LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đang hòa nhập và phát triển cùng với thế giới một nền kinh tế
tri thức và một xã hội thông tin đầy khó khăn và thách thức. Chính vì thế việc đào
tạo nguồn nhân lực về Công nghệ thông tin (CNTT) là rất quan trọng và cấp thiết.
Trong quyết định số 81/2001/QĐ - TTG, thủ tướng chính phủ đã giao nhiệm vụ trọng
tâm cho Ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhận lực CNTT và đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo.
* Những chủ trương của Đảng về ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo
Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị nêu rõ
+ Ứng dụng CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với
các nước đi trước.
+ Phát triển nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định với việc
ứng dụng và phát triển CNTT trong đó có nội dung:“Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học”.
Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020 cũng đặt ra mục tiêu: Đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong giảng dạy và trong quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học. Đến năm 2020, toàn
bộ học sinh các cơ sở giáo dục phổ thông và các cơ sở giáo dục khác được học ứng
dụng CNTT. Trong những năm qua, Ngành GD&ĐT cũng đã có rất nhiều những văn
bản hướng dẫn thực hiện ứng dụng CNTT:
Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành
giáo dục giai đoạn 2008-2012;
1
Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo
dục;
+ Công văn số 4960/BGDĐT-CNTT ngày 27/07/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011 – 2012. Trong đó có đề cập
đến vấn đề: Mỗi cán bộ và giáo viên có ít nhất một địa chỉ e-mail của ngành, có tên
dưới dạng @tên-cơ-sở-giáo-dục.edu.vn, trong đó tên-cơ-sở-giáo-dục có thể là moet,
tên sở, tên phòng.
+ Công văn số 4987/BGDĐT-CNTT ngày 2/8/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2012 - 2013.
2
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU …………………………………………………………...… Trang 1
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………. 3
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài ……………………………………...………………………..… 4
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ……………………………………..………………... 6
III. Mục tiêu nghiên cứu ………………………………………………..……………7
IV. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………7
V. Phương pháp, thời gian nghiên cứu ………………………………………….…...8
VI. Điểm mới của đề tài ………………………………………………………..…… 7
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 3 tuổi…………………………………………………………………..………....9
II. Cơ sở thực tiễn của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 3 tuổi ............................................................................................................ 18
1. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi
tại trường MN Bình Thuận …………………………………………………………18
2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi
tại lớp 3 tuổi C …….……………………………………………………..……….. 19
* Thuận lợi …………………………….……………………………………..…… 19
* Khó khăn……………………………….……………………………..………..… 19
CHƯƠNG II. KẾT QUẢ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
I. Một số giải pháp của đề tài ……………………………………………………… 21
II. Kết quả của việc nghiên cứu đề tài ……………………………………...………24
III. Bài học kinh nghiệm …………………………………………….………..…… 25
IV. Khả năng ứng dụng của đề tài …………………………….…….…...…… …..26
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận …………………………………………………………………….........27
II. Kiến nghị ……………………………………………………………………….. 27
1. Về phía nhà trường ………………………………………….….……………... 27
2. Đối với phòng giáo dục…………………………………………………………. 27
3
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giai đoạn lên 3 tuổi của một đứa trẻ là giai đoạn đánh dấu một bước ngoặt lớn về sự
phát triển ngôn ngữ - từ vựng của trẻ. “Thỏ thẻ như trẻ lên ba" "Trẻ lên ba, cả nhà
học nói” là những câu tục ngữ muốn nhấn mạnh đến đặc trưng ngôn ngữ ở năm thứ 3
của một đứa trẻ, bởi vì đây là thời điểm khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triển vượt
bậc so với giai đoạn trước. Lựa chọn phương pháp nào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
ở giai đoạn này cũng vì vậy mà trở nên vô cùng quan trọng với các bậc làm cha, làm
mẹ và những người chăm sóc – giáo dục trẻ Mầm non chúng ta. Ngôn ngữ phát triển
tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt, hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 tuổi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học
khác. Đặc biệt giúp trẻ khả năng phát triển tư duy và ngôn ngữ, cảm thụ cái hay, cái
đẹp xung quanh trẻ. Phát triển ngôn ngữ là một trong các nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ Mầm non.
Từ 3 tuổi trở đi, đứa trẻ tiếp tục mở rộng vốn từ, hoàn thiện ngữ pháp và nâng cao
khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình hơn nữa. Trẻ đã có thể nhớ được giai điệu và
lời ca của những bài hát ngắn, thích xem quảng cáo và ngân nga theo những câu
slogan của nhà cung cấp. Nếu chúng ta trêu đùa, trẻ đã biết phản ứng với tên gọi của
mình, chẳng hạn chúng ta gọi “Mimi mít ướt”, trẻ sẽ phản ứng: “Con không phải là
Mimi mít ướt”. Nếu đưa trẻ ra ngoài, ở tuổi lên ba, trẻ đã rất thích giao tiếp, và có thể
nhận diện được màu sắc và reo hò lên “Kia là màu xanh, kia là màu vàng…” một
cách thích thú. Thậm chí, một số từ của trẻ sử dụng lúc này có thể không có nghĩa
hoặc khiến người đối diện không hiểu.
Tuy nhiên vốn từ của trẻ cũng rất khác nhau, chênh rất xa có trẻ từ vài trăm từ nhưng
cũng có trẻ tới vài ngàn từ với từng trường hợp cụ thể. Trong quá trình phát triển,
một số trẻ có thể gặp những khó khăn trong phát triển ngôn ngữ như có thể hiểu ý
4
nghĩa lời nói của người khác nhưng lại không nói ra từ hoặc câu để thể hiện nhu cầu
và hiểu biết của mình. Nếu trẻ 3 tuổi rồi mà vốn từ của cháu còn quá nghèo nàn,
chưa biết cách phối hợp các từ để thể hiện nhu cầu của mình, đặc biệt nếu không hòa
nhập giao tiếp với bạn bè hoặc nhiều người thì rất có thể trẻ đã gặp một bất thường
trong giao tiếp, lúc này cha mẹ phải gặp chuyên gia tâm lý để xác định trẻ có bị chậm
phát triển trí tuệ, có mắc chứng tự kỷ hoặc có vấn đề với thính lực hay hoảng sợ lo
âu…Vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các bậc làm cha mẹ và giáo viên là: giúp trẻ 3 tuổi
phát triển ngôn ngữ.
Ứng dụng CNTT vào trong các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ được
tiếp cận với môi trường đa phương tiện kết hợp hình ảnh video, camera, âm thanh,
chữ cái…được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối
đa qua một quá trình học đa giác quan. Kỹ thuật đồ họa cao có thể mô phỏng nhiều
quá trình, hiện tượng thiên nhiên, các hình ảnh sống động mà theo phương pháp
truyền thống thì khó mà thực hiện được giúp tiết kiệm được thời gian cho giáo viên,
vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động,
hiệu quả của giờ dạy. Nếu trước đây giáo viên Mầm non phải rất vất vả để có thể tìm
kiếm những hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng
dụng CNTT giáo viên có thể sử dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo
dục phong phú, chủ động quay phim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài giảng điện tử. Chỉ
cần vài cái “nhấp chuột” là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ
màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện ngay ra
với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu hút được sự chú ý và
kích thích hứng thú phát âm của trẻ. Trẻ được chủ động hoạt động nhiều hơn để
khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý giáo dục của
Vưgotxki “ Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” một cách dễ dàng.
5
Có thể thấy ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục phát triển ngôn ngữ
Mầm non đã tạo ra một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục
Mầm non, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa cô giáo và
trẻ. Năm học 2015 - 2016, Phòng giáo dục và đào tạo Đại Từ tiếp tục triển khai
nhiệm vụ năm học đến các cấp học là: tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong các hoạt động giáo dục Dạy và Học trong các Nhà trường.
Sự cần thiết của ứng dụng CNTT trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non:
Ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ - đặc biệt
trong việc phát triển ngôn ngữ là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập của
trẻ, tạo một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần như
kiểu truyền thống. Trẻ được khuyến khích sử dụng ngôn ngữ để thể hiện khả năng và
ý kiến của bản thân, được tạo cơ hội để phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình.
Ứng dụng CNTT trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ không với riêng lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ với bộ môn chính là Làm quen với văn học, mà với tất cả các lĩnh vực
phát triển nhận thức, thẩm mỹ, thể chất bộ môn khác: Toán; Tạo hình; Âm nhạc;
Khám phá khoa học; Thể dục
Năm học 2015-2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp Mẫu giáo bé 3 tuổi A, với
tổng số học sinh là 38 cháu. Đa số cháu đã biết nói, nhưng về kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ nói, phát âm chưa rõ ràng, một số còn nói ngọng, nói lắp, nói chưa trọn câu…
Để đạt hiệu quả tốt ở mục tiêu phát triển ngôn ngữ, đặc biệt tạo ra hứng thú phát âm
cho các cháu, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu:
“Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ lớp 3 tuổi A trường Mầm non Bình Thuận.”
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
6
Ngôn ngữ là một trong những phương tiện truyền đạt của cuộc sống, ta có thể nói
như vậy, bởi không có ngôn ngữ, chúng ta khó có thể mang đến hay tiếp nhận từ mọi
người xung quanh các thông tin cần thiết.
Lứa tuổi Mầm non đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo bé là tuổi đang "Học ăn học nói" vì
vậy ngôn ngữ giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách trẻ. Dẫn dắt trẻ biết sử dụng ngôn ngữ để kết nối với thế giới xung quanh nhờ
sự hỗ trợ các phương tiện công nghệ hiện đại là nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo
viên Mầm non vì phải dành nhiều thời gian và tâm huyết ứng dụng công nghệ thông
tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ mới giúp trẻ hòa nhập và nắm bắt được thế giới
đa dạng, phong phú xung quanh mình.
III. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho cô và trẻ lớp 3 tuổi A, thực hiện tốt nhiệm
vụ chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển ngôn ngữ giúp trẻ hào hứng, chủ động
và sáng tạo trong giờ học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Nhằm hình thành cho trẻ thói quen và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ một cách chính
xác, mạch lạc, làm tiền đề cho việc học hỏi các ngoại ngữ sau này của trẻ cũng như
tạo điều kiện cho sự hoạt động tương tác giữa trẻ và cô, giữa trẻ với thế giới xung
quanh.Góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục trong công tác giáo dục trẻ,
hình thành ở trẻ nhận thức về vẻ đẹp của ngôn ngữ Việt Nam, biết yêu cái đẹp, mong
muốn tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.
IV. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm, biện pháp trong thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào
phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở lớp 3 tuổi A trường Mầm non Bình Thuận
2. Phạm vi nghiên cứu
7
Công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào việc phát triển ngôn ngữ trong các hoạt
động giáo dục trẻ ở lớp 3 tuổi A trường Mầm non Bình Thuận – Đại Từ tác động đến
quá trình giáo dục trẻ của nhà trường
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài nghiên cứu này, tôi đã đặt ra một số nhiệm vụ cụ thể:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động phát triển ngôn ngữ
2. Nghiên cứu nội dung chương trình hình thành kỹ năng cho trẻ Mẫu giáo bé ở mục
tiêu phát triển ngôn ngữ.
3. Tìm hiểu thực tế việc thực hiện các kỹ năng: nghe, ghi nhớ, đọc – kể,.. của trẻ
Mẫu giáo bé tại lớp 3 tuổi A – Trường MN Bình Thuận.
4. Đề ra các biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin để giúp trẻ Mẫu giáo bé phát
triển ngôn ngữ tốt nhất.
V. Các phương pháp và thời gian nghiên cứu
* Các phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành có liên quan đến công
tác thực hiện phát triển ngôn ngữ vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ của nhà
trường, xây dựng cơ sở nghiên cứu lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
Tìm hiểu các thông tin mới nhất về công tác thực hiện phát triển ngôn ngữ qua các
phương tiện thông tin và truyền thông và mọi người xung quanh.
2. Phương pháp thực tiễn
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp điều tra - Kiểm tra.
- Phương pháp tổng kết, đúc kết kinh nghiệm thông qua hoạt động ứng dụng công
nghệ thông tin trong giáo dục trẻ của bản thân và đồng nghiệp.
8
3. Phương pháp thống kê toán học.
Và để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Tôi còn sử dụng một số thủ pháp như: hệ
thống, phân loại, phân tích, đối chiếu, so sánh, khái quát, tổng hợp.
* Thời gian nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này trong khoảng thời gian một năm học: từ tháng 9 năm 2015
đến tháng 5 năm 2016.
VI. Điểm mới của đề tài
Đề tài ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ đã được mốt số đồng
nghiệp của tôi nghiên cứu và áp dụng vào công tác giảng dạy trong những năm học
trước. Tuy nhiên sau khi tham khảo các nghiên cứu của đồng nghiệp, tôi thấy một số
phương pháp sử dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ đã không
còn phù hợp. Ví dụ: chưa ứng dụng được nhiều về công nghệ thông tin, chưa thực
hiện được hình thức trò chuyện ở “mọi lúc mọi nơi”, tạo điều kiện cho trẻ “học mà
chơi, chơi mà học” (theo chuyên đề mới của năm học 2014 -2015). Đặc biệt về sự
phát triển của công nghệ thông tin là không ngừng, so với khả năng nhận thức của
trẻ, ở thời điểm hiện tại thì việc áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ
những năm học trước đã không còn phù hợp.
Vì vậy trong năm học 2015 – 2016, tôi quyết định nghiên cứu đề tài ứng dụng công
nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo bé với một số nội dung mới
hơn.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN VÀO PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO BÉ
I. Cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ Mẫu giáo bé
9
1. Vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho
trẻ Mẫu giáo bé
Từ khi công nghệ thông tin còn chưa ra đời thì ngôn ngữ của con người đã có trước,
và không thể phủ nhận việc ngôn ngữ của trẻ luôn phát triển cùng sự tiến bộ của loài
người, nhưng vận dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ là một hiệu quả lớn trong công việc phát triển ngôn ngữ của trẻ. Có nhiều
cách để ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ như: Sử dụng
trò chơi để kích hoạt ngôn ngữ cho bé yêu của bạn: Có nhiều cách thức bạn có thể
giúp bé yêu phát triển tư duy ngôn ngữ, trong đó không ngoại trừ thói quen sử dụng
các trò chơi bởi những lợi ích trò chơi mang lại cho bé là vô cùng lớn. Các trò chơi
ghép nối-các trò chơi này dạy cho trẻ cách miêu tả những thứ chúng đang tìm kiếm;
các bài hát - khi trẻ hát đi hát lại các bài hát, đó là lúc chúng tập nói, thay vì phải đi
mua các đĩa nhạc thiếu nhi ngoài cửa hàng, ta có thể tự tải các bài hát trên mạng về,
chọn các bài mà trẻ thích, lưu vào một file riêng cho trẻ, để khi mở lên trẻ sẽ được
nghe toàn những bài mình thích, tạo hứng thú cho trẻ ca hát, đọc lời bài hát theo đĩa
nhạc, giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ; đọc - việc đọc thơ, kể truyện giúp trẻ nhận
biết từ và ngữ pháp, vẫn là sử dụng việc cop – paste các câu truyện và bài thơ mà trẻ
thích, lưu vào một file riêng cho trẻ được nghe và xem những bài thơ, câu truyện
mình thích; Bạn có thể sử dụng bức tranh có hình vẽ mà trẻ thích, thay vì mua tranh
ảnh, chúng ta sẽ cop các ảnh đẹp về, chiếu trên màn hình lớn, tạo một số hiệu ứng
hấp dẫn cho trẻ xem và đặt các câu hỏi cho bé, yêu cầu bé trẻ lời, sử dụng câu
chuyện bài thơ bài hát để đặt câu hỏi liên quan đến nội dung nhân vật, chúng ta cũng
có thể đóng vai những nhân vật hoạt hình, các con vật trẻ yêu thích để trẻ có thể tự
kể ra các câu chuyện xung quanh nhân vật đó.
PGS.TS Nguyễn Công Khanh, chuyên gia cao cấp của Trường mầm non Hoàng Gia
(Hà Nội) từng chia sẻ rằng khi trẻ lên ba tuổi, trẻ có một vốn từ vựng khoảng trên
10
một ngàn từ, một số chuyên gia ngôn ngữ khác cũng cho rằng vốn từ của bé lúc này
có thể dao động từ 500-900 từ, và trẻ đã biết dùng các cụm từ và câu dài từ 7-8 từ.
Khi bước vào tuổi thứ ba, bé yêu của bạn có thể biết đặt câu hỏi và bày tỏ ý kiến
khiến bạn đôi lúc phải kinh ngạc như một người mẹ từng tâm sự rằng chị chuẩn bị
quần áo cho con đi học, cô bé nói “Theo con là, hôm nay con sẽ mặc màu hồng”. Và
lúc này, bé đã học cách yêu cầu, một cách lịch sự như nhờ bố mẹ, anh chị lấy cái này
cái kia đã biết dùng từ “làm ơn”. Chúng có thể nói về những sự việc trong tương lai
và nhắc lại những gì đã qua, chính vì vậy bạn sẽ phải phá lên cười khi một buổi sáng
bé tâm sự với bạn rằng mai này bé thích làm bác sỹ, hay giáo viên bởi đơn giản bé
thấy cô giáo thật xinh hay bác sỹ thì sẽ chữa bệnh giúp mọi người. Lúc này trẻ đã có
thể nói câu đầy đủ (có đủ chủ vị ngữ và động từ), sau đó hoàn thiện hơn với những
câu kép, có thán từ rất ngộ nghĩnh như bé có thể cầm chiếc điện thoại lên rồi nói
dõng dạc “Alo….mẹ Na à, về ngay nhé…ừ ừ ừ, sao, kẹt xe rồi à….nhanh lên nhé”
như thật. Chúng cũng biết “hứa hẹn” một cách rất người lớn như bạn yêu cầu bé thức
dậy đến lớp, bé sẽ nói gọn lỏn “con hứa 5 phút nữa con sẽ dậy”. Hơn nữa, bé yêu của
bạn lúc này đã biết đặt yêu cầu, nếu bạn dẫn bé vào hàng tạp hóa mua bim bim, bé sẽ
chỉ vào món snack khoai tây bé ưa thích và nói “Mua tây tây”(Mua khoai tây). Và
không đơn giản, bé đã bắt đầu biết nói dối, nếu bé gây ra một lỗi gì đó bé sẽ biết cách
đổ lỗi cho anh trai, hay những người xung quanh mà bé biết…
“Những điều trình bày dưới đây là một cách nhìn tổng quát về sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ từ 0 tuổi đến 6 tuổi. Dựa và những đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ theo
từng giai đoạn tuổi của trẻ, chúng ta có thể có cái nhìn sơ bộ về khả năng ngôn ngữ
của trẻ. Từ đó, có thể có quyết định thực hiện ứng dụng công nghệ công tin như thế
nào vào việc hỗ trợ trẻ trong quá trình phát triển ngôn ngữ.” (Thạc sĩ ngôn ngữ học
Trương Thanh Loan tổng hợp)
* Năm thứ nhất
11
- Ngôn ngữ tiếp nhận :
+ 0 – 3 tháng
- Đáp ứng âm thanh và tiếng nói
- Giao tiếp mặt đối mặt
- Chú ý đến môi trường xung quanh
+ 3 – 6 tháng : Hướng mắt và đầu về phía âm thanh và tiếng nói
+ 6 – 9 tháng : Trẻ biết nhìn vào tranh và thực hiện được một vài yêu cầu đơn giản
có kèm động tác minh hoạ của người yêu cầu.
+ 9 – 12 tháng : Trẻ hiểu những yêu cầu như vỗ tay, ngưng hành động khi được yêu
cầu, biết quay lại khi nghe gọi tên mình.
- Ngữ diễn đạt
+ 0 – 3 tháng : - Trẻ biết khóc, phát ra một âm nào đó hoặc là gừ…gừ….trong cổ
họng. Trẻ biết cười , làm cử động, phát âm với giọng nhẹ khi được người khác nói
chuyện.
+ 3 – 6 tháng :
Phát ra hai nguyên âm khác nhau.
Phát một âm tiết gồm một phụ âm đầu và một nguyên âm.
Phát ra những âm khác nhau thể hiện cảm xúc khác nhau.
Biết làm hay bắt chước người khác làm những cử động của miệng.
+ 6 – 9 tháng :
Phát ra bốn nguyên âm khác nhau, có thể nói ba, ma.
Bập bẹ nói chuyện với người quen.
Bắt chước làm lại âm thanh mà trẻ đã làm khi nghe người lớn phát ra âm đó.
Bắt chước hành động đơn giản.
+ 9 – 12 tháng :
12
Phát ra âm có ngữ điệu để thể hiện ý muốn hay trao đổi thông tin nào đó.
Bắt chước các cử động của miệng, các hành động kèm theo phát âm như vừa vỗ
bụng vừa kêu bum….bum
* Năm thứ hai
- Ngôn ngữ tiếp nhận
+ 12 -15 tháng : Trẻ biết chọn, chỉ và đưa vật theo yêu cầu (chọn 1 trong 2 vật)
+ 15 -18 tháng
Bắt đầu nhận biết 1 bộ phận cơ thể
Biết làm theo 2,3 yêu cầu đơn giản gồm 2, 3 từ
+ 18 – 24 tháng
Biết thực hiện hành động trên vật khi được đưa vật.
Nhận biết đế 7 bộ phận cơ thể.
Bắt đầu chọn 1 hình trong 2, 4 vật.
- Ngôn ngữ diễn đạt
+ 12 – 15 tháng :
Bắt chước phát âm một từ, hai từ với mức độ gần giống.
Thực hiện các hành động và kèm theo phát âm lời phù hợp với hành động đó.
Biết trả lời câu hỏi đơn giản bằng một từ.
+ 15 – 18 tháng
Phát âm cùng với cử chỉ khi trẻ chưa biết từ.
Cố gắng hát các bài hát quen thuộc.
Lặp lại từ cuối câu.
+ 18 – 24 tháng : Có thể nói 25 từ. Bắt chước câu 2 từ (có thể chưa sử dụng được) .
Tính dễ hiểu của lời nói : người thân hiểu rõ.
13
- Ngôn ngữ diễn đạt
+ 0 – 3 tháng :
Trẻ biết khóc, phát ra một âm nào đó hoặc là gừ…gừ….trong cổ họng.
Trẻ biết cười , làm cử động, phát âm với giọng nhẹ khi được người khác nói chuyện.
+ 3 – 6 tháng :
Phát ra hai nguyên âm khác nhau.
Phát một âm tiết gồm một phụ âm đầu và một nguyên âm.
Phát ra những âm khác nhau thể hiện cảm xúc khác nhau.
Biết làm hay bắt chước người khác làm những cử động của miệng.
+ 6 – 9 tháng :
Phát ra bốn nguyên âm khác nhau, có thể nói ba, ma.
Bập bẹ nói chuyện với người quen.
Bắt chước làm lại âm thanh mà trẻ đã làm khi nghe người lớn phát ra âm đó.
Bắt chước hành động đơn giản.
+ 9 – 12 tháng :
Phát ra âm có ngữ điệu để thể hiện ý muốn hay trao đổi thông tin nào đó.
Bắt chước các cử động của miệng, các hành động kèm theo phát âm như vừa vỗ
bụng vừa kêu bum….bum
* Năm thứ ba
- Ngôn ngữ tiếp nhận
+ 12 -15 tháng
- Trẻ biết chọn, chỉ và đưa vật theo yêu cầu (chọn 1 trong 2 vật)
+ 15 -18 tháng
Bắt đầu nhận biết 1 bộ phận cơ thể
14
Biết làm theo 2,3 yêu cầu đơn giản gồm 2, 3 từ
+18 – 24 tháng
Biết thực hiện hành động trên vật khi được đưa vật.
Nhận biết đế 7 bộ phận cơ thể.
Biết chọn đến 3, 4 vật, đồ dùng quần áo khi được yêu cầu.
Bắt đầu chọn 1 hình trong 2, 4 vật.
Lắng nghe hết 1 truyện ngắn.
- Ngôn ngữ diễn đạt
+12 – 15 tháng :
Bắt chước phát âm một từ, hai từ với mức độ gần giống.
Thực hiện các hành động và kèm theo phát âm lời phù hợp với hành động đó.
Biết trả lời câu hỏi đơn giản bằng một từ.
+15 – 18 tháng
Phát âm cùng với cử chỉ khi trẻ chưa biết từ.
Cố gắng hát các bài hát quen thuộc.
Lặp lại từ cuối câu.
+ 18 – 24 tháng
Có thể nói 25 từ.
Bắt chước câu 2 từ (có thể chưa sử dụng được)
Tính dễ hiểu của lời nói : người thân hiểu rõ.
* Tuổi mẫu giáo (3T – 6T)
- Ngôn ngữ tiếp nhận
+ 3 – 4 tuổi
Làm theo yêu cầu 2, 3 thành phần.
Nhận biết được nhiều bộ phận cơ thể.
15
Nhận biết được giới tính.
Chọn vật theo nhóm.
Nhận biết thêm các từ tương phản.
Nhận biết các thành phần giống và khác nhau của nhóm.
- Ngôn ngữ diễn đạt
+ 3 – 4 tuổi
Sử dụng câu 3 từ.
Biết đặt câu hỏi.
Nói tên họ
Trả lời câu hỏi về chức năng của vật.
Hát bài hát đơn giản.
Bắt đầu sử dụng mạo từ.
Sử dụng đại từ thứ ba.
Lặp lại câu 6 từ.Có ngữ điệu trong câu nói.
- Ngôn ngữ mạch lạc :
Đối với trẻ mẫu giáo, ngôn ngữ mạch lạc là khả năng sử dụng lời nói gọn gàng, dễ
hiểu, có thứ tự trong giao tiếp. Sự mạch lạc càng tốt hơn khi trẻ vào giai đoạn cuối
tuổi mẫu giáo.
- Đặc điểm ngữ pháp :
Ở tuổi mẫu giáo bé, câu của trẻ sử dụng có cấu trúc hoàn chỉnh, đủ thành phần hơn.
Trong giao tiếp, trong kể chuyện, câu nói của trẻ có ngữ điệu rõ ràng, thích hợp ngữ
cảnh. Bé dùng từ cảm thán, sử dụng câu cảm thán khá nhiều trong các cuộc đối thoại.
Ngoài các câu đơn trẻ còn sử dụng các hình thức câu phức và câu ghép. Sự phức tạp
của câu tăng theo độ tuổi của bé.
16
Đối với trẻ Mẫu giáo bé, sự phát triển ngôn ngữ là vô cùng quan trọng để đứa trẻ bắt
đầu tiếp nhận những thông tin từ thế giới xung quanh nó một cách rõ ràng, đầy đủ và
tinh tế nhất
Ngay từ khi còn trong bụng mẹ đứa trẻ đã có thể cảm nhận giọng nói, âm thanh, các
nhà khoa học thường khuyến khích các bà mẹ cho con nghe nhạc phát triển trí tuệ
thai nhi, đây chính là bước đầu tiên của quá trình cảm thụ ngôn ngữ ở trẻ.
Đến khi ra đời, việc cho trẻ nghe hát ru, trò chuyện cùng trẻ hằng ngày là một trong
những hình thức phổ biến mà các bác sĩ Nhi khoa khuyến khích các bà mẹ nên thực
hiện đối với con mình nhằm phát triển thính giác cho trẻ.
Bước vào giai đoạn 12 đến 24 tháng tuổi, đây là giai đoạn quan trọng, biểu hiện
những phát triển đặc trưng về thể chất lẫn tinh thần của đứa trẻ. Các bé bắt đầu tập
bước đi. Ngôn ngữ góp phần truyền tải nội dung giáo dục tình cảm đạo đức kích
thích sự nhạy cảm thẩm mỹ tạo tiền đề cho việc phát triển nhân cách toàn diện cho
trẻ. Đặc biệt là đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp giáo dục trẻ hiện nay tiến tới
thực hiện thay sách cho bậc học Mầm non trong một vài năm tới theo chủ trương
chung của bộ giáo dục và đào tạo.
+ Việc thực hiện chương trình làm quen văn học phải căn cứ vào khoa học.
Trẻ em muốn phát triển toàn diện thì việc cho trẻ làm quen với văn học là rất cần
thiết giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, làm giàu vốn từ và mở rộng hiểu biết về thiên
nhiên xã hội, đặc biệt giúp trẻ phát âm không nói ngọng- Khoa học đã nghiên cứu về
đặc điểm tâm sinh lý (TSL) lứa tuổi chúng ta thấy trẻ 3 tuổi phát triển rất nhanh về
thể lực và tâm lý, ngôn ngữ ngày càng đóng vai trò quan trọng với trẻ . Trẻ có thể sử
dụng lời nói để trao đổi, thể hiện mong muốn, suy nghĩ, thái độ của mình với mọi
người xung quanh.Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy đã
giúp trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài, do đó ở trẻ luôn xuất hiện câu hỏi
“ Tại sao?” với chúng ta.
17
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao
tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang học nói hay bắt chước
người lớn và chính thời điểm này cô giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn trẻ cách nói rõ câu,
cách phát âm rõ ràng…
Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự
rèn luyện cho mình cách nói rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng
đắn, thân ái, lịch sự.
2. Đặc điểm của quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Qua các năm thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy – tổ chức các
HĐ: đọc thơ, kể chuyện, đọc ca dao, đồng dao, chơi trò chơi,.. cho trẻ MGB, tôi
thường xuyên chú ý đến phương pháp, hình thức cho trẻ nói, vì trẻ MGB có nhu cầu
phát triển ngôn ngữ rất lớn. Số từ ngữ của trẻ tăng nhanh ở tuổi này, trẻ nói nhiều.
Tiếp sau đọc là kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo hay đóng kịch dưới
nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Tuy đóng kịch là phương pháp giúp trẻ được
thể hiện khả năng nghe, nói, ghi nhớ, diễn cảm, ..giúp PTNN rất tốt, nhưng việc dạy
trẻ đóng kịch còn có nhiều hạn chế, chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể từ
chuyện kể sang kịch bản sân khấu, không tạo ra được tính kịch - sự kiện - sự biến, lời
thoại còn dài dòng khó hiểu, giáo viên còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho
kịch bản trở nên rời rạc - kém hấp dẫn.
Bên cạnh đó vẫn còn một số GV khả năng còn cảm nhận các tác phẩm văn thơ
chuyện còn hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa
chưa bộc lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa
linh hoạt sáng tạo kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử
dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu
quả trên tiết học chưa cao. Hầu hết các vở kịch còn thiếu các yếu tố phụ trợ như: Âm
thanh, cảnh trí, trang phục… làm hoạt động đóng kịch không thu hút được sự chú ý
18
của trẻ. GV chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch cho
trẻ - nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ chơi, các buổi sinh hoạt
thì hầu như chưa có.
Đối với giáo dục Nầm non yêu cầu trẻ “Học mà chơi, chơi mà học” trong tất cả các
hoạt động một cách nhẹ nhàng, gần gũi. Vậy nên trong đề tài nghiên cứu này tôi xin
được đưa ra các biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ ở nhiều hình thức, đơn giản, ngắn gọn, có khả năng thực thi nhiều hơn, (ở
“mọi lúc, mọi nơi”) đối với cả giáo viên và với trẻ.
II. Cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ Mẫu giáo bé
1. Thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ tại trường Mầm non Bình Thuận
Năm học 2015 - 2016 trường Mầm non Bình Thuận trang bị 13 máy vi tính ( 07 máy
dùng cho cán bộ quản lý và kế toán, 6 máy dùng cho cô nuôi và trẻ 2 - 5 Tuổi.) trong
đó các máy đều được nối nạng internet.
Số giáo viên biết sử dụng máy tính : 28/30 đc
Số giáo viên biết sử internet:
28/30 đc
Số giáo viên biết sử dụng bài giảng điện tử và trình chiếu : 28/30 đc
Số trẻ được tiếp cận với internet: 390/390
Trường Mầm non Bình Thuận có 11 nhóm lớp, với số trẻ ra lớp đông: 390 trẻ. Là
ngôi trường có điều kiện cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, trường đạt chuẩn Quốc gia
cấp I, được trang bị nhiều đồ dùng đồ chơi hoạt động ngoài trời đa dạng và phong
phú. Phần lớn giáo viên đã có thể tự xây dựng những bộ giáo và các bài giảng có sử
dụng công nghệ thông tin trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Năm học 2015 –
2016, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ trong hoạt động
giáo dục trẻ có những ưu việt lớn so với cách giảng dạy truyền thống.
19
Trẻ em hào hứng, chủ động và sáng tạo trong giờ học, phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ em.
Tuy nhiên, kiến thức và kỹ năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở một số giáo viên vẫn
còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh
không dám mạnh dạn khai thác, mặt khác phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một
lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xóa được.
2. Thực trang của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ
cho trẻ tại lớp 3 tuổi A
* Thuận lợi:
Tôi thực hiện đề tài tại lớp 3 tuổi A trường Mầm non Bình Thuận, bản thân thường
xuyên học hỏi đồng nghiệp qua các buổi dự giờ hoạt động và tìm hiểu qua các loại
sách báo, đồng thời có kế hoạch xây dựng các hoạt động ứng dụng công nghệ thông
tin vào phát triển ngôn ngữ theo chủ đề phù hợp với khả năng nhận thức và sự hứng
thú của trẻ.
Lớp 3 tuổi A có số trẻ ra lớp đúng độ tuổi và đa số trẻ đã học lớp nhà trẻ, được rèn
nhiều thói quen tốt với tổng số trẻ là 38.
Bản thân tôi được đào tạo chuyên ngành công tác chăm sóc – giáo dục trẻ. Trong quá
trình thực hiện đề tài tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm trang bị đầy đủ đồ
dùng, phương tiện cho các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển
ngôn ngữ.
Các đồng nghiệp nhiệt tình đóng góp ý kiến, giúp đỡ tôi trong các hoạt động.
* Khó khăn
Số trẻ đến lớp cao, 38 trẻ, vượt quá 13 trẻ so với quy định, ngôn ngữ, nhận thức của
các cháu chưa đều, một số cháu chưa qua lớp nhà trẻ nên chưa có nhiều thói quen
học tập tốt. Như cháu: Nguyễn Duy Mạnh, Nguễn Bích Liên, Đào Tuấn Vũ, Nguyễn
Văn Trường, Trần Hoàng Linh, .. khả năng nhận thức còn rất chậm so với các bạn
trong lớp. Môi trường và thời tiết diễn biến phức tạp, đặc biệt giai đoạn tháng 2,
20
tháng 3, tháng 4 có nhiều dịch bệnh: quai bị, sốt vi rút, thủ đậu, nghiêm trọng nhất là
dịch bệnh rika mới xuất hiện và cùng bùng phát dẫn tới việc thực hiện đề tài không
được đều đặn do các cháu còn nghỉ học.
Một số phụ huynh còn chưa quan tâm sát xao đến việc chăm sóc giáo dục các cháu
nên việc phối hợp công tác chăm sóc giáo dục các cháu với các phụ huynh còn gặp
nhiều khó khăn.
Do đặc điểm của trẻ Mẫu giáo bé dễ nhớ nhưng chóng quên, qua một số năm dạy lớp
Mẫu giáo bé tôi thấy các cháu chưa tích cực tham gia hoạt động học tập do chưa có
nhiều kỹ năng nghe, nói, chú ý, quan sát, tư duy có chủ đích.
Tôi tiến hành kiểm tra, khảo sát kỹ năng thực hiện của trẻ và đạt kết quả:
Bảng 1
Khảo sát đánh giá các kỹ năng của 38 trẻ lớp 3 tuổi A trong các hoạt động
phát triển ngôn ngữ chưa có biện pháp thực hiện:
Các kỹ năng
kiểm tra
Nghe
Đạt
Tỷ lệ
Chưa đạt
Tỷ lệ
17/38
44.7%
21/38
55.3%
Biểu cảm
19/38
50%
19/38
50%
Giao tiếp
14/38
36.8%
24/38
63.2%
Quan sát
20/38
52.6%
18/38
47.4%
Ghi nhớ
18/38
47.3%
20/38
52.7%
Hứng thú
19/38
50%
19/38
50%
Từ bảng điều tra thực trạng trên, tôi nhận thấy khả năng tiếp cận công nghệ thông tin
qua các hình thức của học sinh lớp tôi còn thấp. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn đưa ra
một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
CHƯƠNG II. KẾT QUẢ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
I. Một số giải pháp của đề tài
21
Thực trạng trên cho thấy khả năng ngôn ngữ của trẻ Mẫu giáo bé còn thấp. Số trẻ đã
thực hiện được các kỹ năng có tỉ lệ giảm dần theo độ khó kỹ năng. Từ kết quả trên,
tôi đã đề ra một số biện pháp thực hiện đề tài:
Biện pháp 1: Lập kế hoạch hoạt động
- Tôi thường xuyên lập các kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình
giảng dạy, nghiên cứu kỹ các bài soạn bằng giáo án điện tử, soạn bài trước khi giảng
dạy, dành nhiều thời gian tìm các âm thanh và hình ảnh hay – đẹp để thiết kế giáo án.
Tìm hiểu nhiều cách thay đổi hình thức hoạt động sao cho phong phú và phù hợp với
chủ đề.
VD: Chuẩn bị cho tiết PTNN thơ: “Cây dây leo” gồm có:
+ File cop sẵn một số bài nhạc về chủ đề Thực vật.
+ File cop sẵn lời bài thơ “Cây dây leo” do các nghệ sĩ đọc.
+ Cây dây leo thật, cho trẻ quan sát.
+ Giáo án soạn trên Powerpoint bài thơ “Cây dây leo” để trình chiếu.
+ Và không thể thiếu máy chiếu, máy tính xách tay, loa vi tính
Biện pháp 2: Chọn nội dung bài giảng để ứng dụng công nghệ thông tin thích
hợp:
Khi soạn giáo án điện tử giáo viên nên cân nhắc việc đưa công nghệ thông tin vào
bài giảng vì không phải bài nào cũng áp dụng được mà cần lựa chọn 1 cách hợp lý
dựa vào nội dung mục đích yêu cầu cách tích hợp trong bài dạy.
Ví dụ: Xây dựng giáo án điện tử áp dụng vào các tiết như Văn học, làm quen chữ
viết, toán, tạo hình, trò chơi âm nhạc.
22
Tiết dạy phát triển ngôn ngữ - thơ: “Hoa kết trái”
Trò chơi ứng dụng công nghệ thông tin cho từng nhóm trẻ
Muốn làm được như vậy thì giáo viên phải nắm vững phương pháp của từng bộ
môn, từng loại tiết theo từng độ tuổi
Tuy nhiên theo tôi, có ba điểm cơ bản để quyết định nên soạn bài bằng giáo án điện
tử hay không:
- Mong muốn của giáo viên tổ chức hoạt động học tập tích cực bằng cách liên
kết hình ảnh với lời nói một cách tự nhiên, bằng cách vận dụng hình ảnh và ngôn từ
cô đọng trên các slide powerpoint để khơi gợi kích thích sự liên tưởng và tưởng
tượng của trẻ .
- Nội dung chủ yếu của bài dạy đòi hỏi phải mở rộng và chứa đựng một số ý
tưởng có thể khai thác thành các tình huống có vấn đề đưa trên nhận thức của trẻ và
phù hợp với từng độ tuổi.
23
- Nguồn tư liệu hình ảnh phong phú liên quan đến nội dung bài dạy sẵn có (có thể
truy cập từ internet hay các nguồn tài nguyên khác như băng đĩa ghi âm, ghi hình,
phim ảnh… và điều quan trọng hơn là ý tưởng sẵn có trong kinh nghiệm của người
soạn giáo án).
VD:
+ Với tiết Toán: tôi cho trẻ ra cá góc mở đếm tranh và gọi tên số lượng các đối tượng
trong tranh mà tôi đã dán sẵn thay vì sử dụng một số đối tượng mà trong lớp không
có sẵn đồ dùng, hoặc đồ dùng đã cũ, không phù hợp.
Biện pháp 3: Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi
* Để ứng dụng hiệu quả của công nghệ thông tin vào việc làm giàu vốn từ cho trẻ,
tôi thường xuyên cho trẻ đọc các bài ca dao, đồng dao, bài thơ cùng với việc kết hợp
các bài đọc phát triển ngôn ngữ kiểu truyền thống như:
+ Giờ ăn: đọc thơ : Mời bạn ăn
+ Giờ ngủ- đọc thơ: giờ đi ngủ
+ Trong các hoạt động chơi tự do, chơi chuyển tiếp đều sử dụng các bài ca dao, đồng
dao, vè..như: Dung dăng dung dẻ; Thả đỉa ba ba; Nu na nu nống,..
Tôi đã vào mạng tìm kiếm các bài thơ, đồng dao, bài vè phù hợp, các trò chơi có lời
đọc hấp dẫn rồi copy lại, lưu vào một file riêng, trong các hoạt động trong ngày
ngoài các tiết dạy ra, tôi thường xuyên cho trẻ nghe thơ, nghe nhạc, đặc biệt trong
hoạt động âm nhạc, thơ, truyện tôi chú ý soạn giáo án điện tử phù hợp tiết dạy, có
nhiều hình ảnh đẹp gợi biểu tượng và yêu cầu trẻ phát âm, nhắc lại nhiều lần mở cho
trẻ chơi, và kết hợp vừa nghe âm thanh, vừa đọc theo, vừa học, vừa chơi trò chơi,
khuyến khích hứng thú ngôn ngữ của trẻ.
Đối với những trẻ yếu, chậm, và còn ngọng tôi đặc biết chú ý yêu cầu trẻ phát âm lại
nhiều lần, và tôi thực hiện phát âm của mình thật chính xác, rõ ràng, và chậm, giúp
trẻ có thể có thể quan sát khẩu hình của cô để phát âm theo, tôi còn yêu cầu trẻ tập
trung lắng nghe âm thanh phát ra để phát âm theo được chính xác nhất.
24
Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh rèn luyện trẻ khi ở nhà
- Trong các giờ đón, trả trẻ, tôi trò chuyện cùng phụ huynh về bài học trong ngày,
hướng dẫn phụ huynh tự copy các bài hát, câu truyện trên mạng internet về cho trẻ
nghe và xem ở nhà.
- Tôi thường xuyên nhắc nhở phụ huynh trò chuyện với trẻ, khuyến khích trẻ kể về
cô giáo, các bạn, về những điều trẻ được học, hỏi, động viên, yêu cầu trẻ kể, đọc các
câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng dao,.. ở lớp.
Biện pháp 5: Ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin
Năm học 2015 – 2016 là năm học không thể thiếu được nhiệm vụ đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, từ nhiệm vụ đó, tôi đã tập trung tìm hiểu và
rút ra một số cách ứng dụng công nghệ cụ thể trong hoạt động phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Chuẩn bị thiết bị, đồ dùng, đồ chơi cho hoạt động rất cần thiết, nó quyết định
kết quả hoạt động.
Ngoài việc đã sử dụng phần mềm Powerpoint (PP) để soạn các giáo án điện tử, tạo
các Video, các file có kèm âm thanh chuẩn được chọn lọc để cho trẻ nghe, đọc theo,
hát theo, tạo hứng thú cho trẻ. Tôi thường xuyên cập nhật các phần mềm chỉnh sửa,
cắt, dán, ghép hình ảnh và âm thanh, xem video mới như: Picasa, Formatfactory,
Video 123, Media, Aleo,.. Khi đưa vào sử dụng, tôi thấy hiệu quả rất cao, trẻ rất
hứng thú, không chỉ với mục tiêu PTNN, tôi còn sử dụng PP trong tất cả các HĐ và
các mục tiêu khác: Phát triển thẩm mỹ, phát triển thể chất,..
* Lưu ý: với các phần mềm yêu cầu người dùng thường xuyên kết nối máy tính với
mạng internet để phần mềm thường xuyên được cập nhật phiên bản mới nhất.
II Kết quả của việc nghiên cứu đề tài:
Sau một năm thực hiện, với kinh nghiệm của bản thân và những kiến thức được trang
bị trong quá trình công tác tôi đã áp dụng những biện pháp trên vào quá trình phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Tuy chỉ là những biện pháp có được từ cá nhân tôi, dựa vào
25