy giờ phát triển thêm nghề nhận thu tiền gửi và bảo

Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
15
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
quản tiền cho công chúng, dần dần hình thành nghề cho vay và phát triển các hoạt
động dịch vụ.
1.2.3. Các loại hình ngân hàng thương mại
- Xét theo tính chất hoạt động và mục tiêu hoạt động
+ Ngân hàng thương mại
Là loại ngân hàng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tiền tệ dịch vụ
ngan hàng, đây là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế.
+ Ngân hàng đầu tư
Là loại hình ngân hàng, mà hoạt độngchính của ngân hàng này là hoạt động
đầu tư tài chính và kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư cũng không đươc
cung cấp các dịch vụ ngân hàng như ngân hàng thương mại.
+ Ngân hàng phát triển
Là loại ngân hàng khác hẳn ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Sự
khác biệt này vừa thể hiện qua nội dung hoạt động vừa thể hiện qua mục tiêu hoạt
động. Về nguồn vốn, ngân hàng pahts triển dựa hẳn vào nguồn vốn điều lệ và một
phần vốn tiếp nhận từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức tài chính.
1.2.4. Bản chất của ngân hàng thương mại
Bản chất của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các khía cạnh sau:
* Ngân hàng thương mại là một loại hình định chế tài chính trung gian đặc
biệt, và là một tổ chức kinh doanh trong ngàng dịch vụ tài chính ngân hàng
* Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Để hoạt
động ,các ngân hàng thương mại phải có vốn (vốn được cấp nếu là ngân hàng
công,được cổ đông
góp vốn nếu là ngân hàng cổ phần…)phải tự chủ về tài chính (lấy thu nhập để bù đắp
chi phí). Đặc biệt hoạt động kinh doanh cần đạt đến mục tiêu tài chính cuối cùng là
lợi nhuận, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài

xu hướng đó. Tuy nhiên việc tìm kiếm lợi nhuận là phải chính đáng trên cơ sở chấp
hành pháp luật của nhà nước.
* Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực ”đặc biệt” vì trước hết nó liên quan trực
tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
16
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
1.2.5. Chức năng của ngân hàng thương mại
- Trung gian tín dụng
Trung gian tín dụng là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của ngân hàng
thương mại, chức năng này không những cho thấy bản chất của ngân hàng thương
mại mà còn cho thấy nhiệm vụ chính yếu của ngân hàng thương mại. Trong chức
năng này –chức năng “trung gian tín dụng” ngân hàng thương mại đóng vai trò là
người trung gian đứng ra tập trung,huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay đáp ứng các nhu cầu
vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, vốn tiêu dùng cho xã hội.
Chức năng trung gian tín dụng được minh họa qua sơ đồ sau đây:
- Trung gian thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán
Đây là chức năng quan trọng,không những thể hiện khá rõ bản chất của ngân
hàng thương mại mà còn cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian để thực hiện các khoản giao
dịch thanh toán giữa các khách hàng, giữa người mua, người bán…để hoàn tất các
quan hệ kinh tế thương mại giữa họ với nhau.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
Công ty xí
nghiệp tổ

chức kinh tế
cá nhân
Ngân
hàng
thươn
g mại
Công ty xí nghiệp
tổ chức kinh tế hộ
gia đình cá nhân
Thu nhận
Trái phiếu
Phát hành
kỳ phiếu
Tiết kiệm
Tiền gửi
Dụng
tín
Cấp
17
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
- Cung ứng dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
Thực hiện chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán ,vốn đã
mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế-xã hội. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó,
thì chưa đủ, các ngân hàng thương mại cần đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách
hàng có liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đó chính là việc cung ứng dịch vụ
ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng là gì? Nói đến dịch vụ ngân hàng người ta thường gắn nó
với hai đặc điểm:
* Đó là các dịch vụ mà chỉ có các ngân hàng với những ưu thế của nó mới có

thể thực hiện được một cách trọn vẹn và đầy đủ
* Đó là các dịch vụ gắn liền với hoạt động ngân hàng không những cho phép
ngân hàng thương mại thực hiện tốt yêu cầu của khách hàng, mà còn hỗ trợ tích cực
để ngân hàng thương mại thực hiện tốt hơn chức năng thứ nhất và thứ hai của ngân
hàng thương mại.
1.2.6. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
- Huy động vốn
Huy động vốn là một trong hai mặt của hoạt động cơ bản của ngân hàng
thương mại. Với hoạt động huy động vốn ,các ngân hàng thương mại được phép sử
dụng tất cả những công cụ và phương pháp khác nhau để huy động mọi nguồn tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn
của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức như: Nhận
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
Người trả tiền
Người mu
(Cty, XN, tổ
chức kinh tế,
cá nhân)
Ngân
hàng
thươn
g mại
Người tụ hưởng
Người bán
(Cty, XN, tổ
chức, cá nhân)
Lệnh
Qua tài khoản
Trả tiền


báo
Giấy
18
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
tiền gửi, phát hành chứng từ có giá để huy độngvốn, vay các tổ chức tín dụng khác
,vay ngân hàng nhà nước Việt Nam.
- Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính
và các hình thức khác theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước. Trong các hoạt động
cấp tín dụng trên thì cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới
các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và đời sống;
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng
khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức của một ngân hàng thương mại
không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương mại.
Chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các
thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài
chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức
và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính Phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.

- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng, ngân hàng thương mại được phép mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài
nước và để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân Hàng
Nhà Nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân Hàng Nhà
Nước nơi Ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
19
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở
tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân Hàng Nhà Nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở
của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của Ngân hàng thương mại
bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán theo qui định của Ngân Hàng Nhà Nước;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân Hàng Nhà Nước cho phép;
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng;
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân
hàng trong nước;
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân Hàng Nhà Nước cho phép.
- Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung
cấp các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện
một số hoạt động khác, bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần: ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và
quỹ dự trữ đê góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn

được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập
ngân hàng liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ: Ngân hàng thương mại được tham gia thị
trường tiền tệ, theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước thông qua các hình thức mua
bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối: Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh
doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị
trường trong nước và thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận uỷ thác: Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác
làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
20
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác,
đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ
bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm
theo qui định của pháp luật.
Tư vấn tài chính: Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn
tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công
ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
Bảo quản vật quý giá: Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ
bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên
quan theo qui định của pháp luật.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
21
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2: Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng

viettinbank chi nhánh Nghệ An
2.1. Tổng quan về xếp hạng tín dụng trong ngân hàng thương mại
2.1.1. Khái niệm về xếp hạng tín dụng
Ở nước ta, thuật ngữa “corporate credit rating” được dịch với rất nhiều nghĩa
khác nhau như xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp,
phân loại tín dụng doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp, phân loại doanh nghiệp…
Trong đó, sát nghĩa nhất là xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm và phân loại tín
dụng doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của thị trường đã có rất nhiều các khái niệm về xếp
hạng tín dụng được đưa ra:
Theo Standard & Poor, XHTD là những ý kiến đánh giá hiện tại về rủi ro tín
dụng, chất lượng tín dụng, khả năng và thiện ý của chủ thể đi vay trong việc đáp ứng
các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn.
Theo Moody’s, XHTD là những ý kiến đánh giá về chất lượng tín dụng và khả
năng thanh toán nợ của chủ thể đi vay dựa trên những phân tích tín dụng cơ bản và
biểu hiện thông qua hệ thống ký kiệu Aaa-C.
Định nghĩa của Viện nghiên cứu Nomura: XHTD là đánh giá hiện tại về mức
độ sẵn sàng và khả năng trả gốc hoặc lãi đối với chứng khoán nợ của một nhà phát
hành trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó.
Hệ thống XHTD tiếp cận đến tất cả các yếu tố có liên quan đến rủi ro tín
dụng, các ngân hàng thương mại không thể hiện kết quả XHTD nhằm thể hiện giá trị
của người đi vay mà đơn thuần đưa ra ý kiến hiện tại dựa trên các nhân tố rủi ro, từ
đó có chính sách tín dụng và giới hạn cho vay phù hợp. Một sự xếp hạng cao của
khách hàng đi vay chưa chắc chắn trong việc thu hồi các khoản nợ gốc và lãi, mà chỉ
là cơ sở đưa ra quyết định đúng đắn về tín dụng đã được điều chỉnh theo dự kiến mức
độ rủi ro tín dụng có liên quan đến khách hàng là người đi vay và tất cả các khoản
vay của khách hàng đó.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
22
Trường Đại học KTQD

Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
2.1.2. Mục đích của xếp hạng tín dụng
Xét trên quan điểm những người cần thông tin là các NHTM để xem xét mục đích
của công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp:
• Đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
• Ra quyết định cấp tín dụng, xác định hạn mức cho vay, thời hạn, bảo
lãnh, lãi suất với từng khách hàng.
• Giám sát đánh giá khách hàng tín dụng đang còn dư nợ, thứ hạng tín
dụng, xác suất chuyển hạng của DN theo đó có các biện pháp chính sách đối phó với
những dấu hiệu xấu về chất lượng khoản vay, về tình hình tài chính công ty.
• Hệ thống XHTDDN còn nhằm phát triển chiến lược maketing hướng tới
khách hàng có ít rủi ro hơn. Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được
để trích lập quỹ dự phòng.
2.1.3. Khái niệm hệ thống chấm điểm tín dụng
Hệ thống chấm điểm tín dụng của ngân hàng là một quy trình đánh giá xác
suất một khách hàng tín dụng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính của mình
đối với ngân hàng cho vay nhu không tră được lãi và gốc nợ vay khi đến hạn hoặc vi
phạm các điều kiện tín dụng khác.
Các tình huống này là các rủi ro tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng của
ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được
xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài
chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời điểm chấm điểm tín dụng.
2.1.4. Mục đích của việc chấm điểm tín dụng
Việc chấm điểm tín dụng được thực hiện nhằm hỗ trợ ngân hàng cho vay
trong việc:
- Ra quyết định cấp tín dụng: Xác định hạn mức tín dụng,thời hạn, mức lãi
suất,biện pháp bảo dảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt.
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư
nợ .Hạng khách hàng cho phép ngân hàng cho vay lường trước những dấu hiệu cho

thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi và có những biện pháp đối phó kịp thời.
- Phát triển chiến lược maketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn.
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
23
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi đươc để trích lập dự phòng
tổn thất tín dụng.
2.1.5. Nguyên tắc chấm điểm tín dụng
Trong quá trình chấm điểm tín dụng,cán bộ tín dụng sẽ thu được điểm ban đầu
và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
- Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng cán bộ tín dụng
xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó.
- Điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng bảng điểm ban đầu nhân với trọng
số. Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm (chỉ số tài chính hoặc
yếu tố phi tài chính ) xét trên góc đọ tác động rủi ro tín dụng.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng cán bộ tín dụng sử dụng các bảng tiêu chuẩn
đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên tắc:
Đối với mỗi tiêu chí trên bảng biểu tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số
thực tế, gắn với trị số nào nhất thì áp dụng cho loại xếp hạng đó, nếu nằm giữa hai trị
số thì ưu tiên nghiêng về loại tốt nhất.
Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh của một tổ chức có năng lực tài
chính mạnh hơn, thì khách hàng có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hãng tín
dụng của bên bảo lãnh. Quy trình chấm điểm tín dụng của bên bảo lãnh cũng giống
như quy trình áp dụng cho khách hàng.
2.2. Tầm quan trọng của xếp hạng tín dụng
• Đối với nhà đầu tư
XHTD giúp nhà đầu tư có thêm công cụ đánh giá rủi ro tín dụng, giảm thiểu chi
phí thu thập, phân tích, giám sát khả năng trả nợ của các tổ chức phát hành trái phiếu,
công cụ nợ

• Đối với doạnh nghiêp
XHTD giúp các công ty mở rộng thị trường vốn trong và ngoài nước, giảm bớt
sự phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng. XHTD cũng giúp duy trì sự ổn định
nguồn tài trợ cho công ty, các công ty được xếp hạng cao có thể duy trì được thị
trường vốn hầu như trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi thị trường vốn có những biến
động bất lợi. XHTD càng cao thì chi phí vay (lãi suất) càng giảm, các nhà đầu tư sẵn
sàng nhận một mức lãi suất thấp hơn cho một chứng khoán an toàn hơn. Xếp hạng tín
nhiệm giúp cho nguồn tài trợ linh hoạt hơn, công ty phát hành có thể cơ cấu thời hạn
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
24
Trường Đại học KTQD
Khoa Toán kinh tế Khóa luận tốt nghiệp
và tổng giá trị chứng khoán phát hành một cách thích hợp. Trong thời buổi hội nhập,
doanh nghiệp muốn tiến xa thì phải có tầm nhìn và đánh giá xếp hạng tín dụng, do
các tổ chức có uy tín thực hiện, là một trong những "tấm hộ chiếu" cho quá trình
quốc tế hóa thương hiệu của doanh nghiệp
• Đối với ngân hàng
XHTD là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng nhằm hạn chế và giới hạn rủi ro ở
mức mục tiêu. Đồng thời cũng hỗ trợ ngân hàng trong việc phân loại nợ và trích lập
dự phòng rủi ro, tiến tới mục đích tối đa hóa lợi nhuận và bảo vệ sự ổn định của hệ
thống ngân hàng.
2.3. Mô hình xếp hạng của Moody’s và standard&poor’s
Rủi ro tín dụng thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và khoản
cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng , trong đó có
Moody’s và Standard&Poor’s là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody’s xếp hạng
cao nhất từ Aaa, với Standard&Poor’s cao nhất là AAA. sau đó xếp hạng giảm dần từ
Aa, A, Baa, Ba,B …(Moody’s) và AA, A, BBB, BB, B …(Standard&Poor’s)
Nguồn tiêu chuẩn Xếp
hạng
Tình trạng

Standard&Poor’s
Aaa Chất lượng cao nhất,rủi ro thấp
nhất
Aa Chất lượng cao
A Chất lượng trên trung bình
Baa Chất lượng trung bình
Ba Chất lượng trung bình mang yếu
tố đầu cơ
B Chất lượng dưới trung bình
Caa Chất lượng kém
Ca Mang tính đầu cơ,có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất,triển vọng
xấu
AAA Chất lượng cao nhất ,rủi ro thấp
nhất
AA Chất lượng cao
Phạm Thị Hoài Thanh Toán tài chính 49
25

×