Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG Ở TRƯỜNG MẦM NON NH 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.21 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: "Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ ở trường mầm non"

Quảng Bình, tháng 12 năm 2016


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: " Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ ở trường mầm non "

Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Mị
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non An Thủy

Quảng Bình, tháng 12 năm 2016


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở
trường mầm non.
1. Phần mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Có lẽ chúng ta đã nghe rất nhiều về cụm từ “kỹ năng sống” và “giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ”. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ


năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân cần có để tương tác với những
người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách
thức của cuộc sống hàng ngày. Theo UNICEFF, kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều
kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết
định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và
quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Như
vậy, kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và
giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
Chính vì vậy mà ngay từ giai đoạn mầm non, trẻ cần được trang bị kỹ năng sống để
định hướng phát triển một cách tốt nhất. Giáo dục mầm non luôn hướng tới mục
tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ, chuẩn bị những năng lực, phẩm chất và các kỹ năng
xã hội cần thiết. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã và đang là một nhiệm
vụ không thể thiếu trong công tác giáo dục mầm non, là vấn đề then chốt, là nền
móng để phát huy tối đa hiệu quả giáo dục.Giai đoạn tuổi mầm non, trẻ xuất hiện
tình trạng thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không
biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ... Có nhiều
nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng này, trong đó việc thiếu kỹ năng sống là
nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết. Các
nhóm kỹ năng sống có thể dạy cho trẻ em tuổi mầm non: nhóm kỹ năng chăm sóc
bản thân; nhóm kỹ năng quản lý cảm xúc; nhóm kỹ năng giao tiếp; nhóm kỹ năng
đảm nhận trách nhiệm; nhóm kỹ năng lãnh đạo. Trong quá trình phát triển nhân
cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các
em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và
chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống...
Bên cạnh đó, trẻ mầm non đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá
trị sống để phát triển nhân cách, do đó, cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có
nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Các kỹ năng
sống được học tốt nhất thông qua các hoạt động tích cực của trẻ, đối với trẻ mầm
non, trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập
thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ. Để giáo dục kỹ năng sống

cho trẻ một cách hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng các biện pháp như: làm gương,
trải nghiệm, trò chơi, trò chuyện, đàm thoại... Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể


tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày như: vui chơi, học tập,
chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham quan... Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc
dạy những kỹ năng sống cần thiết với cuộc sống của trẻ. Giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết việc nên làm và
không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong
cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành
người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết
phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Những năm gần đây, nhu cầu học kỹ
năng sống, các chuẩn mực đạo đức của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự
quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc giáo dục con em mình.Tuy nhiên,
về mặt lý luận, cũng như thực tế cho thấy, kết quả của giáo dục kỹ năng sống,
phẩm chất nhân cách, đạo đức cho trẻ em cần sự phối hợp của nhiều yếu tố (gia
đình, nhà trường, xã hội). Đã từ lâu vấn đề này đã được đặt ra và đến nay nó vẫn là
câu hỏi lớn! Sự cấp thiết của nhu cầu học kỹ năng sống của trẻ em là một trong
những dấu hiệu đáng mừng của xã hội. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc
phụ huynh đến việc giáo dục kỹ năng sống, giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách
cho con em mình. Với những lý do trên, là một giáo viên mầm non tôi chọn đề tài
“Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ ở trường mầm non” để làm đề
tài nghiên cứu.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Qua thực tế của việc dạy và học của trẻ mẫu giáo, tôi thấy được tầm quan
trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, làm hành trang cho trẻ bước vào lớp
1 cũng như tương lai của trẻ và của xã hội. Đề tài này tôi nghiên cứu, đúc rút từ
công tác giảng dạy trẻ mẫu giáo ở đơn vị tôi và có thể áp dụng cho các đơn vị khác
ở trong huyện, trong tỉnh và ngoài tỉnh.
2. Phần nội dung:

2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung 3 “rèn luyện
kĩ năng sống cho học sinh”.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích
tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết
ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo.
Đối với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những
vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến
trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt,
không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể
tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải mất rất nhiều thời


gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường
mầm non.
* Thuận lợi:
- Những năm gần đây Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những biện pháp cụ
thể để rèn kỹ năng sống cho trẻ một cách chung nhất, đây chính là những định
hướng giúp giáo viên thực hiện như: rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình
huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm, rèn
luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe...
- Ở trường mầm non nơi tôi công tác được ban giám hiệu nhà trường quan
tâm giúp đỡ về mọi mặt như: phương tiện dạy học, cơ sở vật chất...
- Trẻ đã học qua các lớp trước nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định. Trẻ
mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ.
- Tập thể giáo viên trong trường sôi nổi nhiệt tình trong công tác, có lòng
yêu nghề mến trẻ.
* Khó khăn:

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên trong quá trình giáo dục trẻ do lớp tôi
phụ trách vẫn còn một số khó khăn vướng mắc trong quá trình rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ:
- Về phía nhà trường chưa có biện pháp hữu hiệu để rèn luyện kỹ năng sống
cho trẻ. Phần lớn chỉ quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức cho trẻ qua các giờ
học ít trú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng sống.
- Một số giáo viên chưa xem việc rèn luyện kỹ năng sống là quan trọng và
cần thiết đối với trẻ.
- Một số phụ huynh chưa quan tâm đến trẻ, thậm chí một số gia đình còn
thiếu kỹ năng sống làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cho trẻ ở nhà
trường.
* Khảo sát thực trạng
Vào đầu năm học, kết quả khảo sát kỹ năng sống của trẻ đầu vào cho thấy:
TT
Tiêu chí
Tỷ lệ
1
Mạnh dạn tự tin
53%
2
Kỹ năng hợp tác
47%
3
Kỹ năng thích khám phá học hỏi
58%
4
Kỹ năng trong giao tiếp
58%
5
Kỹ năng tự phục vụ

53%
* Nguyên nhân:
- Do tác động của xã hội làm cho trẻ bị ảnh hưởng một số thói quen xấu nên
việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn.
- Khó khăn về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con,
do đó khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc,viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng


một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ
không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình
ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống
hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng
đó để làm gì?
- Đối với giáo viên mầm non phong trào “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa
hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản
nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ mầm non. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng
việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực,
chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn
gặp nhiều khó khăn, giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó
trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc lại do giáo viên trẻ
chủ yếu là giáo viên hợp đồng nên giáo viên mới thường không an tâm công tác.
2.2. Các giải pháp:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế, tôi đã thực hiện các biện
pháp chung để giải quyết vấn đề như sau:
Giải pháp 1: Giúp trẻ về việc rèn kỹ năng sống .
Trong các năm học qua Bộ Giáo dục - Đào tạo phát động phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” qua đó giúp tôi hiểu được rằng
chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn

hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận
một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã
hội.Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng
xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập
trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
Giải pháp 2: Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa
tuổi mẫu giáo 5- 6 tuổi.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính
tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ
năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung
trọng tâm để dạy trẻ .
Giải pháp 3: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo
viên cần dạy trẻ:


+ Kỹ năng sống tự tin: một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần
chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác.
Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: giờ hoạt động ngoài trời “Quan sát vườn rau” trong khi đang quan
sát và đàm thoại trẻ phát hiện ra có 1 con sâu đang bò trên là rau, trẻ tỏ ra rất sợ
hãi. Lúc này cô giáo chính là người giúp trẻ quên ngay nổi sợ hãi đó.
Cô liền hỏi:
- Con sâu đó như thế nào?
- Con thấy con sâu đó đang làm gì? Nó có lợi hay có hại? Vì sao?
Con sâu không đáng sợ nhưng nó lại gây hại cho cây cối, mùa màng đấy.
- Để cho rau xanh tốt, nhanh lớn chúng ta phải làm gì?

Và cô bắt ngay con sâu lên khỏi lá rau để trẻ thấy rằng con sâu không đáng
sợ mà cần phải diệt trừ nó.
+ Kỹ năng sống hợp tác: bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên
giúp trẻ học và cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ
lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các
bạn.
Ví dụ: góc xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm cùng nhau hoàn thành công
trình và để làm được điều đó tất cả trẻ cùng thảo luận, phân công công việc cho
nhau cùng nhau làm công việc được giao, cuối cùng trẻ cùng nhau hoàn thiện
những cái cuối cùng của công trình. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được
học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò
mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt
động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những
thứ có thể đoán trước được.
Để rèn và phát huy tốt kĩ năng này tôi đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau
kết hợp các phương pháp giáo dục như: sử dụng lời nói, dùng tình huống, sử dụng
trò chơi:
* Sử dụng lời nói nhằm giúp trẻ nắm được các nội dung cần thực hiện. Ở
phương pháp này đòi hỏi phải chú ý tới khâu dẫn dắt bởi đây là điểm mấu chốt lôi
cuốn hứng thú và sự chú ý của trẻ, giúp trẻ tiếp thu tốt kiến thức các nội dung tiếp
theo.
* Sử dụng tình huống nhằm hình thành cho trẻ kỹ năng giải quyết những
tình huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Các tình huống không có sẵn và
bản thân tôi phải phát hiện và tận dụng các tình huống có vấn đề và biết cách xử lí.
Tuy nhiên, ở trong trường mầm non ít khi hay thậm chí không xảy ra các tình


huống như: lạc đường, bị bắt cóc, giúp đỡ người già… Vì thế, tôi tạo ra một số tình

huống thông qua xây dựng kịch bản chơi trò chơi đóng kịch.
Ví dụ: với truyện “Cáo, Thỏ và Gà trống” (chủ đề thế giới động vật)
Tôi xây dựng thành kịch bản tình huống và tổ chức cho trẻ tham gia gia
đóng kịch để khắc sâu ở trẻ tính cách mạnh mẽ, dũng cảm ở nhân vật “Gà trống”.
* Sử dụng trò chơi: trẻ được học tập các kiến thức, kĩ năng một cách tự
nhiên qua các trò chơi, đồng thời đây cũng là cơ hội để trẻ trãi nghiệm và kiểm tra
lại vốn kiến thức kỹ năng của mình. Đây cũng được coi là hoạt động có ý nghĩa
trong phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Khi tham gia trò chơi trẻ khám phá môi
trường tự nhiên và xã hội xung quanh mình. Hoạt động vui chơi cũng đặt ra cho trẻ
nhiều tình huống bất ngờ đòi hỏi trẻ sự linh hoạt, nhạy bén và sáng tạo để giải
quyết tình huống chơi.
Ví dụ: khám phá tự nhiên “Sự phát triển của cây từ hạt”.
Tôi yêu cầu trẻ xếp đúng thứ tự quá trình phát triển của cây từ hạt (Hạt ->
mầm -> cây con -> cây nhiều cành, nhiều lá -> cây có hoa -> cây có quả.)
- Đặc biệt với trò chơi khoa học là những trò chơi mang tính khám phá, thử
nghiệm nhằm cung cấp cho trẻ những tri thức tiền khoa học, khuyến khích và nuôi
dưỡng trí tò mò, ham hiểu biết, góp phần phát triển trí tuệ và chuẩn bị những kĩ
năng nhận thức nhất định. Với trò chơi này tôi gần như sử dụng triệt để nhằm rèn
kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu cho trẻ.
Ví dụ 1: Cho trẻ chơi với nước, thả vật nổi vật chìm:
- Vì sao miếng xốp lại nổi?
- Vì sao hòn sỏi lại chìm?
Ví dụ 2: Cho trẻ thí nghiệm nam châm với sắt, nam châm với gỗ:
- Khi nam châm đặt gần gỗ thì điều gì xảy ra?
- Vì sao nam châm không hút được gỗ?
- Chuyện gì sẽ xảy ra khi nam châm và sắt đặt gần nhau?
Hay tôi cho trẻ chơi pha màu nước khi khám phá về sự kì diệu của nước:
- Vì sao nước biến thành màu vàng? (pha bột màu vàng)
- Tại sao nước bây giờ màu đỏ mà lại chua? (pha với nước chanh)
- Để làm ra nước biển cần làm như thế nào?

+ Kỹ năng giao tiếp: giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt
ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của
mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng
đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết,
làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý
tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận
những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi
thứ.


Ví dụ: giờ đón trả trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo vệ
mình:
- Nếu lạc đường sẽ tìm đến ai để hỏi? Con hỏi như thế nào?
- Nếu có người lạ đụng chạm vào người con phải làm gì?
- Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào?
Hay thỉnh thoảng cũng có khách của cô giáo, hoặc ban giám hiệu đến dự
giờ. Tôi dạy trẻ ứng xử lịch sự vui vẻ: tôi nhắc trẻ đứng dậy khoanh tay chào
“Chúng cháu chào cô (bác) ạ!”.
Và tôi cũng cho trẻ biết có nhiều người xấu ẩn giấu trong cái vẻ đàng hoàng.
Tôi dạy trẻ cách trả lời khách lịch sự và có khoảng cách an toàn.
+ Kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: biết tự rửa tay sạch sẽ
trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng
trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ
không gây tiếng ồn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, biết giúp người lớn dọn dẹp,
ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Hằng ngày tôi cũng khuyến khích trẻ giúp cô thu dọn đồ dùng, đồ chơi sau
khi học xong, giúp cô xếp bàn ăn, chia cơm cho bạn và tôi thay đổi cho tất cả trẻ
đều được tham gia.
Ví dụ 1: - Chuẩn bị đến giờ ăn rồi, hôm nay bạn nào sẽ cùng cô sắp xếp bàn
ăn nào?

- Khi xếp chúng mình phải xếp như thế nào?
- Sau khi ăn xong con phải làm gì?
Ví dụ 2 : chủ đề “Nghề nghiệp”
Hoạt động chiều: tôi cho trẻ “Nhận biết những nguy cơ cháy nổ có thể
gặp”, tôi sẽ cung cấp cho trẻ những kiến thức, và kĩ năng cơ bản sau:
- Nhận biết các nguồn gây ra lửa (bếp gas, bật lửa, cồn, nến, dầu, xăng,..)
- Biết ảnh hưởng tốt /xấu của lửa trong cuộc sống.
- Biết cách dập lửa an toàn (khăn ướt, nước, bình xịt)
- Tôi cho trẻ đóng vai giả làm chú lính cứu hoả → từ đó trẻ sẽ được trang
bị kiến thức và kĩ năng cần thiết cho mình.
Tôi đã dạy trẻ cách ứng phó từ bây giờ để trẻ biết cách thoát ra nếu không
may điều đó xảy ra trong tương lai. Đặc biệt, tôi khẳng định với trẻ: “Không có gì
quý hơn chính bản thân con”. Vì thế, con không cần mang theo bất kể cái gì khi
thoát ra. Khi nào thoát ra ngoài rồi, con cần phải kêu cứu. Nếu bé nào cũng biết
điều đó thì tỷ lệ tử vong do các thảm họa gây ra sẽ giảm tới mức tối thiểu.
Giải pháp 4: Xác định nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy trẻ kỹ năng
sống.
+ Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy


năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt,
phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của
cuộc sống.
+ Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo
dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: giúp trẻ phát triển đồng
đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ.
Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết
vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
+ Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những

bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết
lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ
khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này
liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi
người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như
thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là
trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của
trẻ.
Giải pháp 5: Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống
trong gia đình :
+ Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ,
trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện chăm sóc giáo dục trẻ tại nhà, bàn
bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
+ Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho
rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo
viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm
giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa
học khi chơi với nhau.
+ Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáoviên, tham gia các buổi họp của nhà trường
để nắm bắt được tình hình để cùng với nhà trường giáo dục trẻ một cách toàn diện
hơn.
+ Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một
cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
+ Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần
thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác
thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà



còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu
hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những
người xung quanh trẻ.
+ Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
+ Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi.
Giải pháp 6: Tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày
của trẻ.
+ Đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỷ
năng sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các
hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý
tưởng.
Ví dụ: giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số thông qua
các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm nhạc.
+ Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe: Giáo viên cần tranh
thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động ngoài
trời, hoạt động góc...Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn
luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương
bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh
tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở
trẻ.
+ Giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn
có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha
mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức
tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của
trẻ ở góc nhỏ trong nhà.
+ Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết

cách sử dụng các đồ dùng ăn uống, hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục. Việc này được thực hiện
trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.
Cụ thể: trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ
đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn
nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã,
không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu...
tất cả những yếu tốtrên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục
vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Giải pháp 7: Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.


+ Nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một
cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.Tổ chức
các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với
lứa tuổi của học sinh.
+ Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ
hoạt động ngoài trời: Các hoạt động tự chọn được duy trì mỗi tháng có sự tham gia
trực tiếp của cha mẹ để cùng nặn, cùng vẽ giúp con mình hoàn thành sản phẩm,
phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý. Giáo viên chủ động thay đổi
nội dung, hình thức tổ chức và luân phiên thay đổi thành phần tham dự để tất cả
các bậc cha mẹ đều được tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà
trường.
3. Phần kết luận:
Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Trong quá trình thực các biện pháp trên tôi đã thu được một số kết quả sau:
* Đối với bản thân:
Bản thân chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ, giải

quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.Trong
giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn. Mạnh dạn, tự
tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt
chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
* Đối với trẻ:
- 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi
dậy tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
- 100% trẻ được rèn luyện khả năng sẳn sàng học tập ở trường hiệu quả
ngày càng cao.
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập;
qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ;
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình.
- 100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe,
được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển .
Kết quả thể hiện rất rõ qua việc khảo sát chất lượng cuối năm:
TT
1
2
3

Tiêu chí
Mạnh dạn tự tin
Kỹ năng hợp tác
Kỹ năng thích khám phá học hỏi

Tỷ lệ
95%
89%

89%


4
Kỹ năng trong giao tiếp
84%
5
Kỹ năng tự phục vụ
100%
* Đối với phụ huynh:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục
trẻ ở nhà trường.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo
trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng
trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không chiều
chuộng, không còn hình ảnh mẹ đi sau xách cặp cho con, ngược lại xuất hiện khá
nhiều hình ảnh trẻ tự đeo cặp, tự để đồ dùng ngay ngắn.
Qua quá trình thực hiện tôi đã rút ra được vấn đề cụ thể sau:
* Một số điều người lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống:
- Điều cần làm trước hết là cô giáo và cha mẹ trẻ phải là tấm gương sáng,
yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ. Việc
học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng
lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn. Người lớn cần
tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều cách học khác nhau, những kinh
nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu
dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý nghĩa. Đây chính là những
kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
- Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái
bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới

tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách. Kể chuyện cho
trẻ hàng ngày: Cô giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe
những câu chuyện, dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của
dân tộc, kể chuyện cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục
nhân cách cho trẻ.
- Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong
ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những cách
thức và phương thức giữa gia đình và lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì, nhẫn nại, sự
đồng cả, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn mới giúp trẻ vượt
qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu không khí thân ái, đầm ấm
cần thiết trong bữa ăn.
* Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp trẻ: cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ là
chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ.
- Không doạ nạt trẻ: sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho
hành vi của trẻ tốt hơn.


- Không bắt trẻ hứa hẹn: vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với trẻ vì
nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ phát triển
cảm giác hối lỗi, ngược lại trẻ .
- Không bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: cha mẹ thường không
đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều
gì cả.
- Không nên giáo huấn quá nhiều vì ảnh hửơng của những ngôn ngữ đó làm cho
đứa trẻ ngưng hoạt động, nhưng trong thực tế trẻ không thể ngưng hoạt động sẽ
dần làm cho trẻ nghĩ rằng mình là ngừơi có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá
tiêu cực về bản thân sau này.
- Không tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con hãy để cho trẻ được làm trẻ con thật
sự, không nên cung cấp lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của

não bộ. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó.
- Không thúc giục trẻ, sự nóng giận của người lớn đối với những sai sót của trẻ
không những làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản trở
nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành những thói quen ăn uống văn hóa.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Đối với nhà trường, cần thường xuyên phát động phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó có nội dung: nhà trường cần tổ
chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham
gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động
vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên được học tập, tham quan từ
những trường bạn snhiều hơn để mở mang tầm nhìn.
Trên đây là " Một số biện pháp góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ
ở trường mầm non " mà bản thân tôi đúc rút ra từ tình hình thực tế giảng dạy.
Những gì tôi đã làm tuy chưa cao nhưng cũng là sự cố gắng của bản thân.
Tuy nhiên bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không tránh khỏi những
hạn chế, kính mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng thi đua nhà trường, của
các cấp quản lý giáo dục, cùng các bạn đồng nghiệp để bài viết được hoàn chỉnh và
có hiệu quả thực tiễn hơn./.




×