Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp dạy học nhằm giúp học sinh trung học cơ sở tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc hiểu văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM GIÚP HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TIẾP NHẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC MỘT
CÁCH HIỆU QUẢ TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Hà
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác:Trường THCS Minh Khai
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Ngữ văn

Thanh Hóa, tháng 4 năm 2017


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp giảng
dạy Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả
giờ dạy học. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn
học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định
hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn
Ngữ văn.
Đã từ lâu, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú


học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ dạy - học văn là làm sao
gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng
dạy tác phẩm văn học tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc
truyền đạt kiến thức, người giáo viên còn cần phải biết gây hứng thú học tập cho
học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, giúp học sinh tiếp thu kiến
thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ
động, tích cực, sáng tạo và phát huy năng lực của học sinh. Trong phạm vi của
sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số kinh nghiệm giảng dạy nhằm
giúp học sinh THCS tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc
hiểu văn bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, nghiên cứu đề tài để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả
và nâng cao chất lượng trong giờ dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Bên cạnh
đó, nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút ra kết luận
về các giải pháp nhằm giúp học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả trong
tiết học đọc - hiểu văn bản, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong việc
tiếp nhận tác phẩm văn học, phù hợp với mục tiêu dạy học là đặt học sinh vào vị
trí trung tâm của quá trình dạy học. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp
học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, giúp học sinh phát huy được những năng
lực sẵn có. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe – Nói –
Đọc – Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống cần
thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt,
hình thành nhân cách cho các em trong tương lai.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2


- Đối tượng chủ yếu mà sáng kiến kinh nghiệm nói đến là một số biện pháp
giảng dạy nhằm giúp học sinh trung học cơ sở tiếp nhận văn bản một cách hiệu
quả trong giờ đọc - hiểu văn bản.

- Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn
THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập những thông tin lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ
văn trong dạy học ở Trung học phổ thông, Trung học cơ sở qua tài liệu; những
kiến thức về tâm lí dạy học, tài liệu bồi dưỡng giáo dục thường xuyên…
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
của học sinh thông qua các băng đĩa dạy mẫu.
- Phương pháp điều tra
Trò chuyện, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về hiệu quả của các phương
pháp đổi mới dạy học phân môn tiếng Việt trong dạy học Ngữ văn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết về ứng dụng các phương pháp dạy
học trực quan, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học.
Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong trường, trường bạn, các
bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Nghị quyết TƯ 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ "đổi mới phương pháp dạy
học ở tất cả các cấp học bậc học " nghị quyết TƯ 2 khóa VII ( 12/1996) nhận
định: “phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học".
Trong văn kiện Đại hội Đảng VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam có chỉ rõ
phương hướng đổi mới của ngành Giáo dục - Đào tạo, đó là: "Tập trung nâng cao
chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đối với học sinh tạo ra
năng lực tự học, sáng tạo của học sinh". Để đạt được điều đó, một trong những
phương pháp quan trọng là phải tạo khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học cho học

sinh.
Nghiên cứu về khả năng tiếp nhận vấn đề, các nhà tâm lí học cho rằng, đây
là khả năng của cá nhân được biểu hiện trước hết ở kết quả của sự lĩnh hội các
tri thức mới trong quá trình học tập và sáng tạo. Trong bất cứ một công việc gì,
nếu có khả năng tiếp nhận, lĩnh hội, con người sẽ đạt được hiệu quả cao, từ
3


đó,làm nảy sinh năng lực hành động và biết hành động một cách sáng tạo đồng
thời cũng bộc lộ được những năng lực của bản thân trong quá trình hoạt động.
Việc giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả trong giờ dạy
Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói chung và của từng
giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người học nếu người dạy tạo được
thói quen tiếp nhận một cách tích cực tự thân nơi người học. Người học văn cần
phải có khả năng cách tiếp nhận văn bản một cách chủ động, toàn diện cái hay,
cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, hình ảnh, vần điệu...Cái khó của người dạy là làm
thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học.
Trong nhà trường phổ thông, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nên đối
tượng học sinh thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để
cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu
văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả... Chính vì vậy,
học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là
phải tạo được sự hứng thú, khơi dậy được khả năng tiếp nhận, phải khiến cho học
sinh biết biết tiếp nhận văn bản bằng cảm xúc chân thành, biết cảm nhận cái hay,
cái đẹp của tác phẩm văn học bằng cả tâm hồn và trái tim; biết rung động, biết
yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng; biết mở ra cánh cửa tâm hồn từ lâu bị khoá chặt
bằng những sinh hoạt đời thường để thưởng thức cái đẹp của văn chương.
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và
môn Ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm, thúc đẩy tư duy của học
sinh, mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc,

những khó khăn trong việc tìm hiểu, phân tích... nhiều khi đã khiến cho người
giáo viên ít chú trọng đến những lời giảng bình say sưa trong giờ đọc hiểu văn
bản, từ đó, làm cho giờ đọc hiểu văn bản dễ bị sa vào nhàm chán, khô khan. Vậy,
làm sao để học sinh có thể vừa được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những
gợi ý cho một đề tài thảo luận, vừa có quyền nêu những nhận xét, những cảm
nhận cá nhân về đề tài, về nhân vật, về tác giả, vừa được cọ sát tư duy mà vẫn
kích thích được cảm xúc, kích thích được những khả năng, năng lực vốn có của
các em trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học? Đó là câu hỏi mà người giáo viên
dạy ngữ văn cần phải giải mã được.
2.2 Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên:
Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm
các thầy cô được tập huấn về phương pháp dạy học, thảo luận ưu - nhược điểm
của các phương pháp, được dự các chuyên đề, chủ đề để càng ngày càng đáp ứng
tốt hơn mục tiêu của việc đổi mới, thực hiện đổi mới có hiệu quả hơn. Trong
giảng dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học,
nhường việc chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức cho người học. Học sinh
được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao
4


tiếp nhiều hơn, được trao đổi thảo luận nhiều hơn. Với tinh thần đổi mới, giờ Ngữ
văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi, khuyến khích học
sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được phương
pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn (Tiếng Việt – Văn – Tập làm văn).
Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các
tiết dạy: Tích hợp ngang (Tích hợp của ba phân môn Văn - Tiếng Việt – Tập làm
văn) và Tích hợp dọc (Tích hợp giữa các bài, các lớp trong cùng một phân môn)
phát huy tính tích cực, tư duy và năng lực của học sinh. Bên cạnh đó là việc tích
hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội một cách phù hợp trong từng tiết dạy.

Việc tích hợp và lồng ghép với liên hệ thực tế để giáo dục học sinh đã đem lại cho
bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp dạy – học mới
đang được tiếp cận một cách tích cực.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, người thầy đã dành nhiều hơn cho việc học
sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn
phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri thức
cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có nhiều
cố gắng rèn luyện kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết cho học sinh. Học sinh không
chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống
như: Nói - Viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, cảm thụ văn, biết sáng
tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn...Chính những chuyển biến này đã
giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi mới trong
phương pháp dạy – học Ngữ văn.
Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết
dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ,
không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau này
đứng trước nhiều vấn đề mới các em sẽ bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không có
đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp. Nó làm
giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học
sinh. Giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có
sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các
giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo
riêng của cá nhân.
2.2.2. Về phía học sinh:
Các em học sinh phần nào ý thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn
và coi đây là môn học công cụ trong quá trình học tập. Các em luôn cố gắng học
tập tốt và nhiều em thực sự đã có sự say mê tìm tòi, sáng tạo. Các giờ học nhìn
chung đã có một không khí mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức
là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một

chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí
5


tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận. Điều đó đã giảm
thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình.
Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu việc học của học sinh, chúng tôi nhận thấy,
nhiều học sinh vẫn có phần đối phó. Kiến thức về văn học của các em còn nghèo
nàn, phương pháp học tập còn lúng túng, nhiều học sinh còn hổng kiến thức,
nhiều học sinh tiếp nhận văn bản một cách thụ động. Đặc biệt, nhiều học sinh còn
coi việc học văn như một cực hình bởi các em chỉ quen với lối tư duy nhanh, gọn
trong thực tế mà không thích sự dài dòng với lối tư duy tưởng tượng, vốn là một
đặc trưng quan trọng của môn ngữ văn. Với vốn từ ngữ ít ỏi, nhiều học sinh dùng
từ ngữ trong giao tiếp vẫn còn thiếu chính xác, tùy tiện. Đặc biệt, các bài Tập làm
văn của các em thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách
diễn đạt còn vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là, các em
chưa có tính sáng tạo trong việc tiếp nhận và tạo lập văn bản theo yêu cầu.
Tiến hành điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng tôi thấy rõ
thực trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn:
+ Em có thấy môn Ngữ văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau
này của mình không?
+ Em có thích học Văn không?
Kết quả điều tra rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn
trăn trở, suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn Văn và năng lực dạy Ngữ
văn của mình.
Chất lượng, không khí học tập trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản ở nhiều
tiết dạy học vẫn còn tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn do các nguyên nhân sau:
- Người thầy chưa có năng khiếu truyền cảm hứng cho học sinh, chưa tìm
ra được những hướng đi mới để dẫn đắt học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Trong một số tiết dạy bình thường giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là

cung cấp cho học sinh từng kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Điều này
cũng do nguyên nhân giáo viên chưa tin vào năng lực thi công của mình, chưa
dám mạnh dạn đổi mới trong tiến trình lên lớp. Trong thao tác ghi bảng, giáo viên
thường ghi câu chữ, hình ảnh, biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên sang ngang ghi
tác dụng, ý nghĩa … một cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm mất đi tính
toàn vẹn của tác phẩm, vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở nhà.
-Thao tác vào bài (giới thiệu bài) của giáo viên thường là nhắc lại tên bài
học trước, nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không kích thích
được hứng thú học tập của học sinh.
Thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là: Câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, diễn
giảng vụn vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao trào để bổ
sung, nâng cao, mở rộng cách hiểu cho học sinh.
- Đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào các môn khoa học tự nhiên
và ngoại ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc học sinh ồ ạt
6


đăng kí học bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn hoặc ở việc tìm thầy phụ đạo thêm
và ở việc học sinh học bài ở nhà.
- Cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy
và bổ sung kiến thức học tập môn Văn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu là một số
tranh ảnh và sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên dạy chay còn học sinh
thì lúng túng không biết chọn lựa sách nào để đọc cho phù hợp. Những hoạt động
ngoại khoá để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây hứng thú học tập môn Ngữ văn
cho học sinh rất ít được tổ chức vì tốn kém, mất nhiều thời gian và công sức.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
2.3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên:
Trước hết, giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ lên
lớp: Nắm vững bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm. Hình thành giáo án theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tìm hiểu thực tế lớp dạy cụ

thể trong từng tiết học.
Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế học tập tốt cho học sinh, giúp các em
nhận thức được lợi ích của bộ môn cũng như tạo sự phát triển trí tuệ, tư duy và
tâm hồn, tình cảm cho người học. Tác dụng này phải được giáo viên nhấn mạnh
trong những tình huống phù hợp. Khi chú ý đến điều này giáo viên sẽ khắc phục
được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ động của học sinh; dần dần học sinh sẽ tích cực
chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài, lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức Ngữ
văn trong học tập và đời sống.
Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng đối
với việc tạo hứng thú cho học sinh để các em có thể tiếp nhận văn bản một cách
hiệu quả. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học sinh có thành công hay không chủ
yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên thực hiện lên lớp, trong giờ dạy cụ thể.
Muốn vậy, giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những giờ
học sinh động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như:
+ Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi
cuốn học sinh trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở nắm
vững kiến thức trọng tâm của bài học, giáo viên chú ý đến tính vừa sức, điều tiết
thích hợp để tránh nhàm chán vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến thức khó. Đối
với những bài mà các em đã học giáo viên phải huy động và củng cố kiến thức cũ
làm cơ sở hình thành kiến thức mới.
+ Đối với những kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học sinh
từ dễ đến khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức, tránh ôm đồm quá tải làm học sinh
không hứng thú vì cảm thấy bài dài và khó.
+ Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để khơi gợi
hứng thú học tập. Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức, giờ
học trở nên sinh động hơn. Để đạt điều này, giáo viên phải tạo những tình huống
có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của học sinh, học sinh sẽ cố gắng khám phá tìm
7



hiểu vấn đề. Từ đó học sinh tranh luận, thảo luận bảo vệ ý kiến của mình khi có
những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều kiện để các em lựa chọn
cách hiểu và hướng dẫn đến ý kiến đúng một cách kịp thời, phù hợp. Hoạt động
giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu tìm hiểu bài, hình thành kiến thức
mới và luyện tập thực hành. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của
thầy và trò….
Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi gợi hứng
thú học tập của học sinh, giúp cho học sinh có được sự tiếp nhận văn bản hiệu
quả. Có thể tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi giữa các nhóm nhỏ với nhau
để làm bài tập củng cố kiến thức, cũng có thể củng cố kiến thức bằng các hoạt
động “ học mà chơi, chơi mà học”. Hoặc kết hợp với những đề tài cụ thể để lôi
cuốn học sinh vào trò chơi, có động viên khen thưởng kịp thời.
+ Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa trong giờ học tạo cũng là một
biện pháp tạo ra được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài mà ví dụ
khô khan, xa lạ, khó hiểu giáo viên nên chủ động nêu các ví dụ gần gũi với cuộc
sống, với tình hình thời sự và đặc điểm của lứa tuổi học sinh. Chính các ví dụ này
làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc, vui hơn, khơi gợi hứng thú học tập của
học sinh hơn.
2.3.2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Vấn đề tạo hứng thú, giúp cho học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả
trong tiết học đọc hiểu văn bản đi đôi với hiệu quả và có tính giáo dục cao. Học sinh
có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo dục mới là mục đích mà người dạy cần đạt.
Người viết xin trình bày một số phương pháp đã áp dụng khi hướng dẫn học sinh
tiếp xúc với văn bản như sau:
2.1 Phương pháp đưa lời giới thiệu vào bài
Đây là phần mà giáo viên ít đầu tư hoặc giả thiết có thì cũng chỉ qua loa mà
thôi. Trong phương pháp giảng dạy mới vấn đề này cũng không được đề cập tới.
Tôi thấy cần phải có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này. Không thể nào chấp nhận
được những cách vào bài như thế này: “ Tiết trước chúng ta đã học bài…của tác
giả…., hôm chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp tác giả …với bài…”, hoặc có những giáo

viên bỏ qua công đoạn này mà ghi ngay tên bài dạy lên bảng và tiến hành học bài
mới. Tôi thiết nghĩ lời vào bài phải giới thiệu đựợc đôi nét về tác giả, tác phẩm
cũng như văn phong của nhà văn. Nếu dạy thơ thì phải giới thiệu cho các em
những bài thơ, hoặc những câu thơ tiêu biểu của tác giả đó. Đồng thời phải đặt bài
dạy trong mối liên hệ với các bài trước đó, hoặc đặt trong hoàn cảnh lịch sử ra đời
của tác phẩm đó…Nói chung là làm sao gợi được sự tò mò, thích thú ban đầu của
các em đối với tác phẩm, truyền đạt được những thông tin cần thiết về tác giả, tác
phẩm. Đôi khi không nhất thiết cứ là lời giới thiệu của giáo viên, cũng có thể tạo
nên những tình huống có vấn đề, kích thích học sinh phải giải quyết vấn đề …
Giáo viên thay lời vào bài bằng cách cho học sinh xem bức tranh vẽ, ảnh. Hoặc ra
8


nhiều câu hỏi có vấn đề, gợi sự tò mò cho học sinh trước khi học bài mới, làm
cho hứng thú học tập của học sinh sẽ tăng lên.
Người dạy phải tạo được không khí hào hứng cho cả lớp. Không khí đó
không chỉ được khơi dậy ở cuối tiết học mà phải được “làm nóng” ngay từ những
lời giảng đầu tiên. Cụ thể là cách dẫn dắt vào bài phải gây ấn tượng, lời giới thiệu
nội dung mới lạ sẽ tăng thêm sức hút từ phía học sinh. Nhiều khi GV phải biết tùy
cơ ứng biến chứ không thể đi theo một “kịch bản” có sẵn trong giáo án. “Dạy học
cũng giống như biểu diễn trên sân khấu, kịch bản tốt chưa hẳn đã đem đến thành
công cho vở diễn mà điều quan trọng hơn là cách diễn ngẫu hứng của người nghệ
sĩ và bản lĩnh vững vàng của một đạo diễn có nghề”.
Dẫn vào bài mới có nhiều cách như:
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 93: Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng.
Giáo viên đưa ảnh Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đang ngồi bên nhau trò chuyện trong vườn hoa Phủ Chủ tịch lên máy chiếu sau đó
giới thiệu: Trong thời gian làm việc bên cạnh Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã viết nhiều bài và sách về Chủ Tịch Hồ Chí Minh bằng sự hiểu biết tường
tận và tình cảm yêu kính chân thành, thắm thiết của mình. Văn bản: “ Đức tính

giản của Bác Hồ” là đoạn trích từ bài diễn văn của ông trong Lễ kỉ niệm tám
mươi năm ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19-5-1970).

Ví dụ: Lớp 7: Tiết 97: Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh.
Đến với văn chương, có nhiều điều chúng ta cần hiểu biết, nhưng có ba
điều cần hiểu biết nhất là: Văn chương có nguồn gốc từ đâu? Văn chương là gì?
Và văn chương có công dụng như thế nào trong cuộc sống? Bài viết “Ý nghĩa
văn chương” của Hoài Thanh - một nhà phê bình văn học có uy tín lớn, sẽ cung

9


cấp cho chúng ta một cách hiểu, một cách quan niệm đúng đắn và cơ bản về điều
cần hiểu biết đó.
2.3.3. Phương pháp chia nhóm thảo luận:
Sự thành công của việc giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp
dạy học được giáo viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào
phương pháp sử dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Làm việc theo nhóm là
một trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay, nhằm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học
hướng về người học. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu
cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống
không có ai hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những
mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn
nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy chúng ta
cần phải thấy được những ưu điểm của hình thức dạy học theo nhóm để phát huy
được những điểm mạnh của nó.
Thứ nhất, việc giảng dạy theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân,
phù hợp với việc học tập hướng tới người học, khuyến khích sự độc lập tự chủ,
người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó.

Nếu trong phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau được
rất ít thì trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan
điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác nó nâng cao được tính tương
tác giữa các thành viên, nhằm tác động tích cực đến người học như: Tăng cường
động cơ học tập, nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao tiếp, chia sẻ tư
tưởng và cáh giải quyết vấn đề, khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau, phát triển được các mối quan hệ và quan tâm đến nhau.
Thứ hai, các thành viên trong nhóm biết được sự phụ thuộc lẫn nhau.
Làm việc theo nhóm là cách học cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải
quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giảng viên dẫn dắt
trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và sự phân công công việc trong
nhóm, vì vậy mỗi thành viên trong nhóm tự ý thức được phải cố gắng hết mình
không phải chỉ vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả nhóm.
Thứ ba, Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm nâng cao được tính
trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Do mỗi thành viên trong nhóm được
phân công thực hiện một vai trò nhất định, một công việc và trách nhiệm cụ thể.
Các thành viên trong nhóm không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc dựa vào công
việc của người khác. Trách nhiệm của mỗi thành viên là yếu tố quyết định việc
thành công hay thất bại của nhóm. Hay nói cách khác, việc tổ chức dạy học theo
nhóm không phải là hình thức nhằm thay thế học tập cá nhân mà là để giúp cá
nhân thực hiện nhiệm vụ học tập của mình thông qua trao đổi, thảo luận với các
thành viên cùng học. Cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì những ưu
10


điểm cơ bản trên sẽ phần nào nhấn mạnh được vai trò quan trọng của phương
pháp giảng dạy theo nhóm. Vai trò của người dạy là điều khiển hoạt động của
người học, còn người học là trung tâm của hoạt động đó. Kết quả của hoạt động
này là những yêu cầu cụ thể và nhiệm vụ của bài học.
Trên đây là những

điểm mạnh cần quan tâm giúp giáo viên tìm ra được những thông tin có ích để áp
dụng có hiệu quả phương pháp làm việc theo nhóm trong giảng dạy.
Phương pháp này mang lại cho học sinh cơ hội thuận lợi để làm quen với
nhau, khơi dậy sự gắn bó với tập thể. Sau mỗi bài dạy giáo viên có thể cho học
sinh luyện tập bằng phương pháp học nhóm. Mỗi nhóm có từ 3 - 4 em, giáo viên
cho thời gian chuẩn bị khoảng 5'. Sau đó mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày. Lúc
này học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao đồng thời phát huy
được năng lực của học sinh , kỹ năng sáng tạo, kỹ năng đánh giá, tổng hợp và
phân tích, năng lực giao tiếp. Hình thức này không những lý thú mà còn tạo nhiều
cơ hội cho các em học hỏi, cọ sát, tự thể hiện mình.Những học sinh nhút nhát
thường ít phát biểu trong lớp, sẽ có môi trường tốt để động viên tham gia xây
dựng bài. Ở hoạt động này các lỗi sai đều được giải đáp, học sinh tự sửa lỗi và chỉ
bảo lẫn nhau trong bầu không khí rất thoải mái. Học sinh có thể cùng nhau đạt
được những điều mà các em không thể làm được một mình.
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 93- Văn bản : Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm
Văn Đồng.
Ở phần cuối bài giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm với câu hỏi sau:
Hãy dẫn những bài thơ hay mẩu chuyện kể về Bác để chứng minh đức tính giản
dị của Bác? Trong 1 phút nhóm nào dẫn được nhiều bài thơ hay mẩu chuyện về
Bác theo yêu cầu thì dành phần thắng
Ví dụ : bài thơ Sáu mươi tuổi, Tức cảnh Pác Bó…, câu chuyện Đôi dép cao su
của Bác …
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 97: Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh.
Khi tìm hiểu nhiệm vụ của văn chương giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm
để tìm dẫn chứng các tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 6 và Ngữ
văn lớp 7:
- Nhiệm vụ 1: Văn chương hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng: hình ảnh
đất nước quê hương Việt Nam tươi đẹp qua bài “Cây tre Việt Nam”, “Sông nước
Cà Mau”, cuộc sống của người nông dân vất vả cần cù qua những câu chuyện cổ
tích.

- Nhiệm vụ 2: Văn chương còn sáng tạo ra sự sống: Đó là thế giới loài vật trong
“Dế Mèn phiêu kí” của Tô Hoài, thế giới loài chim trong bài Lao xao của Duy
Khán.
( Giáo viên cho 2 nhóm một nội dung để khích lệ nhóm nào tìm được nhiều hơn)
2.3.4. Phương pháp bình giảng:
11


Môn Ngữ văn trong nhà trường là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa
mang tính khoa học. Nó là chìa khoá để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa học,
mọi hoạt động xã hội. Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn và
trí tuệ của các em. Là tiếng nói, là hình thức nhuẫn nhị của tư tưởng, văn học là:
“một thứ khí giới thanh cao và đắc lực” tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm cảm xúc của con người .
Nội dung phong phú của tri thức văn học với tính chất là một môn nghệ
thuật ngôn từ, đòi hỏi phải có những phương pháp đặc thù, đa dạng để học sinh
lĩnh hội tri thức một cách vững chắc đáp ứng sự phát triển về thẩm mĩ, đạo đức,
trí tuệ. Để cảm thụ sâu sắc một tác phẩm văn chương, để giờ văn mang đậm chất
văn chương thì giáo viên không chỉ nêu câu hỏi, không chỉ đàm thoại, mở vấn
đề mà còn phải hướng dẫn học sinh biết cách nhận xét, đánh giá bình phẩm tác
phẩm văn học. Có nghĩa là giáo viên phải chú ý tới phương pháp giảng bình trong
giờ văn.
Giảng bình là một phương pháp giảng dạy quen thuộc trong hệ thống
phương pháp dạy học văn chương truyền thống . Truyền thống giảng bình trong
đời sống văn hoá dân tộc ta đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Thời xưa các
cụ vẫn thường bình theo lối xướng hoạ, các sĩ tử tập trung lại các Văn Miếu để
bình. Dạy văn chú ý tới giảng bình là để tiếp tục phát huy truyền thống bình văn
của ông cha ta từ xưa. Mặt khác, có giảng bình thì mới làm cho học sinh có tâm
hồn trong sáng hơn, nuôi dưỡng tâm hồn nhuần nhị để học sinh có hứng thú tao
nhã đó.

Mục đích của người bình là làm sao truyền cảm ý kiến của mình về tác
phẩm văn chương đến được người nghe, làm cho người nghe cùng suy nghĩ như
mình, phù hợp với “ ý định và nghệ thuật” của nhà văn . Có nhiều cách thức
giảng bình : bình bằng hồi ức, một kỉ niệm riêng có liên quan đến một yếu tố
được bình làm cho yếu tố sống dậy, có thể bình bằng cách so sánh với những câu
thơ khác hoặc nhà thơ khác, cũng có khi bình bằng lời đọc diễn cảm đoạn thơ,
câu thơ….Sau đây là những cách thức bình cụ thể:
*Bình bằng một hồi ức:
Giáo viên kể cho học sinh nghe những kỷ niệm, những xúc động của chính
bản thân mình khi được đọc tác phẩm đó. Ví dụ giảng bình bài : “Cảnh khuya”
giáo viên kể: “ Tôi còn nhớ mãi cái cảm xúc bồi hồi, rạo rực, sung sướng, lần đầu
tiên được nghe hai câu thơ:
“ Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Sung sướng vì được nghe những câu thơ hay và sung sướng hơn nữa vì
những câu thơ hay ấy lại là của Bác. Cô đã đọc rất nhiều vần thơ về thiên nhiên từ
ánh trăng thương nhớ của Nguyễn Du, cảnh ao thu trong veo của Nguyễn
Khuyến, đến con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư, cánh có phân vân của
12


Xuân Diệu, ánh trăng ngẩn ngơ buồn của Huy Cận. Nhưng đọc bài thơ “ Cảnh
khuya’ của Bác, thấy thơ Bác - thơ của một người chiến sĩ cách mạng, sao thấy
thiên nhiên thơ Bác thơ mộng quá, yêu kiều quá. Kỷ niệm đó đối với tôi thật
sâu sắc và mỗi lần đọc bài thơ này tôi thấy xúc động bồi hồi trước tâm hồn nghệ
sĩ rất đẹp của Người.
Cách bình trên tạo cho học sinh sự hứng thú muốn tìm hiểu cái hay cái đẹp
của tác phẩm. Nhưng lời tâm sự, chuyện riêng tư phải có ý nghĩa tiêu biểu, tích
cực.
*Bình theo cách đối chiếu so sánh:

Giáo viên khi bình văn thơ phải có nhiều vốn liếng về sự hiểu biết rộng các
tác phẩm thơ văn để tạo cho lời bình của mình có sức nặng hơn. Đọc nhiều biết
rộng giúp cho người bình đối chiếu được dễ dàng mà sâu sắc.
Ví dụ: Khi bình về trăng trong thơ Bác qua bài thơ “Ngắm trăng”,“Cảnh
khuya”, giáo viên so sánh trăng trong thơ Bác và trăng trong thơ Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến để thấy được vẻ đẹp độc đáo của vầng trăng trong thơ Người.
Cách so sánh như vậy làm giá trị bài thơ thêm nổi bật.
Phạm vi so sánh đối chiếu các bài văn, bài thơ không chỉ hạn chế trong mối
quan hệ những bài văn bài thơ, những câu văn câu thơ tương đồng có khi liên hệ
đối chiếu với thực tế cuộc sống hoặc tâm trạng cuộc đời của tác giả để làm lời
bình câu thơ thêm tăng sức thuyết phục.
Chẳng hạn, khi bình câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “Làm ơn há dễ trông
nguời trả ơn”, ta đối chiếu ý nghĩa câu thơ với cuộc đời thực, với tư tưởng nhân
nghĩa của Đồ Chiểu thì lời bình càng có sức nặng đặc biệt làm cho người đọc tin
tưởng ở tiếng nói của nhà phê bình.
Cần nói thêm trong bình giảng chỉ khi cần thiết cũng phải chê nhưng mỗi
tác phẩm văn chương khi được chọn vào sách giáo khoa để giảng dậy thường
đáng tin cậy, có giá trị nên khi chê không nên làm tổn hại đến tình cảm của học
sinh đối với tác giả.
Người dạy văn khi bình giảng phải có thái độ trân trọng và tế nhị. Phũ
phàng hay khinh bạc trong văn chương là chẳng có lợi cho giáo dục.
Sau đây là việc vận dụng phương pháp giảng bình vào tác phẩm ‘Lão Hạc”
của Nam Cao (Ngữ văn 8- tập 1).Với thời gian hai tiết, giáo viên giúp học sinh
hiểu được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm một cách nhanh nhất. Thông qua
việc đọc, việc phân tích, bình giảng giáo viên làm cho học sinh hiểu được phẩm
chất và cuộc đời Lão Hạc. Một lão nông dân nghèo khốn khổ nhưng tần tảo làm
ăn, giàu tình cảm, giàu lòng tự trọng. Từ đó học sinh hiểu được số phận cuộc đời
của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và có thái độ thông
cảm với họ.
Lão Hạc là một câu chuyện cảm động về đời sống của những người nông

dân trước Cách mạng tháng Tám. Họ là những người nhân hậu mà cuộc sống của
13


học lại bi thảm, nhưng dù thế nào, họ vẫn giữ tấm lòng nhân hậu.Vì vậy công việc
của giáo viên là phải giúp học sinh khám phá những vẻ đẹp ấy. Giáo viên phải lựa
chọn các chi tiết, những điểm sáng của tác phẩm để bình. Truyện “Lão Hạc” có
nhiều chi tiết hay cảm động, có nhiều chi tiết đáng bình. Ta có thể bình tấm lòng
đôn hậu của Lão Hạc khi phải bán chó, lão đã khóc, dằn vặt đau đớn khi trót lừa
một con chó. Ta cũng có thể bình nghệ thuật văn xuôi của Nam Cao hoặc cũng
có thể bình đoạn cuối trong tác phẩm “Lão Hạc”:
“Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt, lão đừng lo gì cho mảnh
vườn của lão...” . Song với những chi tiết này giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh tự bình ở nhà. Còn chi tiết để bình trên lớp là cái chết của lão Hạc để làm
nổi bật nhân cách cao đẹp của lão.
Công việc giảng bình của giáo viên như sau:
- Công việc chuẩn bị:
Đối với giáo viên : Soạn giáo án, chép lời bình của các nhà phê bình văn
học nhận xét về nhân vật lão Hạc để giới thiệu cho học sinh.
Đọc và nghiên cứu kĩ phần mình giảng bình, viết lời bình.
- Tiến trình bài giảng: Giáo viên cho học sinh đọc phần miêu tả cái chết của lão
Hạc ở phần cuối chuyện một cách diễn cảm, nếu học sinh không thể hiện được
giáo viên đọc mẫu, Giáo viên yêu cầu học sinh hình dung miêu tả bằng lời cái
chết của lão Hạc: lão Hạc đang vật vã ở trên giường đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc
xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, sùi bọt mép, khắp người chốc chốc lại
bị giật một cái nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng ngồi lên lão. lão vật vã đến
hai giờ đồng hồ mới chết “ cái chết thật là dữ dội”.
- Giáo viên nêu câu hỏi học sinh tập bình:
Em có nhận xét gì về cái chết của lão Hạc? Tại sao cũng là một cái chết mà lão
Hạc không chết một cách nhẹ nhàng hơn , đơn giản hơn?

Sau khi học sinh có ý kiến giáo viên có thể giảng bình một cách khái quát như
sau:
Chỉ có 5 câu văn với những từ ngữ được chọn lọc gợi tả, tác giả đã cực tả
được cái chết dữ dội của lão Hạc. Trên đời này có muôn vàn cái chết, lão Hạc đã
chọn cái chết cho mình cái chết đau đớn, bằng cách ăn bả chó mà lão xin của
Bình Tư.
Tại sao cùng cái chết mà lão Hạc không chết một cách khác cho thanh thản?
Tại sao lại không thắt cổ như Lang Rận, không tự đâm chết mình như Chí Phèo
hoặc nhịn đói dài ngày để rồi ốm rồi chết mà lại ăn bả chó để hai mắt của lão long
lên sòng sọc? Lão tru tréo vật vã hai tiếng đồng hồ mới chết? Phải chăng lão Hạc
chết như vậy để tự trừng phạt mình một cách ghê gớm, tự trừng phạt trước người
bạn yêu quí của mình là cậu Vàng ? Có như vậy lão với nhẹ lòng chăng? Quả
đúng như vậy, lão chết như là một lời thanh minh với cậu Vàng. Lão đã sống
xứng đáng ngay cả với con chó. Nhưng lão Hạc đâu chỉ chết vì con chó mà cái
14


chết của lão còn là vì đứa con yêu dấu của mình, lão chết để trọn bổn phận làm
cha của lão đối với con. Cái chết dữ dội ấy lại là cái chết của người cha thương
con rất mực, thương con đến nỗi thà chết chứ không chịu ăn tiêu vào tài sản của
con. Lão Hạc chết là để dành phần cho con sống. Quả là một người cha tuyệt vời
Cái chết của lão Hạc được đưa ra hết sức bất ngờ, vừa ai oán, vừa giống như một
sự tất yếu. Và cái chết của lão là cái mốc giải mà những băn khoăn về nhân cách
và tình cảm của lão .“ Chết trong còn hơn sống đục”. Cái chết dữ dội, của người
nông dân lương thiện ấy có ý nghĩa tố cáo sự tàn ác của chế độ phong kiến đã đẩy
người nông dân tới bước đường cùng, muốn giữ nhân cách họ chỉ có con đường
chết. Cái chết của lão như là lời kêu cứu, khẩn thiết đồng thời cũng là lời kết án
của tác giả đối với xã hội đương thời . Hoặc giáo viên cũng có thể bình bằng việc
mượn lời bình của người khác. Chẳng hạn:
“Phải đến khi truyện lão Hạc khép lại, ta mới thấy ớn lạnh .Thì ra toàn bộ câu

chuyện là một cuộc chuẩn bị để chết của một con người ! Lão Hạc cứ âm thầm
nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát! Vậy mà ông giáo
và người đọc đều không hay biết. Cái chết của là một cú giáng vào thói hồ đồ hờ
hững và cố chấp của chúng ta . Khi ta sáng mắt lên, hiểu ra tất cả những tính toán
lo liệu gàn dở lẩn thẩn của lão Hạc thực chất lại chứa đựng một phẩm người
nguyên sơ, thuần khiết, cao quý vô ngần thì đã muộn rồi. ’’
(Chu Văn Sơn).
Hay:
"Thế rồi lão Hạc chết cái chết thật đau đớn dữ dội .Chỉ có ông giáo và Binh Tư
hiểu lão tự tử bằng bả chó .Một con người khổ cả lúc sống, khổ cả lúc chết. Lão
Hạc chết nhưng nhân cách đẹp của lão vẫn sống mãi trong lòng ông giáo, trong
lòng người đọc. Lão Hạc đúng là một khối vàng ròng nguyên chất mà ta phải gạt
bỏ những lớp đất mùn thô mộc, quê kệch mới tìm thấy”
(Nguyễn Thanh Tú).
* Một số lưu ý với giáo viên khi vận dụng phương pháp giảng bình.
Giáo viên phải thường xuyên rèn luyện năng lực bình giảng. Trong một giờ
giảng văn, ít dù ngắn hay dài thì cũng phải có những lời giảng bình. Nhất thiết
không được bỏ qua phương pháp này. Bởi nếu lời bình hấp dẫn sẽ đem đến chất
nhân văn, tạo không khí văn chương tránh khô khan, kích thích hứng thú học
của học sinh và từ đó học sinh bắt chước tập bình văn thơ. Sau mỗi giờ dạy, giáo
viên nên giới thiệu cho học sinh những lời bình hay của các nhà phê bình văn học
để học sinh học tập cảm thụ.
Giáo viên phải dành một thời gian nhất định để gợi ý, hướng dẫn học sinh
bình bằng cách nêu bài tập để học sinh luyện tập về kiểu bình một chi tiết, bình
từ hình ảnh.
Kết hợp với phân môn Tập làm văn qua bài viết của học sinh để đánh giá khả
năng bộc lộ ý kiến riêng của học sinh về một vấn đề trong tác phẩm. Giáo viên
15



nên biểu dương, khen ngợi những học sinh có lời bình hay để gây hứng thú cho
học sinh trong việc bình tác phẩm.
2.3.5. Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú
chohọc tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương
pháp giáo dục.
Ví dụ khi dạy tiết 57 văn bản: Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch
Lam. Để học sinh cảm nhận được đoạn văn bàn về cách thưởng thức Cốm giáo
viên khái quát bằng sơ đồ sau:

16


Ví dụ khi dạy văn bản: Ông Đồ - Vũ Đình Liên để khái quát nội dung bài học
giúp học sinh ghi nhớ sâu, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy

*Một vài lưu ý khi sử dụng Bản đồ tư duy:
Bản đồ tư duy: không tái hiện được cảm xúc, không chuyển tải hết sự tinh
tuý trong cách dùng từ, đặt câu, trong nghệ thuật cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, sử
dụng BĐTD trong dạy học là cần thiết, nhưng phải tránh được sự suy diễn khô
khan.
17


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua điều tra thì thấy tỷ lệ 80% học sinh đều khẳng định là thích học môn
văn.
Các giờ học trên lớp các em đều tham gia sôi nổi thú vị và nghiêm túc. Chất
lượng thể hiện qua các đợt kiểm tra số học sinh đạt giỏi, khá của môn văn tăng,

giảm học sinh yếu.
Kết quả cụ thể của học sinh lớp 7I trong năm học 2015 - 2016 ở bộ môn
Ngữ văn so với đầu năm như sau :
GIỎI

Kết quả khảo sát


SL

TL

KHÁ
SL

TL

TB
SL

YẾU, KÉM
TL

SL

TL

số
Kết quả khảo sát 55


06

20

13

0

0

đầu năm
Kết quả khảo sát

16

31

8

0

0

55

(%)

(%)

(%)


(%)

cuối năm

3. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
* Kết luận :
18


Sau một năm học áp dung phương pháp dạy học trên cho học sinh tôi thấy kết
quả bước đầu khá khả quan.
Qua điều tra thì thấy tỷ lệ 80% học sinh đều khẳng định là thích học môn
văn.
Các giờ học trên lớp các em đều tham gia sôi nổi thú vị và nghiêm túc.
Chất lượng thể hiện qua các đợt kiểm tra số học sinh đạt giỏi, khá của môn văn
tăng, giảm học sinh yếu.
Như vậy trong quá trình giảng dạy áp dụng những kinh nghiệm trên tôi
thấy bài giảng có sức thuyết phục với học sinh và học sinh không còn tư tưởng
ngại học môn Văn nữa. Bằng kết quả thực tế tôi thấy việc áp dụng phương pháp
này trong việc bồi dưỡng học sinh là có hiệu quả.
* Đề xuất và Kiến nghị
Trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn đều không có phương pháp nào
là độc tôn mà tuỳ vào đối tượng học sinh người dạy xử lý linh hoạt các phương
pháp phù hợp. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn tổ chức, còn học sinh là chủ thể
của việc học nghĩa là hướng học sinh vào trung tâm. Người giáo viên dạy Văn
phải xem mục đích cuối cùng của việc dạy là xây dựng cho các em một tâm hồn
giàu cảm xúc, lòng nhân ái và lối sống lành mạnh. Muốn như vậy thì bản thân
chúng ta phải sống thực với tác phẩm đắm mình trong chính hoàn cảnh của tác
phẩm, phải biết khơi dậy cảm xúc từ chính hình ảnh ngôn từ.

Trên đây là vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giúp học sinh yêu
thích môn Văn. Tôi thiết nghĩ với kinh nghiệm nhỏ này sẽ giúp bản thân tôi nói
riêng, bạn bè đồng nghiệp nói chung khơi dậy được ở học sinh cảm xúc và niềm
say mê học văn. Đó cũng là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường. Vì lẽ đó bản thân tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của
đông đảo bạn bè đồng nghiệp để tôi ngày càng được nâng cao hơn về chuyên môn
nghiệp vụ của mình.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Thu Hà
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. “Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III môn
Ngữ văn” – quyển 1, 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
2. “Phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp và tích cực” – Đoàn
Thị Kim Nhung – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM
3. “ Dạy học tập làm văn ở THCS” – Nguyễn Trí – Nhà xuất bản Giáo dục
4. “Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ Văn THCS” – Nguyễn Trí,
Nguyễn Trọng Hoàn – Nhà xuất bản Giáo dục.
5. “Nghĩ về công việc dạy văn” – Đỗ Kim Hồi – Nhà xuất bản Giáo dục
6. “ Giúp em viết tốt các dạng bài tập làm văn lớp 7” – Huỳnh Thị Thu Ba –
Nhà xuất bản Giáo dục.

7. “Tài liệu giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh THCS” –
Nguyễn Thị Mỹ Lộc; Đinh Thị Kim Thoa; Đặng Hoàng Minh – Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. “ Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ Văn Trung học cơ sở- quyển 3 ” – Đỗ Ngọc
Thống chủ biên- Nguyễn Thị Hải Hậu – Nhà xuất bản Giáo dục.

III. DANH MỤC SKKN đã được xếp loại các cấp
Năm học Xếp loại,Số, ngày, tháng, năm của quyết định công nhận SKKN; cơ
20


cấp quan ban hành quyết định
Loại A (QĐ số 59QĐ-SGDĐT ngày 24 /02/2006 của Giám đốc Sở
2004-2005 cấp tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa.
Tên đề tài:“Một vài kinh nghiệm về cách tổ chức giờ dạy học
Tiếng Việt lớp 7 nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.”
Loại C (QĐ số 932/QĐ-SGD ngày 11/9/2008 của giám đốc Sở
2007-2008 cấp tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa )
Tên đề tài: “Rèn luyện kỹ năng làm bài văn nghị luận về tác
phẩm văn học.”
Loại B (QĐ số 539/QĐ-SGD ngày 18/10/2011 của giám đốc Sở
2010-2011 cấp tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa
Tên đề tài: “ Luyện kỹ năng viết bài văn thuyết minh cho học
sinh lớp 8.”
2013-2014 Loại B (QĐ số 753/QĐ-SGD, ngày 5/11/2014 của giám đốc Sở
cấp tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa)
Tên đề tài “ Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo) theo đặc trưng
thể loại nhằm giúp học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một cách
tích cực, hiệu quả.”
2014-2015 Loại B QĐ Số 3220/ QĐ – HĐKHSK ngày 24/ 8/2015 của Chủ tịch

cấp tỉnh Hội đồng Khoa học sáng kiến tỉnh Thanh Hóa).
Tên đề tài: “Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo) theo đặc trưng
thể loại nhằm giúp học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một cách
tích cực, hiệu quả.”
2014-2015 Loại B (QĐ Số 7476/ QĐ – HĐKHSK ngày 20/ 8/2015 của Chủ tịch
cấp Hội đồng Khoa học sáng kiến thành phố Thanh Hóa).
thành Tên đề tài: “Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo) theo đặc trưng
phố thể loại nhằm giúp học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một cách
tích cực, hiệu quả.”
2014-2015 Loại A (QĐ Số 226/ CN – SKSK ngày 05/ 6/2015 của Trưởng phòng
cấp GD&ĐT thành phố Thanh Hóa).
thành Tên đề tài: “Nâng cao khả năng viết bài văn miêu tả cho học
phố sinh lớp 6 thông qua việc rèn luyện kỹ năng thực hành.”
2015-2016 Loại B QĐ Số 972 QĐ – SGD ngày 28/11/2016 của giám đốc Sở
cấp tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa)
Tên đề tài: Vận dụng một số cách tổ chức giờ dạy-học tiếng
Việt nhằm phát huy tính tích cực của học sinh lớp 6 - Trường
THCS Minh Khai.

21



×