Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN hướng tiếp nhận tác phẩm văn học cổ trong chương trình THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.98 KB, 24 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Phòng GD và ĐT Phù Cừ
Trường THCS Tam Đa

Sáng Kiến Kinh Nghiệm
Tên đề tài:

“Hướng Tiếp nhận tác phẩm văn học cổ trong chương trình
THCS”

Người thực hiện :Nguyễn Thúy Hoa
Chức vụ :Giáo viên
Đơn vị công tác :Trường THCS Tam Đa

Năm học 2013-2014

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

1


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Phần B :Nội dung đề tài sang kiến kinh nghiệm

I/Mở đầu
a/Đặt vấn đề:
Thực trạng của việc học tập và nghiờn cứu các tác phẩm văn học trung đại của


học sinh trường THCS Tam Đa nói chung và học sinh lớp 9A nói riờng gặp nhiều
khó khăn ,và mong muốn giúp đỡ các em học sinh tháo gỡ khó khăn này và học
tập bộ môn ngữ văn cho tốt.
ý nghĩa :Với đề tài này nếu thực hiện nghiờm tỳc thỡ sẽ giỳp cho HS tiếp cận
cỏc tỏc phẩm văn học cổ không cũn gặp khú khăn nữa.
Phạm vi nghiên cứu :các tác phẩm văn học trung đại trong chương trỡnh ngữ văn
trung học cơ sở và đối tượng là học sinh lớp 9A trường Trung học cơ sở Tam Đa.
b/Phương pháp tiến hành:
* Cơ sở lí luân.

Văn bản văn chương là văn bản nghệ thuật. Nghệ thuật nào cũng
lấy cái đẹp làm mục đích. Dạy văn là khám phá cái hay, cái đẹp trong
văn bản nghệ thuật , nên trước hết dạy văn là một nghệ thuật , nghệ
thuật cảm thụ và thể hiện( phô diễn) cái đẹp .
Nói đến văn chương là nói đến cái đẹp . Có điều cái đẹp của văn
chương không tác động trực tiếp, trực giác , không bày ra, phô diễn gần
như tất cả , gần như đồng thời chinh phục ngay giác quan ,cảm quan của
người tiếp nhận như hội hoạ hay kiến trúc . Cái đẹp của văn chương

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

2


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

không chỉ thể hiện ở bề mặt ngôn từ mà còn chìm sâu vào nhiều tầng
lớp nghĩa của văn bản, của thế giới hình tượng, chính vì vậy tiếp nhận

cái đẹp của văn chương không giống như việc tiếp nhận cái đẹp do các
ngành nghệ thuật khác sáng tạo ra .Đó là bản chất đặc thù bất biến của
việc tiếp nhận văn học .
Cụ thể , Văn học cổ ở lớp 9 chỉ là một bộ phận , một mảng văn
học trong tổng thể nền văn học Việt Nam .Nó mang đặc trưng chung
của tác phẩm văn học nghệ thuật như mọi tác phẩm văn học khác , đồng
thời nó cũng có những nét riêng , đặc trưng riêng ,mang dấu ấn, màu sắc
của thời đại, quan điểm thẩm mĩ , tư tưởng , ý thức hệ thời phong
kiến....Văn học cổ - văn thơ cổ là tên gọi chung cho các tác phẩm văn
chương được sáng tác trong 10 thế kỉ đầu của văn học dân tộc từ thế kỉ
X đến thế kỉ XIX, kể cả một số tác phẩm xuất hiện vào đầu thế kỉ XX
nhưng được sáng tác theo quan điểm thẩm mĩ, theo đặc điểm đề tài, đặc
điểm ngôn ngữ của các nhà thơ xưa như những bài thơ của Nguyễn
Khuyến , Trần Tế Xương ... sau này (trong chương trình cũ). Đấy là bộ
phận quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc gồm các tác phẩm ưu tú
của các nhà thơ,nhà văn lớn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu , Truyền kì mạn lục của Nguyễn
Dữ, Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô gia văn phái....Các tác
phẩm đó đã vượt qua những biến cố của lịch sử , qua thử thách khắc
nghiệt của thời gian đến với chúng ta và hôm nay vẫn còn nguyên giá trị
. Với nội dung nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc , văn thơ cổ cho học
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

3


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn


sinh hình dung được đất nước, xã hội , con người những thời đại đã qua
, phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân để bảo vệ nền độc lập của Tổ
quốc , bảo vệ quyền sống , tình yêu hạnh phúc và phẩm giá của mình .
Đó cũng là những mẫu mực về thể loại ,về ngôn ngữ trong văn học .
Tác phẩm văn chương cổ điển thực sự là nguồn cảm hứng vô tận mà
mỗi chúng ta có thể khai thác để bồi dưỡng tâm hồn thế hệ trẻ.
Việc tiếp nhận những tác phẩm văn học này không tránh khỏi
những khó khăn khách quan - đối tượng tiếp nhận ( tác phẩm) Những
rào cản ngôn ngữ, sự cách biệt về khoảng cách thời gian .. .Đặc biệt sự
khó khăn do yếu tố chủ quan – bản thân chủ thể tiếp nhận ( Đặc điểm
tâm lí, trình độ hiểu biết, năng lực cảm nhận, sở thích cá nhân....). Như
vậy việc tiếp nhận tác phẩm văn học cổ chỉ thực sự có hiệu quả khi
chúng ta nhận thấy rõ những thuận lợi , khó khăn , những cái bất biến
và những cái khả biến ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiếp nhận tác
phẩm văn học cổ ở lớp 9. Đây là nhiệm vụ bắt buộc, là chìa khoá để mỗi
giáo viên , mỗi người yêu thích văn học phải có để thưởng thức cảm
nhận và truyền đạt lại, thể hiện lại hoặc định hướng cho học sinh của
mình có được sự đồng cảm , có được tiếng nói chung trong quá trình
tiếp nhận .
* Cơ sở thực tiễn.

Ngày nay khi học sinh tiếp cận với tác phẩm văn chương gặp rất
nhiều khó khăn mà trước hết là khó khăn về khoảng cách rất lớn giữa
các thế hệ . Văn chương cổ dù có là những áng văn thơ xuất sắc đối với
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

4



Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

học sinh lớp 9 vẫn là những tiếng nói và cách nói rất xa lạ . Đó là những
tiếng nói , cách nói của những người từng sống cách ta hàng mấy trăm
năm ,có cách cảm ,cách nghĩ , cách sinh hoạt, quan điểm thẩm mĩ , cách
trình bày diễn đạt khác hẳn ta...
Khó khăn thứ hai mà học sinh gặp phải khi tiếp cận tác
phẩm văn chương cổ , đó là hàng rào ngôn ngữ . Ngôn ngữ trong tác
phẩm văn chương cổ với nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng , cách dùng
điển cố , từ ngữ Hán Việt , thuật ngữ xưa , từ cổ ...Đi vào từng tác phẩm
cụ thể thì ngôn ngữ của thơ, phú văn chính luận ...lại có những điểm
riêng mà học sinh ngày nay nếu không được hướng dẫn , giải thích thì
khó mà hiểu , cảm nổi .Đặc biệt hơn ,ngày nay lớp trẻ mang

sẵn tư tưởng dựa dẫm ,ít chịu đào sâu suy nghĩ , thích cái mới , đơn
giản , hời hợt,... vì thế việc hiểu và tiếp nhận một tác phẩm văn học cổ
là một vấn đề không còn đơn giản.
Trước những vấn đề đó , là một giáo viên trẻ , tôi mạnh dạn đưa
ra những suy nghĩ , những hiểu biết của mình , những kiến thức từ thực
tiễn giảng dạy , học hỏi ....để làm cơ sở cho việc giảng dạy của bản thân
và quá trình tiếp nhận ,học tập của học sinh. Đây chính là lí do mà tôi
chọn đề tài này.
*Phương pháp nghiên cứu.

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

5



Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

- Phương pháp phân tích .
- Phương pháp so sánh .
- Phương pháp thực nghiệm.

II/Nội dung đề tài.
* Mục tiờu của đề tài .

Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài này người viết muốn đưa ra
cách tiếp nhận tác phẩm văn học cổ , phân biệt và chỉ ra sự khác biệt với
tác phẩm văn học hiện đại . Từ đó có cách thức, đường hướng giảng dạy
và tiếp nhận tác phẩm văn học cổ theo đúng nghĩa của
*Nội dung của đề tài:

1/ Khái niệm tiếp nhận văn học.
Tiếp nhận : là đón nhận từ tay người trao.

Tiếp nhận văn học: là nhận lấy nội dung , thông điệp, lời gửi
của tác giả về một vấn đề nào đó như tình yêu quê hương đất nước,
tình thương yêu con người và cuộc sống con người trong xã hội ở mọi
thời đại qua tác phẩm văn học .
Với những tác phẩm văn học cổ , việc tiếp nhận có khó khăn hơn ,
khác biệt hơn những tác phẩm văn học hiện đại hoặc tác phẩm văn học
dân gian...Một vấn đề đặt ra là thực trạng tiếp nhận văn học cổ hiện nay
như thế nào?
2/Thực trạng tiếp nhận văn học cổ.
Nguyễn Thúy Hoa –


THCS Tam Đa

6


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Thực tế , học sinh đã được học các tác tác phẩm văn học cổ từ các
khối lớp 7,8. Nên ít nhiều các em cũng được trang bị cách thức ,
phương pháp tiếp nhận. Thế nhưng thực tế học sinh khối lớp 9 qua điều
tra thì phần lớn các em ít có sự phân biệt rõ rệt ranh giới của các tác
phẩm văn học . Các em cảm nhận tất cả các tác phẩm văn học như nhau.
Có em học sinh đã đưa ra tình huống rất hiện đại là “ Tại sao Vũ
Nương không ra toà cắt đứt với Trương Sinh mà phải nhảy xuống sông
tự tử cho phí đời” ?
Hoặc cũng có những trường hợp học sinh không hiểu hết những từ ngữ
như : “ một hai nghiêng nước nghiêng thành” và “ nét ngài” trong đoạn
trích Chị em Thuý Kiều , hoặc “ mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín lối thì nỗi buồn góc bể chân trời ....” trong Chuyện người con
gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ... .Hoăc có em đọc được câu thơ “
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” đã vội hiểu ( tạc dạ) là ghi lòng tạc dạ...
Phần lớn các em có sự hiểu biết đúng đắn song cũng không ít học sinh
khiến cho người đọc phải cười ra nước mắt vì cách suy diễn thiếu cơ sở
của các em...Vì vậy, trước một tác phẩm cụ thể vĩnh hằng bất biến trước
thời gian thì sự khác nhau về tâm lí, trình độ , năng lực , sở thích, thói
quen.... của người tiếp nhận sẽ tạo ra kết quả tiếp nhận khác nhau .
Trước tình hình đó chúng ta cần làm thế nào?
3/Giải pháp của đề tài:
Trong chương trình Ngữ văn 9 , chúng ta sẽ gặp một số tác phẩm tự sự

cổ . Những tác phẩm ấy gồm:
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

7


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

- Mảng văn xuôi như : Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn
Dữ , Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ , Hoàng Lê
nhất thống chí của Ngô gia văn phái ,
- Mảng truyện thơ như Truyện Kiều của Nguyễn Du , Truyện Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu .
- Khi giảng dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh cách tiếp nhận tác phẩm,
có hai điều cần lưu ý:
Một là : Tác phẩm văn học cổ cũng là tác phẩm văn chương nên chúng
ta cũng tiếp nhận chúng với cái đích cuối cùng là những giá trị văn
chương , những thông điệp mà người nghệ sĩ gửi gắm tới mọi thế hệ
độc giả qua những hình tượng nghệ thuật, và hình thức thể hiện
mang đặc trưng ,dấu ấn của thời đại .
Hai là: tiếp nhận tác phẩm văn học cổ với những đặc trưng riêng của nó
. Đó là hoàn cảnh lịch sử , quan điểm thẩm mĩ , những quan niệm
xã hội ....
Có thể nói, khi giảng dạy phải cố gắng giải quyết những khâu
quan trọng trước khi đi vào tác phẩm như hàng rào ngôn ngữ , rút
ngắn khoảng cách .
Đặc điểm của tự sự cổ là kết cấu xuôi chiều theo thời gian, nhân
vật còn đơn tuyến . Thời phong kiến, trừ các truyện mang tính sử ký ,

còn phần lớn người ta lấy cuộc đời thực , con người thực trong hiện tại
để viết thành truyện . Phần lớn các truyện này đều mượn sự tích đời xưa
hay sự tích nước ngoài để nói về cuộc sống hiện tại hay gửi gắm tâm sự
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

8


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

của mình . Người con gái Nam Xương, Truyện Kiều , Lục Vân Tiên ,...
đều nằm trong trường hợp này.
Nhân vật chính trong tác phẩm có tầm quan trọng đặc biệt, câu
chuyện trong truyện là chuyện của nhân vật nên người xưa thường lấy
tên của nhân vật chính đặt tên cho tác phẩm như: Người con gái Nam
Xương , Lục Vân Tiên , Truyện Kiều ....
Truyện cổ nói chung do nhu cầu tâm lí và tâm lí của người xưa
nên thường được kết cấu hoàn chỉnh , phần kết thúc bao giờ cũng thoả
mãn được tâm lí người đọc người nghe, không bỏ lửng câu chuyện .
*Các bước cần thực hiện khi tiếp nhận tác phẩm văn học cổ.
Bước1 - Đọc tác phẩm.
Bước 2 - Nắm vững cốt truyện .
Bước 3 - Phân tích nhân vật .
Bước 4 - Phân tích ngôn ngữ .
Bước 5 – Cảm nhận chung.(Đánh giá sơ bộ về nội dung)
* Cụ thể:
Bước1 - Đọc tác phẩm.
Văn xuôi cổ được viết theo lối biền văn , âm hưởng của biền văn

thể hiện trong cách ngắt nhịp , đọc thuận miệng , nghe sướng tai . Vì
thế, chúng ta phải hướng dẫn học sinh đọc cho đúng với tính chất cân
đối , nhịp nhàng, ngắt nghỉ ,lên xuống giọng đúng điệu , đúng chỗ ,
đồng thời phải thể hiện được giọng điệu , tính cách , tâm trạng của nhân
vật .
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

9


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Ví dụ:
(*)Đoạn văn cho thấy sự bịn dịn, quyến luyến của Vũ Nương khi tiễn
chồng đi lính:
“ Chàng đi chuyến này// thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu // mặc áo gấm trở về quê cũ// chỉ mong ngày về mang theo được hai
chữ bình yên// thế là đủ rồi// Chỉ e việc quân khó liệu // thế giặc khôn
lường // ....”
(*) Hoặc ở Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh cũng vậy:
“ Buổi ấy // bao nhiêu những loài trân cầm dị thú // cổ mộc quái thạch//
chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian // Chúa đều sức thu lấy // không
thiếu một thứ gì// ...”
(*) Trong Hoàng Lê nhất thống chí cũng vậy .
“ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật // ngựa không kịp đóng yên // người không
kịp mặc áo giáp // dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu
phao // rồi nhắm hướng bắc mà chạy//...”
(*) Trong truyện Kiều:

“ Kiều// càng sắc sảo // mặn mà
So bề tài sắc // lại là phần hơn
Làn thu thuỷ // nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm// liễu hờn kém xanh”

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

10


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Như vậy, việc đầu tiên của quá trình tiếp nhận là phải đọc cho đúng ngữ
điệu , đúng nhịp, ngắt nghỉ đúng chỗ để cảm nhận chung.
Bước 2/ Nắm vững cốt truyện.
Cốt truyện của tác phẩm văn học cổ chưa phức tạp lắt léo như tác
phẩm văn chương hiện đại . Nhưng không vì thế mà coi thường việc
hướng dẫn học sinh tóm tắt cốt truyện và phân tích cốt truyện , các
chặng phát triển của tình tiết và đặc biệt là kết thúc có hậu của truyện
phải được kể lại với niềm hân hoan , thoả mãn...
Bước 3/ Phân tích nhân vật
*Điểm giống nhau giữa tác phẩm hiện đại và tác phẩm văn học cổ khi
phân tích ở chỗ từ các chi tiết mà làm sáng tỏ tính cách nhân vật .
* Điểm khác nhau cơ bản là ở tác phẩm văn học cổ ,phân tích nhân vật
phải đặt nhân vật vào hoàn cảnh lịch sử mà phân tích,đánh giá . Không
thể và không nên lấy tiêu chuẩn trong hiện tại , cách nhìn hiện tại ,
quan điểm xã hội đương đại mà nhận xét ,bình giá nhân vật trong tác
phẩm văn học cổ vì như vậy là thiếu công bằng, thiếu toàn diện .

Chẳng hạn : cái đẹp của nhân vật Thuý Vân ,Thuý Kiều là cái đẹp theo
quan điểm thẩm mĩ phong kiến , nó được biểu hiện với bút pháp tượng
trưng ,ước lệ .
Chúng ta thấy quan niệm trong văn học cổ , quan điểm thẩm mĩ phong
kiến là lấy thiên nhiên làm thước đo , làm chuẩn mực cho cái đẹp . Vì
thế cái đẹp của các nhân vật thường được so sánh , thể hiện vẻ đẹp bằng
các hình ảnh của thiên nhiên như “ trăng , hoa , tuyết, nguyệt” ... vì thế
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

11


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

chúng ta không lấy gì làm lạ khi Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ
, tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của nhân vật trong tác phẩm của
mình :Vì vậy khi phân tích vẻ đẹp của nhân vật phải phá vỡ rào cản
ngôn ngữ , những điển tích , từ cổ mà tác giả sử dụng ...mang tính
ươc lệ.
Chẳng hạn:Đoạn thơ miêu tả Thuý Vân :
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc , tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Vân qua cách miêu tả trên đây, là vẻ đẹp phúc hậu, vẻ đẹp
mà thiên nhiên nhường nhịn - một vẻ đẹp báo trước cuộc sống bình lặng
, êm xuôi. Các hình ảnh thiên nhiên được sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của
Vân được hiểu như sau: Khuôn trăng đầy đặn ý nói khuôn mặt đầy đặn

như mặt trăng tròn ; nét ngài là nét lông mày , ý nói lông mày hơi đậm ,
cốt tả đôi mắt đẹp – nét ngài còn có ý kiến cho rằng
đó là nét người( đọc chệch âm ngài và người ) . Màu mây được ví với
màu tóc của ThuýVân – màu tóc còn đẹp hơn màu mây; da của nàng
còn trắng hơn tuyết.
Thuý Kiều được miêu tả với vẻ đẹp khiến cho hoa ghen , liễu
hờn, vẻ đẹp nghiêng nước ,nghiêng thành :
“Làn thu thuỷ , nét xuân sơn
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

12


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước , nghiêng thành
Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai”
ở đây làn thu thuỷ được hiểu là làn nước mùa thu ; nét xuân sơn là
nét núi mùa xuân . Cả câu thơ ý nói mắt đẹp , trong sáng như nước mùa
thu , lông mày đẹp , thanh thoát như nét núi mùa xuân .
Cụm từ “nghiêng nước”, “nghiêng thành” lấy ý ở một câu chữ hán
Nhất cố khuynh nhãn thành
………………….
Ở đây chỉ sắc đẹp phi thường , sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có
thể làm cho người ta mê đắm đến nỗi mất thành , mất nước .
Nguyễn Du đã khắc hoạ vẻ đẹp toàn thiện , toàn mĩ trong cốt cách và
trong phẩm cách hai chị em ngoài hình tượng phong cách tu từ ẩn dụ ,

so sánh , nhân cách hoá hình tượng thiên nhiên .Đây là những hình
tượng thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt trong trắng , rực rỡ , vững bền như
tuyết- mai, trăng- hoa , mây- tuyết, thu- thuỷ xuân- sơn , hoa- liễu ...
thể hiện bút pháp cực tả tuyệt đối hoá , lí tưởng hoá nhan sắc , cốt cách
hai chị em Thuý Kiều . Phong cách cú pháp sử dụng tiểu đối tạo ra âm
điệu , tiết tấu cân đối , nhịp nhàng , góp phần nhấn mạnh sự toàn thiện ,
toàn mĩ trong nhan sắc và cốt cách chị em Thuý Kiều.
Ngược lại , Văn học hiện đại lại lấy con người làm chuẩn mực
cho cái đẹp , làm thước đo cho cái đẹp chẳng hạn:
Nhà thơ Xuân Diệu từng viết trong bài Vội vàng :
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

13


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Tháng giêng là thời gian, ý chỉ tháng đầu tiên trong năm tương ứng với
cảnh vật tươi đẹp, đầy sức sống, đó là sắc xuân trong sự cảm nhận của
tác giả thật cụ thể, thật mới mẻ và hiện đại.
Hoặc trong bài Cảnh Khuya Bác viết :
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Lấy tiếng suối so sánh với tiếng hát. Đây là một sự sáng tạo, một cách
tân nghệ thuật mà chỉ văn học hiện đại mới có.
Đó là sự đối lập hoàn toàn về quan niệm thẩm mĩ ở hai thời đại
khác nhau .
Trong truyện “Người con gái Nam Xương” chỉ vì một câu nói ngây thơ

của con trẻ mà người chồng đã vội tin và trút hết oan khiên lên đầu vợ ,
và sau này cũng chỉ một câu nói ngây thơ của con mà tất cả những oan
khiên cũng được làm sáng tỏ . Lại còn chuyện Vũ Nương ở thuỷ cung
và trở lại cõi đời trong giây lát rồi quay về thuỷ cung . Nếu lấy con mắt
hiện đại mà suy xét, đánh giá thì không thể chấp nhận được . Đến như
việc Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ( trong truyện Lục Vân Tiên) lúc
nước sôi lửa bỏng ấy màVân Tiên còn nói :
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ,ta là phận trai”
Nếu không được lí giải theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì học sinh
THCS ngày nay sao có thể hiểu và đồng tình được .
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

14


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Tất cả những điều trên chỉ được giải quyết khi đặt nhân vật vào hoàn
cảnh lịch sử , có sự đồng cảm với nhân vật .
Bước 4/ Phân tích ngôn ngữ .
Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự cổ với những biện pháp diễn đạt
như ước lệ , tượng trưng , điển cố,.... phải được giảng giải nhưng phải
tuỳ từng trường hợp , giảng ước lệ , tượng trưng phải hiểu đây là
những sáng tạo nghệ thuật của mĩ học phong kiến ; Nó có giá trị thẩm
mĩ nhất định . Giảng ước lệ, tượng trưng phải đặt nó vào trong văn
cảnh , gắn nó với câu văn , câu thơ hay cụm từ cùng đi với nó tạo
thành hình tượng hoàn chỉnh . Giảng điển cố phải hiểu được điển cố

nhưng không cần nói kỹ cho học sinh mà chỉ làm sao học sinh hiểu
nghĩa của đoạn văn đoạn thơ ...
Gặp những tự sự cổ mà có nguyên tác bằng chữ Hán , bài học chỉ
là bản dịch thì nói chung không nên bám vào từ ngữ , vì đó là ngôn ngữ
dịch không phải ngôn ngữ gốc của văn bản ... trừ khi đó là những từ
ngữ có giá trị nhất định thì chúng ta cũng cần lưu ý thoả đáng...
Lời kể trong các tác phẩm của tự sự cổ có một vị trí khá quan trọng .
Lời kể trong truyện Kiều đã thành điêu luyện , có nhiều ý vị . Lời kể ở
đây đã rất tự nhiên, sinh động và truyền cảm . Lời tựa được thay đổi
luôn , kể xen với tả , kể bằng tả . Có khi là lời của chính tác giả , có khi
tác giả đã để cho nhân vật tự kể về mình.
Bước 5 (Cảm nhận chung-Đánh giá sơ bộ về nội dung).

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

15


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Tới đây , tối thiểu học sinh phải nhận thức được rằng thuộc tính
của văn học là phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ
quan của tác giả nhằm bồi dưỡng tư tưởng tình cảm người đọc,
mang đến những giá trị như: Chân -Thiện

- Mĩ cho con người và

cuộc đời.

Như vậy, bản chất của văn học là như nhau, cùng phản ánh hiện
thực khách quan (Xã hội, thời đại, con người trong thời đại ấy...),
cùng hướng đến ca ngợi cuộc sống, ca ngợi cái cao cả, vị tha, biểu
dương cái mẫu mực.... Đồng thời lên án , phê phán cái thấp hèn, cái xấu
xa...Tất cả nhằm phát huy , duy trì cái tốt đẹp, cái chuẩn mực, khắc
phục, cải tạo cái lệch chuẩn cho đúng chuẩn mực, đúng tư tưởng thời
đại.
Có thể nói rằng, Văn học thời kì nào đi nữa dù là văn học cổ hay
văn học hiện đại thì bản chất như nhau đều phản ánh cuộc sống con
người và vì cuộc sống con người mà phản ánh. Có khác chăng chỉ
khác ở hình thức thể hiện . Hình thức thể hiện mang dấu ấn thời đại,
đó là quan niệm nghệ thuật các phạm trù mĩ học mà mỗi thời đại khác
nhau sẽ có một hình thức thể hiện khác nhau.
Có 4 câu hỏi mà bất kì người tiếp nhận văn học ( độc giả- học sinh- giáo
viên) đều phải trả lời được thì mới nắm được nội dung văn bản cụ thể
là:
? 1- Văn bản trên viết về vấn đề nào? Con người , xã hội thời nào?
( Hiên thực được phản ánh là gì? )
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

16


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

? 2- Hiện thực đó được phản ánh bằng phương thức nghệ thuật nào?
? 3- Mục đích của việc phản ánh là gì? ( Giá trị ? )
? 4- Suy nghĩ của em về vấn đề đó?

Như thế , không khó một chút nào khi ta đọc, học xong truyện Kiều ai
cũng thấy được :
* Hiện thực được phản ánh trong truyện Kiều là một xã hội phong
kiến thối nát , một xã hội vì tiền, sức mạnh của đồng tiền làm đảo lộn
trật tự xã hội ... Một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn trong một gia đình gia
giáo có tâm hồn trong sáng, tấm lòng hiếu thảo, vị tha...lại phải chịu đau
khổ trong kiếp đoạn trường lưu lạc mười lăm năm chìm nổi, “ thanh
lâu hai lượt, thanh y hai lần”...chỉ vì để có tiền cứu cha và em bị vu oan
giá hoạ...
* Hình thức nghệ thuật : bút pháp ước lệ, tượng trưng, điển tích...
*Mục đích phản ánh:
+Phê phán, tố cáo xã hội thối nát trà đạp lên số phận , nhân phẩm con
người...( Giá trị hiện thực của tác phẩm)
+ Bênh vực , cảm thương , xót xa cho số kiếp người phụ nữ tài hoa , bạc
mệnh...( Giá trị nhân đạo )
.........................
4/Kết quả:
Sau khi thực hiện những giải pháp trên, kết quả thu được rất khả
quan. Nếu như trước đó học sinh không phân biệt các tác phẩm theo tiến
trình lịch sử, đánh đồng cách cảm thụ các tác phẩm văn học hiện đại và
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

17


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

văn học cổ... thì nay hầu hết các em biết cách cảm thụ, phân tích...không

còn hiện tượng nhầm lẫn đáng buồn, các em biết giải thích từ ngữ , biết
tìm hiểu thời đại , biết được quan điểm lễ giáo phong kiến như “ Tam
cương, ngũ thường”, “Tam tòng tứ đức,”, “ Công, dung, ngôn ,
hạnh”...hoặc “ Nam nữ thụ thụ bất thân”....
Đúc rút kinh nghiệm

Vì thế, dựa theo đặc điểm bài văn để chọn cách tiếp nhận là một điều
nên làm . Chẳng hạn : Nếu theo đặc điểm thể tài ,các tác phẩm văn
chương cổ có thơ Đường luật , có văn chính luận , có truyện ( truyện thơ
và truyện văn xuôi ) , nếu theo đặc điểm ngôn ngữ nói chung thì tác
phẩm văn thơ cổ đều có ước lệ, tượng trưng, điển tích, điển cố, từ
cổ , từ Hán Việt...
Mỗi thể tài ,mỗi đặc điểm ngôn ngữ khác nhau sẽ có cách tiếp nhận
khác nhau.
Vì vậy , khi giảng dạy tác phẩm văn thơ cổ việc cần làm đầu tiên
là phải phá vỡ hàng rào ngôn ngữ . Muốn cho học sinh hiểu và cảm
thụ thơ văn một cách có hiệu quả thì trước hết phải tạo điều kiện cho
học sinh tiếp cận tác phẩm . Đứng trước một bài thơ , bài văn mà học
sinh không hiểu nghĩa câu văn , câu thơ thì làm sao có thể hiểu được
bài văn, bài thơ . Những điển tích, những từ Hán Việt, những cách nói ,
ước lệ tượng trưng trong tác phẩm văn chương cổ đã tạo thành hàng rào
ngăn cách mà học sinh THCS ngày nay rất khó vượt qua . Nếu học sinh
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

18


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn


không được giảng , được hiểu thì làm sao đi sâu vào tác phẩm được .
Như vậy , đối với học sinh, ngôn ngữ phải “vỡ nghĩa” thì việc tìm hiểu
tác phẩm mới có kết quả được , phải đi từ “ chữ nghĩa văn bản”- “ bắt
đầu từ những cái bắt đầu”. Chỉ sau khi nắm vững ý nghĩa từng từ , từng
câu , tiến tới chỗ nắm vững ý nghĩa toàn bài ... Khi ấy việc hiểu , cảm
của học sinh mới được sâu sắc.
Việc làm thứ hai nhất định phải rút ngắn khoảng cách .
Đây là nguyên tắc dạy học văn theo quan điểm lịch sử, có thể là cách tốt
nhất để rút ngắn khoảng cách quá xa giữa lớp người rất xưa với lớp
người rất trẻ hôm nay . Nghĩa là người dạy và người học phải có cái
nhìn biện chứng và lịch sử . Những tác phẩm văn chương cổ có cách
nhìn, lối nghĩ thiện cảm , lối sống không hoàn toàn giống chúng ta lại
được trình bày dưới những hình thức biểu đạt rất khác ta. Một vốn sống
cổ , một sự am hiểu cuộc sống của người xưa cũng như cách thể hiện
cảm xúc của họ sẽ giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm văn chương cổ dễ
dàng hơn...
III/Kết luận :
Nói chung văn thơ cổ có giá trị to lớn trong việc giáo dục , bồi
dưỡng cho học sinh. Dạy – học văn thơ cổ là niềm vinh dự , là nghĩa vụ
của giáo viên và học sinh , nhưng nếu không khéo lại để biến những giờ
dạy và học văn thơ cổ thành những giờ “tra tấn” lẫn nhau.

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

19



Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Để dạy – học tốt phần này, giáo viên phải có một vốn hiểu biết
rộng rãi , vốn sống , vốn ngoại ngữ , vốn văn học cổ và nhất là tấm lòng
say mê, đồng cảm vói tiếng nói của cha ông .
Trong giai đoạn hiện nay, cả xã hội , cả ngành giáo dục đã và đang phát
động đổi mới phương pháp dạy hoc... phổ biến nhất là
“ Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” . Đây là quan điểm mới.
Nhưng dù thế nào thì người dạy cũng phải linh hoạt, tuỳ cơ ứng biến.
Không có một phương pháp nào là phương pháp cố định bất biến... vì
trình độ nhận thức của học sinh là đa dạng cho nên, yếu tố quyết định
vẫn là thầy . Chỉ có người thầy quyết định phương pháp chứ không có
phương pháp nào quy định người thầy. Vì thế, trong phạm vi nhỏ hẹp
của đề tài này tôi mạnh dạn đưa ra suy nghĩ, ý kiến của mình trên cơ sở
thực tiễn giảng dạy , học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm của các thầy
cô giáo , các bạn đồng nghiệp ... ,để góp một tiếng nói chung vào quá
trình giảng dạy văn học trong nhà trường thực sự có chất lượng và hiệu
quả.
Vẫn biết rằng Mĩ trung bất túc, nhân vô thập toàn, ý tưởng lớn hơn
rất nhiều so với khả năng ... , cho nên đề tài này không tránh khỏi
những thiếu sót... Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài này hoàn thiện hơn.
* Những vấn đề bỏ ngỏ.

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

20



Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài này, người viêt mới chỉ đưa ra cách
thức chung khi cảm nhận tiếp thu các tác phẩm truyện trong văn học cổ
ở chương trình Ngữ Văn 9. Vì vậy còn rất nhiều vấn đề như:
+ Quá trình phát triển của Văn học cổ.
+Các tác phẩm thơ cổ trong chương trình Ngữ Văn ở trường THCS.
+ Quan điểm thẩm mĩ và tư tưởng , ý thức hệ phong kiến,.
* Điều kiện thực hiện đề tài.
Bằng thực tiễn giảng dạy, sự tích luỹ , học hỏi và đúc rút kinh
nghiệm trong các đợt hội giảng ở trường, các đợt sinh hoạt chuyên môn
ở tổ..., sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo , các bạn đồng
nghiệp... đã giúp tôi thực hiện đề tài này.
Đề tài này, trước hết là kinh nghiệm của cá nhân tôi được ứng
dụng trong thực tiễn giảng dạy tác phẩm văn học cổ ở lớp 9 . Hi vọng
nó sẽ là cơ sở để học sinh cảm thụ và tiếp nhận tác phẩm văn học cổ tốt
hơn.
*Kiến nghị
Như ở trên đã nói, văn học cổ cách xa chúng ta hàng trăm năm nên có 2
khó khăn như: Khoảng cách thời gian và rào cản ngôn ngữ. Vì vậy
tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề như:
- Nhà trường cần trang bị nhiều hơn nữa những tài liệu tham khảo về
mảng văn học này , những chân dung nhà văn trong mảng văn học cổ,
những cuốn lịch sử văn học .

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa


21


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

- Duy trì tốt các buổi sinh hoạt chuyên đề để chúng tôi có dịp trao đổi,
giao lưu , học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau...
Đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi,không sao chép của người
khác.

Tam Đa : 18/3/2014
Người viết: Ngyễn Thúy Hoa

Tài liệu tham khảo.

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

22


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

1/ Giảng văn Truyện Kiều -

- Đặng Thanh Lê.

2/Phương pháp giảng dạy văn học - Nguyễn Thị Thanh Hương
3/ Từ điển Tiếng Viêt-


- NXB Khoa học xã hội.

4/ Sách giáo khoa,

- NXB Giáo dục

5/ Sách giáo viên Ngữ Văn9-

- NXB Giáo dục

6/ Công nghệ dạy văn
7/ Hoạt động dạy học

- Phạm Toàn
- NXB Giáo dục

Xác nhận của hội đồng khoa học
Trường THCS Tam Đa.
Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

23


Sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn

Tổng điểm……………xếp loại :……………….
TM.Hội đồng khoa học trường

Hiệu trưởng:

Xác nhận của hội đồng khoa học
Phòng GD và ĐT Phù Cừ:
Tổng điểm……………xếp loại :……………….
TM.Hội đồng khoa học phòng:

Nguyễn Thúy Hoa –

THCS Tam Đa

24



×