SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG
Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA TRUNG
Người thực hiện: Ngô Thị Hải
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Nga Trung
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
THANH HÓA NĂM 2015
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lúc sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ của
cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn, tôn
trọng nó”. Đặc biệt trong công tác giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non, chúng ta lại
càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp
phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển một cách toàn diện.
Thế giới của trẻ thơ là thế giới của hàng ngàn câu hỏi về sự vật, hiện
tượng xung quanh trẻ mà trẻ muốn khám phá. Ngôn ngữ là một phương tiện
hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua
cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong
môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các
sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng
nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Để giúp trẻ nói lên cảm xúc, hiểu được sự vật hiện tượng xung quanh, thì người
lớn, mà đặc biệt là giáo viên Mầm non cần quan tâm hướng dẫn cho trẻ sử dụng
ngôn ngữ một cách tích cực
Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên
đặc biệt quan trọng, vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát
triển và hoàn thiện, trẻ đã có khả năng phát âm đúng hầu hết các âm đơn và
thanh điệu, số lượng từ tăng nhanh, hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các
từ của trẻ, tuy nhiên trong nhiều trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa chính xác.
Theo nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ta thấy rằng: Trẻ 24 đến
36 tháng, ngôn ngữ của trẻ phát triển rất mạnh trên các bình diện: Vốn từ tăng
lên rất nhanh cụ thể như: Trẻ 24 tháng số lượng từ là 234 từ, nhưng đến 30 tháng
số từ là 434 từ. Đến 36 tháng số lượng từ ở trẻ đạt tới 486 từ, đây là “thời kỳ
phác cảm ngôn ngữ”. Do tốc độ phát triển nhanh về ngôn từ, ngữ pháp, giọng
điệu… trẻ dễ vấp phải những tật ngôn ngữ nói như: nói ngọng, nói lắp… nên rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý, thái độ của trẻ. Vì vậy nên người lớn mà đặc
biệt là cô giáo nếu không có biện pháp để kích thích phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thì sự phát triển ngôn ngữ của trẻ sẽ không đạt cao. Chính vì vậy mà tôi mạnh
dạn chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng
trường Mầm non Nga Trung - Nga Sơn” để nghiên cứu trong năm học này.
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” (Lê Nin). Nhờ có
ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau hành động vì những
mục đích chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội.
Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại
được, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của
người lớn. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở
thành một thành viên của xã hội loài người. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu
để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người
lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ
tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách của trẻ.
Trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật, nhờ
đồ vật này mà trẻ khám phá ra các thuộc tính, nắm được những chức năng và
phương thức sử dụng đồ vật “theo kiểu người lớn” có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển tâm lý của trẻ. Trong quá trình giao tiếp với người lớn, những tiền đề đầu
tiên của ngôn ngữ xuất hiện và trẻ bắt đầu hiểu được lời nói của người lớn và
phát âm được những từ đầu tiên. Trẻ tiếp xúc với thế giới bên ngoài một cách
độc lập và tự do hơn, thay đổi cả hình thức giao tiếp với người lớn. Thế giới đồ
vật đã trở thành đối tượng nhận thức của trẻ, nhu cầu nhận thức tò mò, ham hiểu
biết được phát triển hết sức mạnh mẽ. Hứng thú hoạt động với đồ vật ngày một
tăng lên, kích thích trẻ hướng đến người lớn để nhờ giúp đỡ. Từ đó nảy sinh nhu
cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ, đây là thời kỳ chuyển từ tiền phát triển ngôn ngữ
sang phát triển ngôn ngữ và là thời kỳ phát triển ngôn ngữ nhanh nhất. Trẻ học
nói nhanh, vốn từ tăng nhanh, trẻ nắm được ngôn ngữ của mẹ đẻ. Trẻ đã biết bắt
chước người lớn những âm thanh chưa chuẩn. Nhiều chức năng ngôn ngữ như
thông báo, khuyến khích, xin phép… được trẻ tập và sử dụng chính xác, hay đặt
câu hỏi với người lớn. Một điều quan trọng phải chú ý luyện và rèn phát âm
đúng, chuẩn các phụ âm đầu, phụ âm cuối, nguyên âm và các dấu thanh để giúp
trẻ nói chuẩn ngay từ khi trẻ biết nói.
Nói tóm lại, việc rèn luyện cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi phát âm, phát triển
vốn từ, nghe hiểu lời nói, nhắc lại các âm, các tiếng và các câu. Biết sử dụng
ngôn ngữ giao tiếp. Đó là nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết của cô giáo Mầm
3
non nói chung và bản thân tôi nói riêng. Đây chính là mục đích của tôi khi
nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng chung
Trường Mầm non Nga Trung, có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình năng
động, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, được tiếp thu chuyên đề giáo dục
Mầm non. Trên thực tế giáo dục lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, trường
Mầm non có nhiều đầu tư về nâng cao phương pháp, biện pháp và thay đổi hình
thức. Về cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động nhà trường đầu tư mua sắm
tương đối đầy đủ. Tỷ lệ trẻ huy động ra lớp cao, trẻ nhà trẻ ra lớp đạt 43%. Vì
vậy rất thuận lợi trong lĩnh vực giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2. Thực trạng đối với giáo viên
Nhà trường phân công tôi trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ ở độ tuổi 24-36
tháng, có ít nhiều kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, với kinh nghiệm làm mẹ đã giúp tôi
thuận lợi trong công việc hơn. Bản thân tôi cũng nhận được sự động viên giúp
đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, sự ủng hộ của gia đình,
phụ huynh, đặc biệt là tình cảm yêu quý của các bé dành cho tôi. Các hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực hiện rất đều đặn và thường xuyên. Thông qua
các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học như đọc thơ, kể chuyện, nhận biết
tập nói… Lĩnh vực giáo dục phát triển ngôn ngữ được nâng lên đáng kể. Nhưng
bên cạnh đó vẫn còn hạn chế như tôi chưa có nhiều thời gian siêu tầm nguyên
vật liệu và làm đồ dùng đồ chơi tự tạo phong phú để thu hút trẻ vào hoạt động
tích cực.
3. Thực trạng đối với trẻ
Nga Trung là xã đồng màu điều kiện kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn.
Nhiều phụ huynh đi làm ăn xa, làm công ty. Phụ huynh chưa có thời gian nói
chuyện nhiều với con. Vì thế nó ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình phát triển
ngôn ngữ ở trẻ. Trong các hoạt động học tôi thấy trẻ còn nhút nhát, chưa tự tin
trong giao tiếp, một số trẻ chưa qua nhóm bé 18-24 tháng, nên chưa quen với
môi trường có nhiều người, tâm lý trẻ có cảm giác bỡ ngỡ. Đặc điểm của trẻ ở
độ tuổi này hay bắt chước, trẻ dễ nhớ nhưng lại chóng quên. Trẻ được tiếp xúc
với các cô ở trường, với cha mẹ và mọi người xung quanh khi ở nhà, xong một
4
số người khi dạy trẻ chưa chú ý đến phát triển ngôn ngữ chuẩn cho trẻ. Do vậy
việc phát triển ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế.
4. Kết quả của thực trạng
Từ thực trạng trên tôi đã khảo sát đầu năm học: (tháng 9 năm 2014)
Số
trẻ
28
Nội dung khảo sát
Khả năng nghe hiểu lời
nói
Nghe, nhắc lại các âm,
các tiếng và các câu.
Khả năng sử dụng ngôn
ngữ giao tiếp.
Làm quen với sách.
Số cháu đạt
Tốt
%
Khá
%
TB
%
5
18
8
28
12
43
3
11
4
14
5
18
12
43
7
25
4
14
6
22
10
36
8
28
4
14
6
22
10
36
8
28
Nhìn vào bảng thực trạng, chúng ta thấy được kết quả khảo sát qua các
hoạt động trong lớp là rất thấp. Vì thế tôi rất băn khoăn trăn trở làm thế nào để
giáo dục phát triển ngôn ngữ ở trẻ đạt kết quả tốt. Tôi mạnh dạn đưa ra những
biện pháp để tổ chức hoạt động ngôn ngữ cho trẻ cụ thể như sau:
III. CÁC BIỆN PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
1. Nâng cao năng lực, trình độ sư phạm.
Trẻ sinh ra không phải tự nhiên mà nói được, muốn sử dụng ngôn ngữ , trẻ
phải được trãi qua một quá trình rèn luyện rất phức tạp và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố.Trong đó quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ là yếu tố rất quan trọng. Ở
trường Mầm non cô giáo là người “khơi nguồn” vốn ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy,
tôi đã không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ. Thông qua
việc nắm chắc các phương pháp dạy các hoạt động nói chung và hoạt động
“Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ” nói riêng. Bản thân tôi luôn tham khảo học hỏi
thêm nhiều tài liệu như “Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên
Mầm non”,“Chương trình giáo dục Mầm non mới”của Bộ giáo dục Mầm non
ban hành. “Qua sách báo trên mạng intenet” kinh nghiệm của các đồng nghiệp
qua các giờ dạy mẫu, qua các lớp chuyên đề do nhà trường và Phòng giáo dục tổ
5
chức hàng năm. Từ đó tôi đã rút được kinh nghiệm và vận dụng một cách phù
hợp, sáng tạo ở lứa tuổi mình đang dạy. Khi tổ chức các hoạt động học cho trẻ
tôi phải nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, xem trẻ có khả năng như thế nào, loại
đề tài nào. Từ đó đưa ra các hình thức tổ chức sao cho phù hợp và có thể thu hút
trẻ tập trung chú ý. Đồng thời tôi chuyển bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi phong phú
hấp dẫn để trẻ tham gia hoạt động tích cực hơn. Từ đó kích thích sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ tốt hơn.
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ định.
2.1. Thông qua các hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ.
* Thông qua hoạt động kể chuyện.
Kể chuyện cho trẻ nghe có tác dụng làm giàu vốn từ, bồi dưỡng năng lực
cảm thụ tác phẩm nghệ thuật và diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học. Khi kể chuyện
cho trẻ nghe để khích thích trẻ phát triển ngôn ngữ thì tôi chuyển bị đồ dùng
minh họa (bộ tranh chuyện, sa bàn, tranh chữ to..) giọng kể phải diễn cảm, có
kết hợp động tác của cô.
Ví dụ: Kể chuyện “Quả thị”
Cô kể chuyện theo tranh xong cô hỏi:
Cô vừa kể câu chuyệ gì? (Thưa cô, chuyện Quả thị)
Trong chuyện có những con gì? (Thưa cô, con vịt, con mèo). Nếu trẻ
không trả lời được thì tôi đưa tranh ra chỉ vào con vị, con mèo để trẻ nói “con
6
vịt”, “con mèo”. Với những câu hỏi này tôi thường goi 3-4 cháu trả lời để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Tương tự các câu hỏi khác cũng như vậy.
Qua đàm thoai tôi thấy hầu như các cháu đã trả lời được những câu hỏi
trên. Nhưng vẫn còn cháu Phương, cháu Đạt dù các cháu biết đó là con vịt, con
mèo nhưng không trả lời. Vì thế tôi đã kích thích trẻ bằng cách dúng sa bàn
giảng nội dung và đàm thoại. Tôi dùng dây thép kéo con vịt đi lại, còn con mèo
thì chân cử động được nó cào cào vào cây thị, đồng thời tôi hỏi các cháu;
Con gì đang đi đây?
Con gì đang cào cào vào cây thị nào?.
Khi đó trẻ rất thích và 2 cháu đã trả lời rõ ràng. Đó là con Vịt, con mèo..
Bên cạnh đó, để làm giàu vốn từ cho trẻ, tôi tìm trong câu chuyện có
những từ khó, từ láy từ hay ... để cung cấp thêm từ mới. (Truyện “Quả thị” có
các từ “lạch bạch’, ‘im lìm”, “áo xanh”, “áo vàng”)
- Để kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, khi đọc chuyện tranh chữ to tôi
ngừng một vài chổ để trẻ tham gia .
Ví dụ: Tôi đang đọc và chỉ vào từng chữ trong câu chuyện “Quả thị”
“Có một quả thị áo xanh, đang ngủ im lìm trên cành . Bạn vịt…….”thì tôi
ngừng lại trẻ có thể nhớ và nói: “Bạn vịt lạch bạch đến gọi”
Như thế giúp trẻ khắc sâu được nọi dung câu chuyện và cũng giúp trẻ phát
triển khả năng nghe hiểu lời nói, phát triển ngôn ngữ.
*Thông qua hoạt động kể chuyện theo tranh.
Tôi sưu tầm tranh để cho trẻ kể chuyện sáng tạo, trẻ xem tranh nhằm mục
đích rèn luyện khả năng quan sát. Kể chuyện sáng tạo thông qua các bức tranh
hoặc hình vẽ là hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ rất tốt. Để kể được chuyện
trẻ phải có sự luyện tập. Ở độ tuổi này cô giáo kể trước trẻ kể theo.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát bức tranh vẽ “Ông mặt trời, con gà trống”
Cô tập cho trẻ kể chuyện sáng tạo như sau;
“Khi ông mặt trời thức dạy, con gà trống có cái mào đỏ, lông vàng óng
mượt vươn cổ gáy ò ó o o để gọi em bé thức dạy. Em bé rất xinh và ngoan. Ai
cũng yêu em bé”
* Thông qua hoạt động dạy trẻ đọc thơ.
Qua bài thơ “ Cây bắp cải ” cô muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp vòng quanh ”
7
Cô có thể cho trẻ quan sát vật thật. cho trẻ được xem , được sờ, ... các lá bắp cải
sắp vòng quanh như thế nào? Cô vừa giải thích vừa chỉ cho trẻ xem và cho trẻ
cùng làm động tác mô phỏng các lá cải được xếp vòng quanh với nhau tạo thành
cây bắp cải xanh. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi :
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì ? (Cây bắp cải)
+ Cây bắp cải được tác giả miêu tả đẹp như thế nào ? (Xanh man mát, ..)
+ Lá bắp cải đựơc tác giả miêu tả như thế nào ? (Sắp vòng quanh)
Như vậy thơ, truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của
trẻ mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân vật
trong bài thơ, câu truyện. Khi trẻ đã biết kể lại truyện cùng với cô điều đó chứng
tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện,
lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể hiên sự
tương ứng với nội dung câu truyện đó.
2.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập có chủ
định khác.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết tập nói.
Trong khi dạy trẻ nhận biết tập nói không nhất thiết cứ phải sử dụng tranh
hoặc vật thật hoặc cho trẻ dạo chơi thăm quan mà tùy vào từng nội dung của đề
tài để tôi chọn giáo cụ trực quan cho phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy nhận biết “Quả cam” tôi đã suy nghĩ nêu câu hỏi và chọn
giáo cụ trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn.
Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các
giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ sẽ chán chóng quên. Vì vậy
tôi đã quyết định phải dạy bằng vật thật “Quả cam thật” sau đó mới cho trẻ
quan sát tranh. Bởi vì khi trẻ được học bằng quả cam thật trẻ sẽ được sử dụng
các giác quan của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác... giờ học sinh động
gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng và tích cực trả lời các
câu hỏi của cô, giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
Ví dụ: Khi dạy trẻ nhận biết: “Con gà trống” tôi lại lựa chọn phương
pháp cho trẻ đi dạo chơi thăm quan trước (cho cháu đi thăm chuồng gà thật) rồi
mới dạy cháu bằng tranh. Bởi vì nếu dạy bằng vật thật “Con gà trống” thì tôi sẽ
không giới thiệu được tỉ mỉ những chi tiết của con vật.Tôi đưa ra các câu hỏi:
8
Cô có tranh con gì?(Thưa cô, con gà), nhưng một số cháu nói “con hà”,
tôi goi cháu nói ngọng trả lời câu hỏi: Cô có bức tranh vẽ gì nào?(con hà), tôi
nhắc lại “con gà” và cho cháu nhắc lại. sau đó cho cả lớp nói ‘con gà”1-2 lần.
Con gà có nhũng gì nào? (trẻ không nói được tôi chỉ vào tùng bộ phận và
hỏi). Đây là gì? Như vậy trẻ sẽ dễ trả lời và trẻ nói nhiều hơn.
Trong quá trình dạy trẻ tập nói tôi còn nhận thấy sự hiểu biết của trẻ còn
rất hạn chế vì thế khi giáo viên đặt câu hỏi mang tính tổng quát, nhiều khi trẻ sẽ
không trả lời được ý của câu cô hỏi. Vì vậy ngay sau khi đặt câu hỏi tổng quát
cho trẻ suy nghĩ tôi lại gợi ý cho trẻ tiếp bằng những câu hỏi phụ mang tích chất
gợi ý để trẻ có thể trả lời được dễ dàng câu hỏi của cô.
Ví dụ: Khi dạy trẻ nhận biết về “Hoa hồng, hoa cúc” khi cho trẻ so sánh
2 loại hoa này nếu tôi hỏi: Hai loại hoa này khác nhau và giống nhau ở điểm
nào? thì trẻ sẽ khó trả lời nên tôi sẽ dùng những câu hỏi phụ để hỏi cháu: “Hoa
hồng và hoa cúc đều có mùi gì?”. “Hoa hồng màu gì?” “Hoa cúc màu gì?”
khi dùng các câu hỏi như thế này trẻ sẽ so sánh và trả lời dễ dàng hơn.
(Hình ảnh: Hoạt động nhận biết tập nói : Hoa hồng – Hoa Cúc)
Qua đó có thể thấy rằng, việc sử dụng đồ dùng trực quan, cách đặt câu hỏi
cho trẻ trong mỗi giờ học là rất quan trọng. Bởi vì khi sử dụng đồ dùng phù hợp
trẻ có hứng thú, câu hỏi phù hợp trẻ sẽ trả lời tích cực, giờ học sẽ rất sôi nổi, thu
hút lôi cuốn trẻ, cháu tập trung học tập tốt hơn. Từ đó giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách chính xác hơn.
9
* Thông qua hoạt động nhận biết phân biệt.
Ví dụ: Khi trẻ nhận biết phân biệt màu đỏ- màu vàng.
Cô chỉ vào hình khối hỏi trẻ;
+ “Đây là gì?- Đây là hình khối.”
+ “Đây là hình khối mầu gì? – Màu đỏ.”
+” Đây là màu gì? – Màu vàng”
+ Con đang xếp gì đấy? – Con xếp ngôi nhà.”
+ “Con xép như thế nào? - Con xếp chồng lên”
Qua câu hỏi của cô giúp trẻ hiểu được lời nói và hình thành được ngô ngữ
tích cực từ đó giúp trẻ phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ.
* Thông qua hoạt động âm nhạc.
Các tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều với nhiều đồ vật (Trống, lắc,
phách tre, và nhiều chất liệu) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với
các loại hoạt động (vận động) theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được
như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp
bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp
trẻ yêu âm nhạc .
Qua những giờ âm nhạc học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng
ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những
hình ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ : Hát và vận động bài “Con voi”
Trẻ biết sử dụng động tác minh hoạ đơn giản như :
Trông đằng xa kia có cái con chi to nghê: Trẻ dùng một ngón tay vẫy vẫy
Sao trông giống như xe hơi: Hai tay tạo hình chữ nhật ở trước ngực.
Lăn lăn bánh xe đi chơi: Hai tay quay vong tròn
à thì ra con voi: Dùng tay chỉ kết hợp với vẫy nhẹ
Vậy mà… đuôi trên đầu: Dùng tay phải đặt giữa đỉnh đầu vẫy nhẹ.
* Thông qua hoạt động vận động.
Thông qua hoạt động vận động giúp cho trẻ phát triển khỏe mạnh, từ đó trẻ
mạnh dạn tự tin hơn. Trẻ nhớ tên bài tập, trả lời các câu hỏi của cô như vậy cung
cấp thêm vốn từ và trẻ phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
Ví dụ; Khi dạy trẻ “Ném bóng về phía trước bằng một tay”
Cô cầm quả bóng và hỏi trẻ:
10
+ Cô có gì đây?(Quả bóng ạ)
+ Quả bóng màu gì?(Quả bóng màu đỏ)
Cô giới thiệu tên bài tập và thực hiện mẫu sau đó hỏi trẻ:
+ Cô thực hiện bài tập gì?(Ném bóng bằng một tay)
Tôi cho cả lớp trả lời tên bài tập, nếu trẻ chưa trả lời đúng thì tôi nhắc lại
cho trẻ nói theo. Sau lần cá nhân tập, nhóm tập tôi đều hỏi trẻ vừa tập bài tập
gì?. Như vậy giúp trẻ nhứ tên bài tập và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động khác trong ngày.
Trò chuyện với trẻ hàng ngày khi đón trẻ, giờ chơi, cho trẻ ăn, cho trẻ ngủ
tôi thường xuyên giao tiếp với trẻ và tạo điều kiện cho trẻ nói nhiều. Trong quá
trình trò chuyện với trẻ thì câu hỏi đóng vai trò rất quan trọng. Sử dụng câu hỏi
với trẻ nhằm gây hứng thú và sự chú ý của trẻ đến sự vật hiện tượng cần cho trẻ
tìm hiểu, khám phá khơi gợi tính tò mò ở trẻ. Nhằm giúp trẻ hiểu được nghĩa
của từng loại câu hỏi để tìm ra câu trả lời chính xác. Khi đặt câu hỏi cho trẻ cần
phải chuẩn bị trước, đưa ra những câu hỏi chính xác và dễ hiểu đối với trẻ.
* Thông qua giờ đón, trả trẻ.
Để kích thích trẻ trả lời các câu hỏi tôi thường chú ý phát hiện những cái
mới lạ của trẻ, hay phụ huynh đưa trẻ đến lớp để trò chuyện với trẻ.
Ví dụ: Tôi thấy cháu Bảo Ngọc có đôi dép mới, tôi hỏi cháu:
Hôm nay con có gì mới kể cho cô nghe nào? (Thưa cô con có đôi dép mới)
Đôi dép này màu gì? Trẻ nói: (màu vàng) tôi sủa lại (thưa cô, mầu vàng)
Đôi dép dùng để làm gì? Trẻ nói: (Đi vào chân), Tôi sửa lại (thưa cô, để đi
vào chân cho sạch)
Ai mua dép này cho con? (Thưa cô, mẹ con mua)
Tôi tranh thủ mọi lúc, mọi nơi như giờ đón, trả trẻ để trò chuyện với trẻ,
đặc biệt chú ý những trẻ yếu về ngôn ngữ. Khi trò chuyện với trẻ phải dựa vào
kinh nghiệm có sẵn của cô và sự hiểu biết của trẻ để sử dụng câu hỏi cho phù
hợp và khuyến khích trẻ được nói. Khi tiến hành trò chuyện với trẻ phải tạo điều
kiện và bầu không khí tự do, thoải mái, nói chuyện tự nhiên, cô thật sự thu hút
hấp dẫn trẻ thông qua giọng nói, nét mặt, cử chỉ, hành động.
Đối với trẻ nhà trẻ, trẻ mới đến trường còn lạ cô, lạ bạn nên hay sợ sệt,
hoảng sợ nên tôi luôn phải âu yếm, vuốt ve để biểu hiện cảm xúc yêu thương,
gần gũi, khi trò chuyện với trẻ tôi thường bế và nựng trẻ.
11
Ví dụ: “Hôm nay ai đưa con tới trường?”, trẻ thường chỉ trả lời “Bố”
hoặc “Mẹ” tôi phải sửa ngay cách nói “Bố con ạ” hoặc “Mẹ con ạ”.
Hay: Cô hỏi: “Trường con tên gì?, Cô giáo con là ai?”,… Khi chơi với trẻ
tôi gọi tên trẻ, tên bạn để trẻ nhận biết được tên các bạn trong lớp.
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạo chơi thăm quan.
Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi, vốn từ của trẻ còn rất ít, nhiều khi trẻ muốn
nói ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt
nên cháu thường ê..a hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ
để diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại
với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cô lắng nghe bổ
sung và tập nói cho trẻ. Ngoài ra tôi còn khéo kéo linh hoạt lồng ghép tích hợp
các chuyên đề vào trong các hoạt động.
(Hình ảnh: Cô và trẻ quan sát cây nhãn trong hoạt động dạo chơi, thăm quan)
12
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tôi hỏi trẻ: Con có biết vì
sao “lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xống đất”? Tôi sẽ giải thích cho trẻ
hiểu vì lá vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra còn lá xanh thì chưa
già nên chưa rụng. Đồng thời tôi còn giải thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống
đất nếu không được con người quét dọn, nhiều lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi
trường, bẩn, sân trường sẽ không đẹp, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, cô sẽ
hướng dẫn tổ chức cho các cháu nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác.
Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi trẻ để tập
trung nói cho trẻ nghe khi trẻ chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay, xe đạp. Tôi lại
gần gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay, xe đạp mà các cháu
đã học, thông qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và
đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn.
* Như vậy: Thông qua cho trẻ dạo chơi tham quan Tôi đã không những
cung cấp cho trẻ những từ ngữ được quan sát mà còn cung cấp cho trẻ biết được
các từ mới trong quá trình quan sát. Đồng thời còn lồng ghép giáo dục bảo vệ
môi trường thông qua dạo chơi tham quan.
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua chơi hoạt động góc.
Ở lứa tuổi 24 - 36 tháng, giữa phát triển lời nói và trò chơi có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Trong quá trình hoàn thiện trò chơi thì lời nói cũng được
hoàn thiện. Cô thường sử dụng biện pháp câu hỏi và trẻ sẽ phản ứng lại theo
mức độ, khả năng của trẻ. Từ đó phát triển ngôn ngũ của trẻ tích cực hơn.
+Thông qua hoạt động với đồ vật
Ví dụ: Xâu vòng hoa tặng bạn
13
(Hình ảnh bé đang xâu vòng ỏ góc hoạt động với đồ vật)
+ “Hoa này con để làm gì? - Con xâu vòng”
+ “Con xâu như thế nào? – Con xâu dây chui qua lỗ”
+ “Xâu xong con làm gì? – Con buộc hai đầu dây lại”
Nếu trẻ chưa nói được tên các đồ chơi cô cần nhắc lại cho trẻ vài ba lần và
sau đó tổ chức trò chơi cho trẻ ghi nhớ biểu tượng hơn và sau đó trẻ thể hiện
bằng ngôn ngữ tương ứng.
+Thông qua góc “Thao tác vai”
Trẻ được thao tác với đồ vật và còn được giao lưu với đồ vật.
Ví dụ: Trẻ chơi trò chơi “Bế em” trẻ bế búp bê, trẻ biết ru em ngủ, cho
em ăn… khi ru ngủ trẻ vỗ về “Em ngủ nào”, ru em à ơi. Khi cho trẻ ăn trẻ nói
“Chị cho em ăn nhé”, “Em ăn ngoan nào”.
Trẻ chơi trò chơi “Bán hàng” trẻ được giao lưu với bạn.
Trẻ có thể hỏi : “Bác mua gì ạ?” - “Tôi mua rau bắp cải”.
“Rau bắp cải của bác đây ạ”
Hình
14
(Hình ảnh: Bé chơi thao tác vai)
Muốn trẻ chơi thành thạo, biết giao tiếp với bạn, tôi luôn phải hòa nhập,
đóng vai chơi cùng với trẻ để hướng dẫn trẻ chơi, gợi ý để trẻ trả lời, tạo điều
kiện cho trẻ giao tiếp với bạn chơi, tạo ra những tình huống chơi để trẻ xử lý.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen với sách.
Gía sách cũng được tôi bố trí, sắp xếp ở vị trí và không gian phù hợp của
lớp. Gía sách được trang bị nhiều các loại sách, tranh, chuyện tranh có nội dung
phù hợp với nội dung chủ đề. Các sách tranh phải phù hộ với trẻ, là các tranh
chuyện mầm non, tranh có ghép chữ to, hình ảnh sinh động hấp dẫn trẻ, có tác
động đến tri tưởng tượng của trẻ. Trong các giờ chơi, trẻ sẽ chủ động xem tranh,
xem sách và gọi tên các nhân vật, sự vật hành động gần gủi trong tranh. Bên
cạnh đó thì cô giáo luôn là người hướng dẫn, kích thích trẻ xem sách, gọi tên
nhân vật bằng các câu hỏi gợi mở để trẻ tìm hiểu.Ví dụ:
Tranh này vẽ gì? (Trẻ trả lời)
Còn đây là gì? (Trẻ trả lời)
…………………
15
(Hình ảnh: Cô và trẻ xem tranh ở góc “nghệ thuật”)
Thông qua làm quen với sách cô hướng dẫn cho trẻ cách cầm sách, đọc
sách, cô đọc sách cho trẻ nghe, từ đó rèn luyện sư tập trung lắng nghe người lớn
đọc sách. Như vậy thông qua hoạt động làm quen với sách, truyện tranh trẻ sẽ có
tư duy tưởng tượng về những câu chuyện sáng tạo qua các hình ảnh trong sách
tranh. Từ đó kích thích sự phát triển ngôn ngữ của trẻ tốt hơn.
* Trò chuyện qua giờ ăn.
Ví dụ: Đến giờ ăn. Tôi dạy trẻ mời cô giáo mời cơm. “Con mời cô mời
cơm ạ! Tôi mời các bạn cùng ăn cơm!” Dạy trẻ biết cám ơn khi được người
khác giúp đỡ hay biết xin lỗi khi mắc khuyết điểm.
Khi tiến hành đàm thoại cần cung cấp cho trẻ những hiểu biết về chủ đề
sắp đàm thoại. Mục đích của đàm thoại là củng cố và hệ thống hóa những biểu
tượng và kiến thức mà trẻ đã thu lượm được
Ví dụ: Khi cho trẻ ăn cam tráng miệng tôi đưa ra các câu hỏi:
+ Con đang ăn quả gì? (Thưa cô quả cam)
+ Ăn cam con thấy thế nào? (Thưa cô, con thấy ngọt)
+ Khi ăn cam phải làm gì? (Thưa cô, bóc vỏ, bỏ hạt ạ)
Vì tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành động, nói đến quả cam trẻ cần
được nhìn, sờ, ngửi hoặc nếm quả cam thì những ấn tượng, biểu tượng của quả
cam sẽ khắc sâu và gắn liền với trẻ.
Thông qua trò chuyện và đàm thoại không chỉ giúp trẻ phát triển khả năng
nghe hiểu lời nói, sử dụng câu đúng ngữ pháp mà còn góp thêm phần rèn luyện
cho trẻ thói quen mạnh dạn trong giao tiếp.
* Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ ngủ.
Khi đến giờ ngủ tôi nói: “Đến giờ ngủ rồi, các con nằm vào sạp nào”. Trẻ
hiểu lời nói của cô và lên sạp nằm. “Cô hỏi: Đến giờ ngủ con như thế nào?” Trẻ
nói; “con không nói chuyện, nằm thẳng, hai tay để lên bụng.” Hàng ngày tôi hỏi
trẻ như vậy và trẻ chưa trả lời được tôi nhắc trẻ, sau một thời gian trẻ đã trả lời
16
câu hỏi của cô giáo rõ ràng. Không chỉ trò chuyện với trẻ như vậy, mà khi trẻ
nằm ổn định tôi còn mở đĩa bài hát ru với âm lượng nhỏ đủ nghe, giúp trẻ cảm
thấy ấm áp và dễ ngủ hơn.
Thông qua trò chuyện và lời hát ru ở giờ ngủ trẻ được cung cấp thêm vốn
từ, rèn luyện kỹ năng nghe. Từ đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
Kết quả: Qua trò chuyện và đàm thoại với trẻ qua các hoạt động khác
trong ngày thì trẻ ở lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Một số cháu
từ việc đến lớp không chào cô, chào bố mẹ nay đã chủ động chào. Một số cháu
mới đầu nói câu 1-2 từ nay đã nói câu 4-5 từ (cháu chào cô ạ)
4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Để giúp cháu nói được tốt hơn tôi còn dùng các hình thức trò chuyện với
trẻ trong tất cả các hoạt động từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cô có thể trò
chuyện với trẻ như: “Hôm nay ai đưa con đi học”? “Nhà con có những ai?”...
Qua đó cháu sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản
nói được câu nhiều từ hơn.
Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi
một trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: “Bạn Ngọc đâu?” Cô
sẽ trả lời: “Hôm nay bạn Ngọc ốm không đi học được”. Hay khi trẻ chơi, cô
quan sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhường nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ
chơi của bạn..v.v.. hay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải
thích cho trẻ hiểu đánh bạn là sai, là không tốt con hãy xin lỗi bạn đi..v.v..
Trong các hoạt động như đốn trẻ, trả trẻ…tôi thường đọc cho trẻ nghe
những bài ca dao, đồng dao. Vì ca dao, đồng dao rất vần, dễ đọc, dễ nhớ nên khi
cô giáo đọc trẻ rất hứng thú nghe và nhiều cháu đọc theo đã đọc thuộc. Như vậy
thông qua việc đọc ca dao, đồng dao cho trẻ nghe đã phát triẻnn kỹ năng nghe
của trẻ, cung cấp vốn từ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Như vậy: Thông qua tạo cơ hội cho trẻ nói ở mọi lúc, mọi nơi sẽ giúp cho
trẻ trẻ sẽ có những hành vi, những thái độ đúng để từ đó trẻ sẽ nói được những
từ ngữ biểu lộ những tình cảm tốt đẹp trẻ biết nói lời hay làm việc tốt.
5. Phối hợp với phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng.
Gia đình là môi trường rất quan trọng để hình thành và phát triển nhân
cách trẻ, và đó cũng là môi trường có điều kiện và cơ hội cho việc phát triển
17
ngôn ngữ cho trẻ. Vì thế tôi cũng thường xuyên phối hợp với phụ huynh trực
tiếp và qua góc tuyên truyền để cùng với cô giáo dục trẻ cho phù hợp.
Mỗi giai đoạn tôi có thể trao đổi với phụ huynh về tình hình phát triển
ngôn ngữ của trẻ thông qua bảng theo dõi.
Trao đổi với phụ huynh về một số kiến thức giúp trẻ học nói ở nhà như:
Mẹ tạo cơ hội cho con được nói, bằng cách mẹ hỏi con: “Hôm nay cô cho con
ăn gì?” “Cơm với cá hoặc con ăn cơm với thịt gà,”… để từ đó phụ huynh cùng
với cô giáo rèn kuyện cho trẻ ở nhà cũng như ở trường.
Khi ở gia đình bố mẹ có mua sắm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ nhưng chơi
như thế nào? thì phương pháp thực sự còn chưa quan tâm, chơi cùng trẻ và
hướng dẫn trẻ chơi. Do đó sự trao đổi giữa cô và phụ huynh là rất cần thiết.
Ví dụ: Mua búp bê chỉ đưa cho trẻ thì trẻ chỉ chơi một lúc là chán. Nhưng
ở lớp trẻ chơi với búp bê thì cô phải hướng dẫn trẻ bế em, cho em ăn, lau miệng,
uống nước rồi cho em ngủ, thông qua lời nói kết hợp với động tác, qua đó trẻ bắt
chước những thao tác đó với những lời nói mang tính biểu cảm như “Chị yêu
em”, “Chị cho em ăn nhé”, “Em của chị ngoan lắm”…
Một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp chưa được cha mẹ quan tâm, cần chú ý
sửa sai cho trẻ, có khi còn cho nghe lại thấy hay hay nên tạo thành thói quen
không tốt cho trẻ. Do đó phải có sự trao đổi, phối hợp giữa cô với phụ huynh là
rất cần thiết.
Ví dụ: Cháu Phương là cháu nói rất ngọng, hàng ngày tôi gần gũi hỏi
“Cháu con mẹ gì?” - “Con mẹ Sùy” tôi bảo Phương phải nói là “Con mẹ Thùy”
trẻ nói“quả khế” là “quả hế” tôi cho trẻ nói lại là “quả khế” . Tôi đã luyện cho
trẻ phát âm nhiều lần và trao đổi với phụ huynh về nhà cũng sửa lỗi sai cho trẻ.
Qua sự phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, trẻ đã dần dần tiến bộ và không còn
nói ngọng, nói lắp nữa.
IV. KIỂM NGHIỆM.
Sau một năm học, tôi thực hiện áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, thông qua trò chuyện và đàm thoại, thông qua hoạt
động có chủ đích, thông qua hoạt động vui chơi và phối hợp với các bậc phụ
huynh giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đã đạt được kết quả thể hiện qua bảng khảo
sát cuối năm như sau:
18
Số
trẻ
Số cháu đạt
Nội dung khảo sát
%
Tốt
%
Kh
á
%
TB
%
11
39
11
39
5
18
1
4
Nghe, nhắc lại các âm,
các tiếng và các câu.
10
36
11
39
6
21
1
4
Khả năng sử dụng
ngôn ngữ giao tiếp.
11
39
10
36
6
21
1
4
Làm quen với sách
9
32
9
32
8
28
2
8
Khả năng nghe hiểu lời
nói.
28
Chưa
đạt
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN
Vậy muốn có được kết quả trong việc phát triển vốn từ cho trẻ qua quá trình
thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và
phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn tiếng việt.
- Để phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách toàn diện thì cô giáo cần phải thực
hiện ba nhiệm vụ :
+ Làm giầu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, đàm thoại,
hướng dẫn trẻ vui chơi, kể chuyện và đọc chuyện cho trẻ nghe.
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
- Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ ba nội dung trên để góp phần tạo
điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giới xung quanh
- Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi
học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành thời gian gần
19
gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể
giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên nắm
vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch phát triển vốn từ cho trẻ
- Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ .
- Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ , luôn
tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
- Vận động phụ huynh đóng góp các loại hoa, cây cảnh, vật nuôi để xây
dựng góc thiên nhiên phong phú, thông quan các tiết học, cô kết hợp với nội
dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp.
Tóm lại, trong tất cả các hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường cô phải tích
cực trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được cô phải
nhắc nhở trẻ, có như vậy vốn từ của trẻ mới tăng, trẻ mới hiểu được nghĩa của
từ, biết sử dụng từ trong tình huống giao tiếp.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT.
1. Đối với nhà trường:
Nhà trường tham mưu với cấp trên xây dựng thêm phòng học cho nhóm trẻ. Nên
tổ chức nhiều hơn các hoạt động dạy mẫu để giáo viên được dự giờ, tham khảo,
học hỏi và trao đổi trực tiếp với nhau để có nhiều sáng tạo trong tổ chức các hoạt
động học,… nhằm phát triển ngôn ngữ tốt nhất cho trẻ.
2. Đối với phòng giáo dục:
Nên mở các lớp bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ. Cung
cấp các tài liệu, tập san, những kinh nghiệm hay cho giáo viên học tập.
Trên đây là “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng
trường Mầm non Nga Trung - Nga Sơn” . Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
không thể không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự quan tâm, góp ý
của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn chỉnh
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ nói chung và phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2015
20
CAM KẾT KHÔNG COPY
Tác giả
Nguyễn Thị Hoài
Ngô Thị Hải
21