Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO BẢN THÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.78 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÝ


TIỂU LUẬN
Đề tài:

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG
ĐỜI SỐNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
CHO BẢN THÂN.

Người thực hiện

: NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

Lớp

: CAO HỌC K34

Nghành

: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC BỘ MÔN VẬT LÝ

Người hướng dẫn

: TS. PHẠM HUY THÀNH

Đà Nẵng 2017



LỜI CẢM ƠN


Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, chúng em
đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn
bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, chúng em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa
Vật Lý – Trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng đã cùng với tri thức và tâm huyết
của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn TS. PHẠM HUY THÀNH đã tận tâm hướng
dẫn chúng em qua từng buổi học trên lớp cũng như những buổi nói chuyện. Nếu
không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của thầy thì em nghĩ bài thu hoạch này
của em rất khó có thể hoàn thiện được. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn
Thầy.
Bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về lĩnh vực Triết học ,kiến thức của em
còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót là
điều chắc chắn, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
Thầy và các bạn học cùng lớp để kiến thức của em trong lĩnh vực này được hoàn
thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc quý Thầy Cô trong Khoa Vật lý – Trường Đại
Học Sư Phạm Đà Nẵng và TS. PHẠM HUY THÀNH thật dồi dào sức khỏe,
niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức
cho thế hệ mai sau.


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ TRIẾT HỌC
1.Triết học là gì?
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
1.1.1. Khái niệm "Triết học"
1.1.2. Nguồn gốc của triết học
1.1.3. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua
các giai đoạn lịch sử
1.2. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan
2. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
2.2. Các trường phái triết học
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.2.2. Thuyết không thể biết
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
3.1. Phương pháp siêu hình
3.2. Phương pháp biện chứng
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
CHƯƠNG 3: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO BẢN THÂN.


1. Trong cuộc sống
2. Trong học tập
KẾT LUẬN

CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ TRIẾT HỌC
1.Triết học là gì?
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
1.1.1. Khái niệm "Triết học"
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ

VIII đến thế kỷ thứ III (TrCN)(1).
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là
cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt
tới chân lý tối cao.


+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng
nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là
Philôsôphia -nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia
vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của
con người
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái
cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân
lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung
giống nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những
quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội
loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó
một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
1.1.2. Nguồn gốc của triết học
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ
nhu cầu cuộc sống, song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết
học không thể xuất hiện cùng sự xuất hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất
hiện khi có những điều kiện nhất định.
- Nguồn gốc nhận thức:

+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình
muôn vẻ, con người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần


giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự
vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật nào không? ... trả lời các câu
hỏi ấy chính là triết học.
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu
tượng cao, do đó, triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu
tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý
luận.
- Nguồn gốc xã hội:
Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động
trí óc và lao động chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập
nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên
cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã tự mang trong mình
tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội
nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia
chúng chỉ có tính chất tương đối.
1.1.3. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai
đoạn lịch sử
* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây
là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là
khoa học của mọi khoa học.
* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao
trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần
học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của nội
dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền Triết học kinh viện.



* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công
nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực
nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa học độc lập. Triết học lúc này có tên
gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của Triết học thời kỳ này
là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật thể”
có thể thực nghiệm được.
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã
phát triển nhanh chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn,
T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...
+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết
duy tâm mà đỉnh cao là Triết học Hêghen.
+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên
ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò
“Khoa học của mọi khoa học”, mà Triết học Heghen là Triết học cuối cùng
mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là một hệ thống phổ biến
của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu
phụ thuộc vào Triết học.
* Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển
biến tính chất từ khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách
quan cho triết học đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của mọi khoa
học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra đời thể hiện sự đoạn tuyệt
đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và
nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và
tìm cách đưa ra một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện
được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư



tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học của Triết học và đối tượng
của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu
những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan
hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung
quanh
1.2. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về
bản thân con người, về cuộc sống và vị trí con người trong thế giới đó.
Đặc tính của tư duy con người là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ;
song tri thức mà con người đạt được luôn luôn là có hạn. Quá trình tìm hiểu về
quan hệ giữa con người với thế giới đã hình thành nên những quan niệm nhất
định, trong đó có sự hoà quyện thống nhất giữa cảm xúc và trí tuệ, tri thức và
niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giớiquan, song nó chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của
con người.
Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa
vào tri thức, là sự diễn tả quan niệm của con nưười dưới dạng hệ thống các quy
luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế
giới. Với ý nghĩa đó, triết học được xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là
hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó.
2. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Ngay từ thời cổ đại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ng¬ời
với thế giới bên ngoài. Triết học ra đời cũng giải quyết vấn đề đó, nh¬ng ở tầm


khái quát cao hơn là mốiquan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: "Vấn đề
cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa

tư duy với tồn tại"( C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.21,
tr.403); bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải quyết
các vấn đề khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập trường
thế giớiquan của các triết gia và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới khách
quan hay không? Nghĩa là con người có khả năng nhận thức hay không?
2.2. Các trường phái triết học
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc
phân chia các học thuyết triết học thành hai trường phái triết học cơ bản là chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới
vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do
ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc
con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử
phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn
tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ
giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trựcquan,


trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay
một số chất cụ thể. Ví dụ như quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hưởng của
Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn nhận thế giới trong

trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng CNDV
siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào
những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự
kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng các thành tựu
của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời
đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là
đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng
đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong
xã hội cải tạo hiện thực ấy.
b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định
giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ
yếu là:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý
thức con ng¬ời, khẳng định mọi sự vật, hiện t¬ợng chỉ là phức hợp những cảm
giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụquan niệm của Beccơly.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức,
nhưng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và
tồn tại độc lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư


duy. Nó thường được mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt
đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụquan niệm của Platon, Hêghen.
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và
nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng
xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên
hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lượng

xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa
một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế
giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư
duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các
giai cấp đối lập trong xã hội.
c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải
thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các
nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh
thần để giải thích mọi hiện tượng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra
từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ
muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhưng cuối cùng
họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự
nó, không phụ thuộc vào vật chất.
2.2.2. Thuyết không thể biết
Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, đại đa số các
nhà triết học( cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức thế giới
của con người, nhưng với những cách lý giải trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật
xuất phát từ chỗ coi vật chất có trước, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới
vật chất đã thừa nhận con người có thể nhận thức đươc thế giới khách quan và


các quy luật của nó. Còn chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước và quyết
định vật chất nên nhận thức không phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự
nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là
nguồn gốc của nhận thức.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi
là thuyết không thể biết. Họ cho rằng, con người không thể hiểu được đối tượng
hoặc nếu có hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình

ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận
thức không đảm bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan niệm của Beccơly, Hium.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Một vấn đề rất quan trọng mà triết học phải làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện
tượng của thế giới xung quanh ta tồn tại như thế nào?
Vấn đề này có nhiều cách trả lời khác nhau, nhưng suy đến cùng đều quy về hai
quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
3.1. Phương pháp siêu hình
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái cô lập, tách rời đối tượng khỏi các chỉnh
thể khác; giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự
biến đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi nằm ở bên ngoài sự vật.
Như vậy, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái
biệt lập, tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng
biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy
sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ
nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ
thấy cây mà không thấy rừng".
3.2. Phương pháp biện chứng
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và
ràng buộc lẫn nhau.


- Nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển; đó là
quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay
đổi ấy là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn bên trong
của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên
hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một
tư duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn

thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn
thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái
tĩnh..mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy
cả rừng".
Phương pháp biện chứng đã phát triển trải qua ba giai đoạn và được thể hiện qua
ba hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện
chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.
- Trong phép biện chứng tự phát thời cổ đại, các nhà biện chứng cả phương
Đông và phương Tây đã thấy các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ sinh thành, biến
hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhưng đó mới chỉ là cái nhìn trực
quan, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
- Trong phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao là triết học cổ điển Đức (người
khởi xướng là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen), lần đầu tiên trong lịch sử
tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những
nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Nhưng đó là phép biện
chứng duy tâm, bởi nó bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần; thế giới hiện
thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối.
- Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần
bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen
để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ
phổ biến và về sự phát triển d¬ới hình thức hoàn bị nhất.


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra
và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng


trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy

con người.
* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu
cơ giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là
một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”,
triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố
định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất
phát của phương pháp luận.
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ
với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng
trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng
đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế
giới quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên
tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần
biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận
dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học MácLênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học
cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết
học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định
hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt
quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết
học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các


nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử
phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó

càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với
những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học
sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát
khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không
đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng
trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết
luận sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi
cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri
thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri
thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người.
Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó
mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm
mang tính giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta
cần tránh cả hai thái cực sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông
rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một
cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà


không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị
vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng
và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết
quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung,

triết học Mác - Lênin nói riêng.
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng
của triết học như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục,
nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp
luận. Trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, thế giới quan đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con người
tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan như
một thấu kính, qua đó con người nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách
thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để
xác lập nhân sinh quan tích cực.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới
quan của triết học.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh
vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là phương pháp luận.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ
đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phương pháp luận bộ môn) là phương
pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.


+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số
ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm
xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận
ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và

vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương
pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết họcđồng thời là một
nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là một lý luận về phương pháp.
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước xây
dựng và hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu một cách
hiệu quả lý luận mới, những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, có
niềm tin vào sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học chống
lại tư tưởng lạc hậu, phản động.
Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu rõ
mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng
con người, không sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy
ý chí. Có cách nhìn xa trông rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục
chủ nghĩa giáo điều, máy móc, tư tưởng nôn nóng đốt cháy giai đoạn và các sai
lầm khác.
Học tập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp học sinh trung cấp
chuyên nghiệp có động cơ học tập đúng đắn, thái độ nghiêm túc trong rèn luyện
đạo đức công dân, ý thức nghề nghiệp của người lao động tương lai. Để đạt
được mục đích đó người học cần chú ý liên hệ từng nguyên lý, có ý thức trách
nhiệm trong học tập, rèn luyện, từng bước vận dụng vào đời sống, xây dựng tập


thể, góp phần lớn nhất vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.

CHƯƠNG 3: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO BẢN THÂN.
Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử
dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng

tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống. Chúng ta
hiện nay đều là những tân sinh viên, khi mới nhập học hầu như là không quen
biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy , chắc chắn chúng ta đều có những ấn
tượng đầu tiên về ngoại hình , tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần
gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt , dễ tính hay khó
tính. Cách đánh giá như vậy là phiến diện , chủ quan trái với quan điểm toàn
diện. Điều có thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm . Chẳng hạn như
khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn , ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết
luận là người tốt và muốn làm bạn , còn khi nhìn thấy một người ít nói , không
hay cười thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới
nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi dụng bạn
bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng , hay giúp đỡ bạn bè. Ấn
tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn
diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem
xét đánh giá một cách toàn diện , mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật
sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán xét về
phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể


bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì
vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận
họ trên mọi phương diện , ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử
sao cho phù hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông
,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ.
Đối với bạn bè thì có những hành động , thái độ thoải mái,tự nhiên .Ngay cả
quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời
gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như
ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu

,tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay
anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa ,
chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao
tiếp , kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng
ta cần xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có
cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi , điểm số giảm cần tìm nguyên
nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập
hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ
tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:Trong
học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có
kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học
tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch
sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc
học một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :


- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng
da, bằng mũi, bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì
để làm, học để tồn tại, học để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn
loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải
tốn nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các
giống lúa, loại nào phù hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách
chăm bón đúng cách để đạt năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết
thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa

vẫn dạy rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy,
phải luôn ý thực là lí thuyết hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của
thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành
được hiểu khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau.
Trước hết ta cần hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách
vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời
tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức,
mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, không để tụt lùi,
lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm chinh
phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là
ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có
mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình
thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập.
Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào


thực tiễn, thì học cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường
vào một nhà máy, một cơ quan… Lúng túng không biết phải làm công việc mà
chuyên môn mình đã được học như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn,
nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không
“hành” được là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không
thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt
động.
Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh
nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng,
gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to
lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để
mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống.

Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường
phổ thông đã khiến các sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học
nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được
học vào việc gì ngoài việc để... thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều
học sinh, sinh viên đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào
cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi:
“Không biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất
là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải
rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có
đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và
đức là những phẩm chất khác nhau nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể
tách rời. Có tài mà không có đức là người vô dụng, bởi tài năng đó không phục


vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá
trị. Con người ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét chính
bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người không có
đức là người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng
chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược
lại lợi ích của tập thể thì chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài
mà kém đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức,
có khát vọng hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức,
năng lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp
con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng

trong đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và
đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở nên toàn diện,
mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong
quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân
cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải
rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà
trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị
trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận


của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế
giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình
thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai
phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành
công cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng
con người của những lực lượng xã hội tiến bộ.




×