Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.18 KB, 19 trang )

SKKN: Kinh nghim ging dy tit luyn tp mụn Ng vn 7 theo phng phỏp dy v
hc
tớch cc

Phn I. Lớ lch
H v tờn: Nguyn Th Tr
Chc v: Giỏo viờn
n v cụng tỏc: Trng THCS Tam a.
Tờn ti SKKN: Kinh nghim ging dy tit luyn tp mụn Ng vn 7 theo
phng phỏp dy v hc tớch cc

Phn II. Ni dung

KINH NGHIM
GING DY TIT LUYN TP NG VN 7
THEO PHNG PHP DY V HC TCH CC


I.

M U

a. t vn
Mụn Ng Vn cú v trớ c bit trong vic thc hin mc tiờu chung ca
trng THCS, gúp phn hỡnh thnh nhng con ngi cú trỡnh hc vn ph
thụng c s, chun b cho h ra i hoc tip tc hc lờn bc hc cao hn. ú l
nhng con ngi cú ý thc tu dng, bit yờu thng gia ỡnh, bố bn, cú lũng
yờu nc, yờu ch ngha xó hi, bit hng ti tỡnh cm cao p nh: Lũng nhõn
ỏi, tinh thn tụn trng l phi, s cụng bng, lũng cm ghột cỏi xu, cỏi ỏc.
Đó là những con ngời biết rèn luyện để có tính độc lập, có
t duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện - mỹ trong nghệ thuật, trớc hết là trong văn học, có năng lực


thực hành và năng lực sử dụng tiếng việt nh công cụ để t duy và
Giỏo viờn thc hin: Nguyn Th Tr T KHXH
1


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

giao tiÕp. §ã còng lµ nh÷ng ngêi cã ham muèn ®em tµi trÝ cña
m×nh cèng hiÕn cho sù nghiÖp x©y dùng vµ b¶o vÖ tæ quèc.
Những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy và học đặc biệt là tiết
luyện tập trong nhà trường, đặt ra những yêu cầu mới cho giáo viên đứng lớp.
Nhằm đáp ứng một phần hiểu biết về phương pháp dạy tiết luyện tập gúp một
phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy Ngữ văn nói chung.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Phần và tiết luyện tập trong môn Ngữ văn 7
với từng phân môn – văn bản, tiếng việt, tập làm văn.
- Đối tượng của phạm vi nghiên cứu: lớp 7A & 7B. Số lượng học sinh– 62
hs.
- Thời gian nghiên cứu và dạy thực nghiệm: Từ tháng 9 năm 2013 dến tháng
3 năm 2014
b. Phương pháp tiến hành
* Cơ sở lý luận và thực tiễn: Giáo dục đã đổi mới, nội dung và phương pháp
dạy học theo xu hướng tích cực hóa. Hướng học sinh vào thực hành giao tiếp. Vì
thế theo tôi, tiết luyện tập cần được chú trọng hơn.
- Vấn đề được đặt ra cho tôi khi bắt đầu vào nghề là phải làm thế nào để dạy tốt
tiết luyện tập. Để các em hiểu lý thuyết bài học và vận dụng một cách có hiệu
quả vào thực tế. Đối với tôi, đây là một việc làm không dễ. Tôi nghĩ rằng, giáo
viên cần phải có một phương pháp riêng cho từng kiểu bài tập.
- Chính những vấn đề trên nên tôi suy nghĩ và mạnh dạn tìm hướng đi, phương

pháp dạy học riêng cho tiết luyện tập.
Thuận lợi:
- Bản thân tôi được nghe báo cáo kinh nghiệm của các giáo viên dạy giỏi.
- Trực tiếp dự giờ, nghe rút kinh nghiệm của các bậc thầy cô đi trước và các bạn
đồng nghiệp.
- Ngoài ra tôi còn tham khảo thêm một số sách về phương pháp dạy học tích
cực môn Ngữ văn ở Trường Trung học cơ sở.
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

2


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Vì là giáo viên chủ nhiệm nên tôi còn được rất nhiều sự vận động quan tâm
của phụ huynh học sinh. Các phụ huynh quan tâm nhắc nhở đến con em mình
học tập tốt, tích cực phát biểu trong giờ học.
- Các học sinh khối 7 năm học này là những học sinh tôi đã có dạy và tiếp xúc
các em ở lớp 6 nên sự gần gũi và gắn bó với các em không ít. Các em cũng tỏ ra
rất cố gắng trong học tập.
Khó khăn:
- Việc đổi mới về nội dung và phương pháp tích hợp rất hay nhưng là giáo viên
trẻ tôi còn lúng túng bỡ ngỡ trong khi thiết kế giáo án, đặc biệt là còn theo một
khuôn mẫu, bản thân chưa dám mạnh dạn áp dụng những cách riêng trong giảng
dạy.
- Trình độ của các học sinh không đồng đều (số học sinh yếu còn nhiều) ảnh
hưởng đến việc dạy và học.
- Các em còn nhút nhát trong việc thực hành theo nhóm, theo tổ, theo đôi bạn.

- Cái nhìn của xã hội về môn Ngữ văn chưa được chú trọng trong thời buổi kinh
tế thị trường. Do đó các em học môn Ngữ văn qua loa, đại khái.
- Trong chương trình, các tiết luyện tập còn hạn chế.
* Các biện pháp tiến hành:
- Nghiên cứu tìm ra giải pháp của việc dạy tiết luyện tập.
- Quan sát quá trình học tiết luyện tập từng phân môn ở học sinh
- Quá trình thẩm thấu của việc dạy học
- Áp dụng sự đổi mới phương pháp của giáo dục trong những năm gần
đây.
- Nắm bắt được xu hướng học tập của học sinh.
- Đọc, nghiên cứu các tài liệu giáo dục có liên quan.
- Dạy thực nghiệm
- Đánh giá kết quả và đưa ra giải pháp dạy học phù hợp.
- Đưa ra kết luận cho đề tài.
- Áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy.
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

3


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

II.

NỘI DUNG

a. Mục tiêu:
Phương pháp dạy phần và tiết luyện tập cũng là môn khoa học. Về nội

dung, nó là tiết tổng hợp kiến thức của từng phần trong các dạng bài của chương
trình. Vì thế đòi hỏi giáo viên cần phải có phương pháp dạy riêng để học sinh
hiểu và phù hợp theo phương pháp mới.
Là giáo viên, tôi thấy mình có cần có nhiệm vụ nghiên cứu chỉ ra biện pháp
thích hợp, tránh lối dạy dàn trải, đem lại hiệu quả thấp cho học sinh.
Theo tôi, “Luyện tập” là tiết dạy khó nên tôi tìm cho mình một phương pháp
riêng. Để dạy tiết luyện tập thành công, đòi hỏi giáo viên nắm vững kiến thức,
tổng hợp mọi tình huống và tổ chức cho học sinh học theo hướng học tập tích
cực. Qua tiết luyện luyện tập học sinh hình thành được phương pháp giải một
dạng bài tập và đọng lại trong các em những kiến thức đã học trước.
b. Các bước thực hiện:
1. Bước 1:Thống kê - Phân loại
- Trước tiên tôi làm công việc thống kê các phần và các tiết luyện tập và phân
loại chúng theo từng dạng bài tập cụ thể.
- Trong chương trình Ngữ văn 7, sau mỗi văn bản, mỗi phần lý thuyết Tiếng Việt
đều có phần luyện tập. Ngoài ra còn có 11 tiết luyện tập dành cho phần Tập làm
văn và Tiếng Việt.
* Ta có thể chia ra thành các dạng bài tập như sau:
a/ Luyện tập sau khi học xong một văn bản:
Gồm các dạng thường gặp:
+ Nhận xét
+ Nêu ý kiến riêng
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

4


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực


+ Dựng đoạn văn
+ Sưu tầm.
b/ Luyện tập sau phần học lý thuyết Tiếng Việt và các tiết
luyện tập Tiếng Việt:
Gồm các dạng thường gặp:
+ Bài tập nhận diện
+ Bài tập chuyển đổi
+ Bài tập sáng tạo
c/ Luyện tập sau phần học lý thuyết Tập làm văn và các tiết
luyện tập Tập làm văn:
Gồm các dạng thường gặp:
+ Phân tích mẫu
+ Thực hành xen kẽ với lý thuyết
+ Luyện nói
2. Bước 2: Chuẩn bị
- Tiết luyện tập, thực hành đóng vai trò quan trọng, quyết định việc nắm vững
kiến thức và hình thành kỹ năng nói, viết nâng cao trình độ sử dụng Tiếng Việt
đúng câu, đủ ý.Vì thế trong tiết học, tôi rất cẩn trọng với bước dặn dò, bước này
không thể sơ sài được. Tôi cho các em những câu hỏi phụ hoặc ra trước đề bài
đối với tiết “Luyện nói”, để khi về nhà các em có thời gian chuẩn bị. Đồng thời
tôi phân công cho các em chuẩn bị bài mới theo tổ, nhóm. Bên cạnh đó tôi còn
cho các em xếp bàn theo nhóm để các em dễ dàng thảo luận.
3. Bước 3: Lên lớp
*Đối với phần luyện tập sau khi học xong một văn bản:
- Sau khi các em học xong một văn bản tác phẩm văn học, mỗi cá nhân của
các em đều có cảm nhận riêng. Vì thế khi thực hành phần luyện tập đa số tôi cho
các em làm vào phiếu học tập.

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH


5


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Dựa vào phần thống kê từ đầu, nếu yêu cầu bài tập rơi vào dạng nhận xét,
nêu ý kiến riêng bằng cách dựng đoạn về tác phẩm văn học thì hướng dẫn các
cho các em làm theo cá nhân và ghi vào phiếu học tập. Nếu yêu cầu luyện tập
rơi vào dạng sưu tầm thì phân công theo nhóm. Có thể cho các em về nhà hoặc
có thể cho các em thực hiện ngay trên lớp.
- Ngoài ra, tùy vào trường hợp, tôi cho các em chơi những trò chơi góp sức,
các nhóm sẽ thi nhau trình những đáp án của mình. Đây cũng là dịp để các em
co thể phát huy tính tích cực, rèn luyện cho các em thêm dạn dĩ.
1. Sưu tầm theo chủ đề.
Với biện pháp này tôi đặt ra yêu cầu mỗi chủ đề các em có thể tìm thêm
từ 1 - 3 câu hoặc từ 4 - 10 câu. Để các em có tăng thêm tư liệu vận dụng vào đời
sống, vận dụng vào việc viết bài ở phần nghị luận chứng minh ....
a) Đối với truyện cười: ở lớp 7 truyện cười tập trung vào chế diễu thói
keo kiệt, bị động nghe người khác mà dẫn tới hỏng việc: Bám vào nội dung trên
các em đã sưu tầm thêm một số truyện như sau:
Đẽo cày giữa đường, ba chú gấu và miếng pho mát, con quỷ và hai chiếc
bướu (lớp) anh nhà giàu bị chơi khăm (Văn học 7), Hà rầm, hà lạc chôn vào hố
bạc đừng chôn hố vàng...
b) Tìm thêm những câu tục ngữ về thời tiết: Đó là những câu nói về mưa, gió, về nắng, về rét, về sự thuận lợi do thời tiết đem lại, hay những khó khăn
do thời tiết gây ra.
Ví dụ:


- Sáng bể chớp nguồn, tối rừng chớ lo.
- Cha chết không lo bằng đỏ lò đông bắc.
- Nồm vào, bắc xuống, may ra.
- Chuồn chuồn bay thấp mưa ngập bờ ao.
Chuồn chuồn bay cao mưa rào chóng tạnh

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

6


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Ăn lúa tháng năm, trông rằm tháng tám.
- Mưa tháng ba hoa đất, mưa tháng tư hư đất.
- Gió đông là chồng lúa chiêm, giò bấc là duyên lúa mùa.
- Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
b) Tìm những câu tục ngữ bắt đầu bằng chữ "chưa" có nội dung phê
phán những thói hư tật xấu: Học hành không đến nơi đến chốn, hoặc làm
không đến nơi đến chốn mà cứ ngỡ là mình đã tốt đã đẹp.
Ví dụ:

- Chưa học bò, chớ lo học chạy
- Chưa vỡ bọng mà đòi bay bổng.
- Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.
- Chưa đi câu đã đòi xách giỏ.
- Chồng chưa đi hỏi đã về làm dâu.


c) Tìm thêm những câu tục ngữ, hoặc ca dao trong đó có từ "mẹ" hoặc từ
"Các" cũng là chỉ người mẹ.
Ví dụ

- Sẩy cha còn chú, sảy mẹ bú gì (dì)
- Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
- Ngồi buồn ta nhớ mẹ ta xa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lè cá xương
- Ai làm cho mẹ tôi già
Lưng cong, vú dắt cho thầy tôi chê
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

7


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Chiều chiều xách giỏ kiém rau
Nhìn lên mồ mẹ ruột đau chín chiều
- Cơm cha áo mẹ chữ thầy
- Mẹ già trong túp lều tranh
Sớm thăm, tối viếng, mới là đạo con
- Mẹ cù kỳ, đẻ con cua gạch.

- Mẹ nào con nấy
- Mẹ tròn con vuông.
2) Kể lại câu chuyện theo một kết cục mới.
Với kiểu bài tập này bước đầu các em được làm quen với cách viết bài
tưởng tượng nhằm mở rộng tâm hồn bay bổng diệu kỳ cho các em.
Ví dụ: "Nếu các em gặp được chú bé Tý Hon em sẽ nói gì"
Với đề bài này có nhiều em đã tưởng tượng rất khác nhau.
Bài 1:

Của em Hoàng Văn Thành lớp 7A.

- Tình cơ em gặp Chú bé Tý Hon khi chú từ trên máy bay bước xuống,
nhưng không phải từ trong buồng lái ra, trong lòng máy bay mà ngay từ chân
cầu thang. Thế là em nói đùa phải chăng: "Chú đã trốn vé, mà trốn vé là không
đồng nghĩa với ăn cắp đấy".
Nhưng Chú mỉm cười thân thiện "Tớ ghét căy, ghét đắng trò trộm cắp"
Chẳng vì thế mà tớ đã làm cho Cha xứ khỏi mất tiền đó sao ?.
"Em ghé sát xuống nói nhỏ với Tý Hon.
ở lớp tớ cũng có nạn trộm cắp đấy".
Tý Hon trợn tròn mắt:
- Thế là thế nào ?
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

8


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực


- Thế này nhé ! giở sách quay phim trong giờ kiểm tra, nhìn bài của bạn
để chép, nhắc bài cho bạn khi lên bảng.
- Nếu lúc đó mà có mình ở đó, mình sẽ chuẩn bị hai túi quẫn hạt sỏi nhỏ,
mình leo lên cửa sổ và ném trúng tay những người đang giở sách sột soạt.
- Nhưng như thế vẫn chỉ được một lớp.
- ừ nhỉ ! vấn đề là mỗi bạn học sinh cần phải nhận thức được việc học là
do chính mình, cho gia đình mình thì mới cố gắng. Ví như đây là thân phận nhỏ
bé xấu xí mình chẳng dám đến lớp mà mình cũng cố gắng học tập ở cha mình, ở
mẹ mình. Chính vì thế mà mình đã thắng hai người lạ mặt, và con chó sói ác độc
ấy.
Em chia tay Tý Hon mà lòng trăn trở "Sao mình to khoẻ thế này, lại được
học hành tử tế, liệu mình có thể làm được điều có ích như Tý Hon không ?".
Bài 2: Bài của em Bựi Võn Anh.
Sau khi trở về nhà bố mẹ chú bé mừng vui xiết bao. Thế rồi bố chú bảo
"Con ơi ! món tiền mà bố bán con cho hai người khách lạ vẫn còn đây, hay là ta
đến Việt Nam chu du một chuyến và xem có giúp gì được không nhé". Chú đồng
ý và cha con lập tức lên đường. Tình cờ em gặp được Chú bé Tý Hon giữa
những đứa trẻ lang thang trên đường phố. Chẳng biết Chú bé Tý Hon đã nói gì,
chỉ thấy các em nhỏ đang cuống cuồng chuẩn bị nào xoong chậu, xô, vải xanh,
vải đỏ. à! hoá ra các em đang chuẩn bị trò trước những đám đông mà nhân vật
chính lại là chú bé ấy.
Mới mẻ và vụng về các em cũng chẳng biết diễn gì ngoài vài bài hát thân
quen trên đường phố. Chỉ có khác trên đôi vai của một bạn nhỏ nhất, Tý Hon
trong sắc phục nhiều mầu cũng nhún nhảy.
Khách đến xem ngày một đông, người ta xúm lại gần, kiểng chân cho cao
để mong được nhìn thấy Tý Hon.

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

9



SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

Âm thanh đang rộn rã, náo nhiệt bổng trầm xuống và một giọng thiết tha
vang lên.
"Ai ơi nên nổi nông này
Sinh ra một kiếp làm người kém ai ?
Bây giờ bố mẹ ở đâu ?
Sinh mà không dưỡng để con ngoài đường
Cơm thừa canh cặn, mẩu xương
Mảnh chăn, góc chiếu nằm sương dải dầu
Hởi ai có thấu cho lòng
Yêu thương che chở, giúp nghề làm ăn
Kẻo rồi cạm bẫy rập rình
Sa cơ thì dễ, lánh mình thì không !
Không khí xung quanh dường như chùng hẳn lại.
Khuôn mặt những người đứng xung quanh lúc đầu rạng rỡ, hồ hởi bao
nhiêu thì bây giờ đổi thay bấy nhiêu .
Có những người đầu cúi lảng ra xa, có những người mặt dần đỏ tía. Còn
những người đàn bà thân thiện họ mở hầu bao mặt những đồng tiền tươi rói đưa
tận tay các em...
Hoá ra Tý Hon đã giúp các em nhỏ diễn thuyết. Phải rồi "Trẻ em hôm nay,
thế giới ngày mai" Nhỏ như Tý Hon mà được bố mẹ nuôi dưỡng dạy bảo Tý
Hon đã làm được bao nhiêu việc tốt. Vậy như các em nhỏ ở đây nếu có được cha
mẹ nuôi dưỡng, dạy bảo thì chưa biết làm tốt đến đâu ?.
Đánh giá của giáo viên: Với hai bài làm của học sinh về một đề "Em sẽ
nói gì khi gặp chú bé Tý Hon" thì đều có một đặc điểm chung:

a) Tốt:
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

10


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Các em đã hiểu được phẩm chất tốt đẹp và những việc làm có ý nghĩa
của Chú bé Tý Hon.
- Từ nhân vật Chú bé Tý Hon, các em suy luận rộng ra những sự việc
đang diễn ra ở xung quanh trong đời sống hàng ngày mà cần phải có sự giúp đỡ
bằng trí thông minh của Chú bé Tý Hon.
Các em ước mơ sau này lớn lên mình cũng làm được việc tốt, việc làm có
nghĩa.
- Thể hiện sự tưởng tượng của tâm hồn trẻ thơ.
b) Chưa tốt:
Bài thứ nhất: Đã bám sát yêu cầu của đề, vì học sinh đã trực tiếp trò
chuyện với Chú bé Tý Hon. Còn bài thứ học sinh mới đứng ở ngoài cuộc để
quan sát nhìn nhận.
3) Kiểm bài tập so sánh.
Đề bài: Học xong hai truyện "Ông lão đánh cá và con cá vàng" của nhà
văn PuSkin và vở kịch "GiuốcĐanh muốn trở thành nhà bác học" của MôĐie.
Em thấy nhân vật mụ vợ và nhân vật ông Giuốc Đanh có điểm gì giống nhau ?.
Với đề bài này giáo viên hướng dẫn học sinh làm như sau:
+ Thể hiện được nhận thức của em về nhân vật ông GiuốcĐanh và mụ vợ
ông lão đánh cá có chung một điểm đó là tham lam, ham muốn.
+ Điều xuất phát từ ban đầu gần như là số không.

+ Nhưng cả hai điều không muốn bỏ ra một tý sức lực.
+ Cả hai đều thất bại.
Đây là một đề bài có yêu cầu học sinh phải nắm được nội dung cơ bản của
cả hai tác phẩm, phải so sánh để tìm ra cái chung và từ đó thể hiện tình cảm của
cỏ nhân mình.
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

11


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

Xác định yêu cầu như trên, học sinh đã về nhà tự làm. Có một học sinh đã
viết bài như sau:
Học xong hai tác phẩm "Ông lão đánh cá và con cá vàng" của nhà văn
PuSkin và " "ông Giuốc -Đanh muốn trở thành nhà bác học" của Mô Lie. Em
thấy nhân vật mụ vợ và ông ông Giuốc-Đanh đều có đặc điểm giống nhau là rất
ham muốn, ước vọng nhưng lại không chịu làm việc gì để thực hiện ham muốn
ấy.
Ví dụ như mụ vợ ông lão đánh cá, mụ có ham muốn về vật chất: Máng
lợn, nhà... và ham muốn về địa vị trong xã Hội: Nhất phẩm phu nhân, nữ hoàng,
long vương. Còn ông Giuốc-Đanh ham muốn trở thành nhà bác học, mà nhà bác
học là người có khả năng phát minh sáng chế làm lợi cho triệu, triệu người, như
vậy với ham muốn trên, họ muốn mình là người có ích trong xã hội, có địa vị
trong xã hội, chỉ huy mọi người theo ý mình.
Nhưng hãy xem mình thực hiện những việc làm để đạt được tham vọng
ước muốn đó bằng những cách nào.
Với ông Giuốc-Đanh, thầy dạy môn học nào ông cũng cho rằng đó là lắm

canh thập cẩm, lắm tiếng vàng óc, hoặc không có thứ luận lý nào có thể kìm
hóm được tôi, tôi phải được tha hồ nổi nóng, tha hồ tức giận.
Học chính là lao động mà là đã lao động thì phải bỏ sức lực, trí tuệ, phải
biết hy sinh, phải biết kìm chế những cá tính thường tình như: Hay ăn, hay ngủ,
hay chơi để tất cả dành cho học, học mọi nơi, mọi lúc, nhưng với ông
GiuốcĐanh, ông rất muốn học, và chỉ muốn học trong ý tưởng, học trong nơi
đầu môi, chót lưỡi thì sao có thế gọi là học. Hơn nữa ông là người dốt nát nhưng
lại giấu dốt, nhưng càng giấu dốt lại thấy ông càng dốt.
Còn với mụ vợ ông lão đánh cá, chỉ cần nghe ông lão nói con cá vàng
muốn trả ơn là mụ vợ đòi ngay cái máng lợn, đòi ngay ngôi nhà. Những đòi hỏi

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

12


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

này là chính đánh vì mụ cần có một nghề để làm ăn. Đòi một ngôi nhà để che
mưa, che nắng vì tuổi mụ đã cao, sức mụ đã yếu.
Nhưng chỉ vì thấy đòi quá dễ mà cứ đòi là được, cho nên sau khi có vật
chất, mụ muốn có địa vị trong xã hội. Như: Làm nhất phẩm phu nhân, làm nữ
hoàng. Và cũng như ông Giuốc-Đanh từ nhu cầu cần thiết mụ đã chuyển thành
tham lam, thành tham vọng. Mà để có được những thành quả đó trong tay mụ
không hề phải mất một tý sức lực nào. Mụ chưa hề làm ơn cho ai, mụ chưa hề
cảm ơn con cá vàng một câu sau mỗi lần yêu cầu của mụ dặt ra, con cá vàng liền
đáp ứng ngay, rõ ràng là một con người "Thấy bở đào mãi" và cuối cùng mụ đã
chuốc lấy thất bại, mụ đã chuốc lấyđau khổ, mụ đã trở lại cuộc đời khốn khổ,

máng lợn sứt mẻ và túp lều rách nát.
Như vậy cả hai nhân vật xa cách nhau về địa lý. Khác nhau về giới tính
nhưng đều giống nhau đó là: Sự lười nhác, không muốn lao động mà muốn
hưởng thu, không muốn lao động mà muốn quang vinh. Đó chính là những con
người tham vọng, đó là những tham vọng ngu xuẩn. Với tham vọng ấy chỉ dẫn
đến một kết cục "không vẫn hoàn không" Mụ vợ về với túp lều rách, ông
GiuốcĐanh dốt nát vẫn hoàn dốt.
Nhận xét của giáo viên:
a) Tốt: Hầu hết các em đã làm bài. Riêng bài của em Đặng Thị Hải Anh và
Bùi Vân Anh, Phạm Thị Hương Nhài, Nguyễn Thị Tú, Hoàng Tiến thành, Nguyễn
Văn Toản đã đạt được yêu cầu mà cô giáo đề ra đó là: Chỉ ra được sự giống nhau
giữa hai nhân vật ở hai tác phẩm mụ vợ của ông lão đánh cá và ông Giuốc-Đanh
đều có ham muốn và ham muốn đã chuyển thành tham vọng ngu xuẩn. Vì họ
không lao động mà chỉ muốn suông.
- Cách trình bầy có lý lẽ. Có dẫn chứng và thể hiện tình cảm căm ghét
khinh bỉ.
- Hiểu tác phẩm, nắm được nội dung của tác phẩm.
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

13


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

- Vân dụng thành ngữ, tục ngữ vào viết văn.
- Bài viết có bố cục ba phần rõ ràng.
b) Nhược: Với đề bài mang tính chất so sánh, tổng hợp, nhiều em cũng
bỡ ngỡ chưa biết cách viết, chỉ mới làm nổi rõ được nhân vật mụ vợ còn nhân

vật Giuốc-Đanh chỉ nói qua.
- Hoặc khi viết thì viết được quá ngắn.
* Đối với phần luyện tập và tiết luyện tập Tiếng Việt:
- Học sinh thực hiện tốt được phần, tiết luyện tập này chứng tỏ các em đã nắm
được cơ bản lý thuyết mà các em đã học trước đó.
 Bài tập nhận diện: Đây là dạng bài tập thấp nhất giúp học sinh nhớ lại
kiến thức đã học. Để học sinh thực hành tốt, tôi cho các em nhận diện và phân
tích theo cá nhân.
* Ví dụ:
Yêu cầu: Tìm từ trái nghĩa trong các câu ca dao, tục ngữ sau đây:
- Chị em như chuối nhiều tàu,
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nhiều lời
a. Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
b. Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn quần dài đi thuê.
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
- Bài tập này các em thực hiện cá nhân, một học sinh được gọi lên sẽ trình bày
đáp án của mình.
Đối với phần ôn tập cho bài tập dạng trên, tôi vẽ sẵn sơ đồ khung vào bảng
phụ và cho cá nhân các em lần lượt lên điền vào.
Ví dụ:
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

14


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học

tích cực

Yêu cầu: Gồm có mấy loại từ láy ? Kể ra và cho ví dụ.
Học sinh sẽ điền vào sơ đồ khung như sau:

Từ láy

(Hình thức này thường dùng để ôn tập chuẩn bị vào
kiểm tra một tiết hoặc cuối học kỳ)
 Bài tập chuyển đổi:
Ở dạng bài tập này thường là chuyển đổi ngữ liệu về một phương diện nào đó
về thành phần cấu tạo, trật tự sắp xếp.
Ví dụ: Yêu cầu: Thay các quen hệ từ dùng sai sau đây thành những quan hệ từ
thích hợp.
- Ngày nay, chúng ta cũng có quan niệm với cha ông ta ngày xưa, lấy đạo đức,
tài năng làm trọng.
- Tuy nước sơn có đẹp đến mấy mà chất gỗ không tốt thì đồ vật cũng không bên
được.
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

15


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

Để thực hiện dạng bài tập này, tôi cho học sinh làm bài tập theo nhóm. Sau
đó đại diện nhóm sẽ trình bày. (Các nhóm được phân sẵn từ đầu năm học, các
em sẽ luân phiên nhau làm nhóm trưởng và thư ký.

Để kích thích hưng phấn học tập của các em, tôi lồng vào đấy phần thi đua
giữa các nhóm. Sau khi trình bày kết quả, giáo viên sẽ chấm điểm nhưng kh6ong
lấy điểm chính thức vào sổ mà nhóm nào làm bài tốt sẽ đạt điểm cộng. Như vậy
5 lần đạt điểm cộng thì các em sẽ đạt một cột điểm 10. Có như thế, các em sẽ
phấn đấu nhiều hơn trong tiết, phần luyện tập.
 Bài tập dạng sáng tạo:
- Bài tập này thường là yêu cầu học sinh mình tạo ra sản phẩm ngôn ngữ.
Ví dụ: Yêu cầu: Viết một đoạn văn trong đó có sử dụng quan hệ từ. Gạch dưới
các quan hệ từ trong đoạn văn đó.
- Tôi cho học sinh thực hiện cá nhân để rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu,
phương thức diễn đạt. Các em sẽ làm vào phiếu học tập và gọi 2->3 học sinh lên
bảng trình bày. Sau đó giáo sửa và thu các phiếu học tập về nhà chấm.
* Đối với luyện tập sau phần học lý thuyết Tập làm văn và các tiết luyện tập
Tập làm văn:
- Ở phần Tập làm văn theo tôi đây là phần luyện tập hay nhất đó là luyện nói.
- Giáo viên cho các em chủ đề trước. Các em sẽ chuẩn bị theo nhóm trước, 1->3
ngày.
- Khi luyện nói, tôi cho các em lần lượt trình bày các ý mà các em đã chuẩn bị.
- Nhóm này trình bày thì nhóm khác nhận xét và ngược lại.
- Nếu gặp dạng bài phân tích mẫu:
Ví dụ: Yêu cầu: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
Mẹ ơi ! Con khổ quá mẹ ơi ! Sao mẹ đi lâu thế ? Mãi không về ! Ngưới ta
đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi của con mà con người ta giằng lấy. Người
ta lại còn chửi con, chừi cả mẹ nữa ! Mẹ xa con, mẹ có biết không ?
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

16



SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

Câu hỏi: Đoạn văn biểu hiện tình cảm gì ? Tình cảm ở đây được biểu hiện
trực tiếp hay gián tiếp? Em dựa vào dấu hiệu nào để đưa ra nhận xét của
mình ?
- Vì đây là chính là vấn đề trực quan ngôn ngữ dựa vào mẫu, giáo viên diễn dắt
học sinh nắm phương phân tích phong cách vận dụng vào việc xây dựng bài
viết.
- Nếu gặp dạng bài thực hành xen kẽ với lý thyết: dạng bài tập này mang tính
tổng hợp, vừa luyện vừa ôn. Tôi cho các em thực hành ngay sau khi học lý
thuyết.
c. Kết quả đạt được:
- Bắt đầu học kỳ 1 năm học 2013 – 2014 tôi áp dụng nhiều lần cách luyện tập
mà tôi đã trình bày ở trên đến giữa học kỳ 2 đạt được kết quả như sau: (Môn Ngữ
Văn)

Tổng số
học sinh
khối 7
62

Đầu năm
Tỉ lệ
Cuối năm 62
Tỉ lệ

Giỏi


Khá

02
3%
05
8%

26
42 %
37
60%

Học lực
Trung
bình
25
40%
16
26%

Yếu
09
15%
04
6%

III. PHẦN KẾT
Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu thử nghiệm. Tôi nghĩ rằng trong những năm gần
đây cần phải có hướng giảng dạy tốt hơn nữa. Vì trong giai đoạn hiện nay, việc
tìm ra các biện pháp dạy học theo hướng tích hợp là cần thiết trong công tác

giảng dạy ở Trường THCS.
Qua những gì mà tôi trình trên đây đó chỉ là một chút ít mà tôi học được từ
rất nhiều Thầy, cô đi trước và các đồng nghiệp của tôi. Có một điều mà tôi thấy
cần thiết trong giảng dạy Ngữ văn 7 nói riêng và Ngữ văn ở Trường THCs nói
Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

17


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

chung là: “Dạy văn ngoài việc giảng sâu, bình thấu” mà còn phải phân loại các
dạng bài và để cho các em thực hành, chính các em chủ động, để các em nói. Có
như thế bài học sẽ dễ khắc sâu vào tâm trí các em hơn.
Trên đây là một tổng kết kinh nghiệm nhỏ mà tôi thực hiện sau 1 năm giảng
dạy. Tôi hy vọng kinh nghiệm này góp một phần nhỏ vào việc dạy và học hiện
nay. Từ đó bắt kịp được tình hình đổi mới phương pháp và nội dung theo kiểu
hiện đại hóa giáo dục.
- Đề xuất, kiến nghị: Rất mong đề tài của tôi được sự quan tâm của ngành để đề
tài được sử dụng và có hiệu quả trong thực tiễn giảng dạy.
Tôi rất mong được quí Thầy, cô đi trước cùng các đồng nghiệp chia sẻ.
- Lời cam đoan: Đây là SKKN của bản thân tôi viết và có sự tham khảo các tài
liệu phục vụ cho việc hoàn thiện đề tài.
Chân thành cảm ơn !
Tam Đa , ngày 16 tháng 03 năm 2014
Người viết

Nguyễn Thị Trà


Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH

18


SKKN: Kinh nghiệm giảng dạy tiết luyện tập môn Ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và
học
tích cực

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Ngữ văn 7 – NXB Giáo dục.
- Sách giáo viên Ngữ văn 7- NXB Giáo dục.
- Phương pháp dạy tiết luyện tập bộ môn ngữ văn trường trung học cơ sởNXB Sư phạm I.
- Tư liệu ngữ văn 7 – NXB Giáo dục.
- Bài làm của học sinh

Mục lục
- Phần I. Lí lịch ……………………………………………Trang 1.
- Phần II. Nội dung sáng kiến
I.
Mở đầu…………………………………………...Trang 1-3
II.
Nội dung…………………………………………Trang 4- 17
a. Mục tiêu…………………………………………...Trang 4
b. Các bước thực hiện………………………………..Trang 4- 17.
III. Kết luận……………………………………………..Trang 17,18.

Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Trà – Tổ KHXH


19



×