Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng vệ chính đáng trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN HẢI

MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN VÒ
PHßNG VÖ CHÝNH §¸NG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN HẢI

MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN Vµ THùC TIÔN VÒ
PHßNG VÖ CHÝNH §¸NG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi trên cơ sở kế thừa, trích dẫn trung thực của các công
trình khoa học khác. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Do vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Văn Hải


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH
ĐÁNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................... 12
1.1.

KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA PHÒNG VỆ
CHÍNH ĐÁNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................. 12


1.1.1.

Khái niệm phòng vệ chính đáng ........................................................ 12

1.1.2.

Bản chất pháp lý của phòng vệ chính đáng trong luật hình sự
Việt Nam ........................................................................................... 18

1.2.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................................. 20

1.2.1.

Phương diện chính trị - xã hội, quốc tế ............................................. 20

1.2.2.

Phương diện pháp lý .......................................................................... 22

1.2.3.

Phương diện lý luận và thực tiễn ....................................................... 23

1.3.

LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ

PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY ............................................................. 23

1.3.1.

Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1985 ......... 23

1.3.2.

Giai đoạn từ sau năm 1985 đến nay .................................................. 28


Chƣơng 2: QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999, SỬA ĐỔI NĂM 2009
VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI ........ 32
2.1.

QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999, SỬA ĐỔI NĂM 2009 .... 32

2.1.1.

Những điều kiện của phòng vệ chính đáng ....................................... 33

2.1.2.

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ........................................... 39

2.1.3.


Phân biệt phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết ......................... 42

2.2.

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG ........................ 45

2.2.1.

Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga ................................... 46

2.2.2.

Quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản............................................ 48

2.2.3.

Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ......... 50

2.2.4.

Quy định của Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển .................... 51

Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ
CHÍNH ĐÁNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NHỮNG
KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .............................................................. 54
3.1.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH
ĐÁNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ ............................................. 54


3.1.1.

Tình hình xét xử các tội phạm liên quan đến vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng.......................................................................... 54

3.1.2.

Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định về
phòng vệ chính đáng.......................................................................... 57

3.1.3.

Các nguyên nhân cơ bản.................................................................... 65

3.2.

KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG
VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 ......... 66

3.2.1.

Một số điểm mới của quy định về phòng vệ chính đáng trong
Bộ luật hình sự năm 2015.................................................................. 66


3.2.2.

Nội dung tiếp tục hoàn thiện quy định về phòng vệ chính đáng
trong Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................................ 68


3.3.

CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ
PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 ......................................................................................... 72

3.3.1.

Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật và
việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân .......... 72

3.3.2.

Xây dựng Khung Quy chế hoạt động của các tổ chức xã hội
tham gia kiểm soát, phòng và chống tội phạm .................................. 75

3.3.3.

Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vũ khí, giải quyết
các mâu thuẫn phát sinh trong xã hội, an ninh trật tự ....................... 78

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:


Bộ luật hình sự

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN :

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1. Thống kê thụ lý, xét xử tội danh quy định tại Điều 96
và Điều 106 BLHS của Tòa án nhân dân các cấp trong
giai đoạn 05 năm (2012 - 2016)

55

Bảng 3.2. Phân tích số bị cáo đã bị Tòa án xét xử tội danh quy
định tại Điều 96 và Điều 106 BLHS trong giai đoạn 05
năm (2012 - 2016)

55


Bảng 3.3. Phân tích nhân thân bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội
danh quy định tại Điều 96 và Điều 106 BLHS trong
giai đoạn 05 năm (2012 - 2016)

56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mỗi con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
do và các lợi ích hợp pháp là các giá trị cần được Nhà nước bảo vệ, xã hội và
mỗi cá nhân khác trong xã hội tôn trọng, không xâm phạm. Tại Lời Nói đầu
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của Liên Hợp quốc năm 1948
đã khẳng định:
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và
không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ
sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới... Điều cốt yếu là
quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người
không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm
chống lại sự độc tài và áp bức... Các quốc gia thành viên đã cam
kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và
tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người [31, tr.25].
Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người như Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận chính là nhiệm vụ
chung của cộng đồng quốc tế, các dân tộc và mỗi quốc gia, mỗi Nhà nước,
mỗi Chính phủ đến các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ, nhất là trước sự
xâm hại của tội phạm.
Đáng chú ý, trong số các quyền con người, có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể cũng được Hiến chương và các văn kiện quốc tế đặc biệt quan tâm

bảo vệ. Cũng trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên Hợp
quốc năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do
và an ninh cá nhân” [31, tr.48]. Trên cơ sở này, Hiến pháp và hệ thống văn
bản pháp luật Việt Nam luôn coi trọng và bảo hộ về tính mạng, danh dự, sức

1


khỏe và nhân phẩm của con người, đồng thời yêu cầu mọi hành vi, mọi quy
tắc xử sự trong xã hội đều phải tuân thủ điều này. Trong hệ thống văn bản
pháp luật, BLHS Việt Nam chính là căn cứ pháp lý quan trọng nhất không chỉ
để bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của cơ quan, tổ chức và của
công dân, mà còn góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử lý những
người xâm phạm đến các lợi ích đã nêu trên, qua đó, đúng như GS.TSKH. Lê
Văn Cảm đã viết:
Nhằm mục đích làm cho các quy định của pháp luật quốc gia
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống
nhất và triệt để không chỉ bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án, mà cả những người có chức vụ của các cơ quan này trong thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [10, tr.228].
Điều 2 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi năm 2009 và BLHS
năm 2015 đều đã quy định cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với cá nhân
như sau: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu
TNHS”. Đồng thời, BLHS năm 2015 đã nhấn mạnh thêm việc bảo vệ quyền
con người, cùng với việc bảo vệ các lợi ích khác, chính là nhiệm vụ của Bộ
luật này. Như vậy, chỉ một người phạm một tội do BLHS quy định mới phải
chịu TNHS, đồng thời phải đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện của
TNHS [11, tr.635]. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có một số hành vi về hình
thức có dấu hiệu của tội phạm song về nội dung lại chứa đựng một số tình tiết
làm loại trừ tính chất tội phạm của nó, nên hành vi ấy không bị coi là tội

phạm và người thực hiện hành vi đó không phải chịu TNHS (hay được loại
trừ TNHS). Cho nên, nguyên tắc pháp chế XHCN trong luật hình sự Việt
Nam đòi hỏi phải làm sáng tỏ ranh giới của các trường hợp đó mà một trong
đó là chế định phòng vệ chính đáng.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, bên cạnh những ưu điểm

2


trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, xác định rõ ràng, dứt khoát
tội phạm và không phải là tội phạm, trường hợp phải chịu TNHS hay được
loại trừ TNHS, thì còn có một số trường hợp điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán còn chưa nhận thức đầy đủ, thống nhất các quy định của BLHS về
việc xác định các ranh giới đó. Thực trạng đó đã dẫn đến hoặc là bỏ lọt tội
phạm hoặc là làm oan người không phạm tội, qua đó còn làm giảm hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như việc tôn trọng và bảo vệ các
quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và pháp luật đã quy định.
Đặc biệt, cũng do nhận thức chưa đầy đủ, thống nhất giữa hành vi phạm
tội và không phải là tội phạm, phòng vệ chính đáng là hành vi có ích cho xã hội
hay sợ phải chịu TNHS nên còn có những người dân hoặc có hành vi phạm tội
hoặc chưa chủ động, tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích chính đáng của công dân và của cá
nhân. Hoặc thậm chí, do chưa xác định rõ vấn đề này còn dẫn đến xác định
không đúng TNHS, xâm phạm đến quyền phòng vệ chính đáng hoặc ngược
lại. Hơn nữa, so với BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, thì BLHS năm 2015
đã đặt việc bảo vệ lợi ích của chính đáng của mình, của người khác lên trước
lợi ích của Nhà nước, tổ chức cho phù hợp với thực tiễn xét xử và yêu cầu đề
cao quyền tự do và an ninh cá nhân con người, bảo vệ quyền con người theo
quy định của Hiến pháp năm 2013, tuy nhiên, lại không ghi nhận các trường
hợp đương nhiên phòng vệ chính đáng và chưa ban hành văn bản hướng dẫn

áp dụng thống nhất cụm từ “cần thiết” mà vẫn sử dụng hướng dẫn trong Nghị
quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS”
về cụm từ “tương xứng” trong quy định về phòng vệ chính đáng của BLHS
năm 1985, vì thế rất cần thiết phải có văn bản hướng dẫn chính thức về vấn đề
này. Do đó, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng vệ

3


chính đáng trong luật hình sự Việt Nam để trên cơ sở đó đưa ra những kiến
giải lập pháp hoàn thiện đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn chặn, hạn
chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng góp phần thực hiện tốt định hướng trong chính sách hình sự
mà Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề cập - “đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền cơ bản của công dân” [6, tr.3]. Ngoài ra, đây chính là lý do
học viên lựa chọn đề tài đã nêu làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu quy định về phòng vệ chính đáng là một vấn đề hẹp, được
quy định tại một điều trong Phần chung (Điều 15 BLHS năm 1999 và nay là
Điều 22 BLHS năm 2015) và hai điều trong BLHS Việt Nam đó là - Tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 96, nay là Điều 126) và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội (Điều 106, nay là Điều 136). Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của
nó mới gián tiếp được lồng ghép ở các mức độ khác nhau trong các sách báo
pháp lý hình sự.

* Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài
[1] Ashworth, Principles of Criminal Law (Các nguyên tắc của luật
hình sự), Nxb. Oxford University Press, Inc., 1995. Cuốn sách đề cập đến các
vấn đề trong luật hình sự bao gồm: 1) Nguyên tắc và chính sách liên quan
đến sự hình thành của pháp luật hình sự; 2) Việc áp dụng nguyên tắc của các
cơ quan lập pháp, Tòa án, cơ quan cải cách pháp luật; 3) Phòng vệ chính
đáng và tình thế cấp thiết là hai trường hợp được loại trừ TNHS [83, p.12].

4


[2] David Brown, David Farrier, Neal and David Weisborot, Materials
and commentary on Criminal Law and Process in New South Wales (Một vài
bình luận trong Luật hình sự và tố tụng hình sự của phía Nam xứ Wales),
xuất bản bởi The Federation Press, 1996. Cuốn sách đề cập đến các vấn đề
pháp lý hình sự và tố tụng hình sự bao gồm: 1) Một số vấn đề chung; 2) Bắt
giữ tội phạm; 3) Quá trình tố tụng; 4) Các yếu tố cấu thành tội phạm; 5) Tội
giết người và ngộ sát; 6) Phòng vệ; 7) Tội tấn công và tội tấn công tình dục;
8) Tội xâm phạm trật tự công cộng; 9) Các thuốc cấm; 10) Mua lại không
trung thực; 11) TNHS: Âm mưu, nỗ lực và đồng phạm; 12) Tuyên án và hình
phạt [85]. Trong Chương 4 đã nêu về điều kiện, nội dung, chủ thể và các yếu
tố tác động đến sự phòng vệ, trách nhiệm trong phòng vệ.
[3] AP Simester and GR Sulliran, Criminal Law: Theory and doctrine
(Luật hình sự: Học thuyết và lý luận), xuất bản bởi GB: Hart publishing,
2003. Cuốn sách đề cập đến các vấn đề như: 1) Luật hình sự, khái niệm và
phạm vi; 2) Những nguyên tắc của luật và Hiệp ước Châu Âu; 3) Sự giải
thích luật và những căn cứ; 4) Những hạn chế và những nghĩa vụ pháp lý (ẩn
dụ); 5) Người sự tham dự thứ 2; 6) Sự thay mặt và nghĩa vụ hợp tác; 7) Sự vi
phạm không có chủ đích; 8) Tội cố ý giết người; 9) Xâm phạm tình dục; 10)
Tội trộm cắp; 11) Tội lừa đảo, lừa gạt; 12) Sự phòng vệ: Khái quát chung;

13) Sự phòng hộ theo điều kiện tinh thần; 14) Sự sai phạm về chứng cứ, lỗi;
15) Phòng vệ trong trường hợp bị cưỡng ép; 16) Sự kiểm soát chấp nhận
được; 17) Sự phòng vệ sai lỗi: Một vài nhận xét [82, p.8].
[4] Jerome Hall, Criminal Law (Luật hình sự), Nxb. Bobbs Merrill
Company, 1947, tái bản năm 2005. Cuốn sách đề cập đến cơ sở lý luận nền
tảng như: 1) Các nguyên tắc của luật hình sự; 2) Tội phạm, TNHS và hình
phạt; 3) Các lý thuyết vận dụng; 4) Phòng vệ chính đáng và tình trạng khẩn
cấp với tư cách là hai trường hợp loại trừ TNHS [86, p.22].

5


[5] Michael Bogdan editor, Swedish Law in the New Millennium (Luật
hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới), Norstedts Juridik, Printed in Sweden
by Elanders Gotab, Stockholm, 2000. Trong đó có chương sách đã đề cập
đến các trường hợp miễn TNHS, nhưng các trường hợp đó lại mang bản chất
của một số trường hợp loại trừ TNHS theo luật hình sự Việt Nam như: 1)
Phòng vệ chính đáng; 2) Tình thế cấp thiết; 3) Thi hành mệnh lệnh của cấp
trên [71, tr.300-301]; v.v...
Các công trình trên đã đề cập đến phòng vệ chính đáng trong nghiên
cứu về luật hình sự, về tội phạm, coi phòng vệ chính đáng với tư cách là
một trường hợp được Nhà nước động viên, khuyến khích thực hiện và được
coi là trường hợp loại trừ TNHS (hay không phải là tội phạm), mặc dù vẫn
còn có một quan điểm coi đó là trường hợp miễn TNHS (nghiên cứu ở
Vương quốc Thụy Điển).
* Những công trình nghiên cứu trong nước
Còn ở Việt Nam, trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu gián tiếp
về vấn đề này như luận án tiến sĩ luật học, luận văn thạc sĩ luật học hoặc sách
chuyên khảo, giáo trình như:
[1] Đặng Văn Doãn, Về vấn đề phòng vệ chính đáng, Nxb. Pháp lý, Hà

Nội, 1987;
[2] Giang Sơn, Các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp
luật, Hà Nội, 2001;
[3] Hoàng Thị Hoài Nam, Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2006;
[4] Nguyễn Sơn, Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;

6


[5] ThS. Đinh Văn Quế, Những trường hợp loại trừ TNHS trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa
học về loại trừ TNHS, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2009;
[6] PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương IX - Các trường hợp loại trừ
TNHS, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003 và 2007;
[7] TS. Trịnh Tiến Việt, Mục 4 Chương 2 - Những trường hợp không
phải là tội phạm, Trong sách: Tội phạm và TNHS, Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 2013; v.v...
Nội dung của các công trình này đã phân tích các vấn đề khái niệm,
nội dung, bản chất pháp lý và điều kiện áp dụng của những trường hợp loại
trừ TNHS, trong đó có quy định về phòng vệ chính đáng (phân tích điều
kiện, nội dung và vấn đề vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng) và theo quy
định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Tuy nhiên, xét riêng dưới góc
độ khoa học luật hình sự, đáng chú ý là Chương thứ năm - Những trường hợp
(tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi trong “Sách chuyên khảo

Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung)”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005 và một số bài viết của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm về vấn đề này. Theo đó, tác giả đề cập, phân tích tên
gọi, ý nghĩa, nội dung, bản chất pháp lý và từ đó xây dựng mô hình lý luận
của Chương riêng trong BLHS về chế định này, trong đó có trường hợp
phòng vệ chính đáng; v.v... [11, tr.553].
Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết có giá trị liên quan trực tiếp đến
vấn đề này nhưng chỉ đề cập ở mức độ chung (theo thời gian) như sau:
[1] TS. Hoàng Văn Hùng, Một vài suy nghĩ về phòng vệ chính đáng,
Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 2/1996;
[2] PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Về chế định loại trừ TNHS, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 4/1999;

7


[3] TS. Giang Sơn, Quy định về phòng vệ chính đáng theo BLHS năm
1999, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2001;
[4] ThS. Đinh Văn Quế, Một số vấn đề về phòng vệ chính đáng, vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng và những vướng mắc trong thực tiễn xét
xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2009;
[5] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Vấn đề thi hành công vụ và chế định
phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 2/2012;
[6] TS. Trịnh Tiến Việt, Những trường hợp loại trừ TNHS trong BLHS
năm 2015 và một số kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
15(7)/2016; v.v...
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về
phòng vệ chính đáng và gián tiếp là TNHS do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng - đối với hai tội cụ thể là tội giết người và tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng và cũng đã có những đóng góp trong việc tiếp tục hoàn
thiện BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009.
Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ
thống thì vấn đề về phòng vệ chính đáng vẫn chưa được quan tâm một cách
đúng mức, đặc biệt là đánh giá, phân tích thực tiễn xét xử và lý giải vấn đề
này trong BLHS năm 2015. Do đó, trong luận văn này, học viên muốn tiếp
tục phát triển và kế thừa những công trình khoa học, làm sâu sắc hơn vấn đề
lý luận về phòng vệ chính đáng và thực tiễn để từ đó truy cứu TNHS đúng
người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội, đồng thời tiếp tục hoàn thiện BLHS năm 2015 về chế định này trong
thời gian chờ có hiệu lực thi hành (Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày
29/6/2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của 04 Luật, Bộ luật).

8


3. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định
của BLHS Việt Nam và BLHS một số nước trên thế giới về phòng vệ chính
đáng, cũng như thực tiễn áp dụng quy định về phòng vệ chính đáng ở nước
ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện dưới mã ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã
số 60 38 01 04.
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng vệ
chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, phân tích quy định trong BLHS
(những điều kiện áp dụng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và phân
biệt với tình thế cấp thiết), cũng như nghiên cứu, so sánh quy định về phòng
vệ chính đáng trong BLHS một số nước trên thế giới.
Luận văn phân tích tình hình một số tội phạm liên quan đến yếu tố

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và thực tiễn áp dụng quy định về
phòng vệ chính đáng với mốc thời gian trong giai đoạn 05 năm (2012 - 2016)
và trên địa bàn cả nước.
5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như:
Chương 1, Học viên sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử
để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và lịch sử.
Chương 2, Học viên sử dụng phương pháp phân tích, so sánh luật học
để làm sáng tỏ các vấn đề quy định của BLHS Việt Nam và các nước về nội
dung nghiên cứu.

9


Chương 3, Học viên sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, điều
tra xã hội học, điều tra án điển hình để làm sáng tỏ các vấn đề thực tiễn áp
dụng và đề xuất kiến nghị, giải pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Như vậy, các kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sau đây:
* Về phương diện lý luận
Đây là công trình nghiên cứu đồng bộ đầu tiên từ sau khi ban hành
BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 và BLHS năm 2015 đến nay đề cập một
cách tương đối có hệ thống và riêng biệt về chế định phòng vệ chính đáng ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với các đóng góp về mặt khoa học đã
nêu trong phần phạm vi nghiên cứu ở trên.
* Về phương diện thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc đánh giá, xác định đúng đắn thực tiễn áp

dụng quy định về phòng vệ chính đáng, ranh giới giữa tội phạm với không
phải là tội phạm (phải chịu TNHS hay được loại trừ TNHS) trên địa bàn cả
nước giai đoạn 05 năm (2011 - 2016), từ đó, đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn
thiện quy định này trong BLHS nước ta ở khía cạnh lập pháp, cũng như đề
xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về lý luận
cũng như thực tiễn cho các nhà hình sự học, cán bộ thực tiễn, các sinh viên,
học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như
tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền làm
chủ của nhân dân, về ý thức chủ động, quyết liệt đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở nước ta hiện nay.

10


7. Kết cấu của Luận văn
Kết cấu ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về phòng vệ chính đáng trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định về phòng vệ chính đáng trong BLHS Việt Nam năm
1999, sửa đổi năm 2009 và BLHS một số nước trên thế giới.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng quy định về phòng vệ chính đáng và
những kiến nghị, giải pháp.

11


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA PHÒNG VỆ CHÍNH
ĐÁNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng
Thực tiễn cho thấy, đứng trước một hành vi nguy hiểm cho xã hội đang
gây ra các thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của một người khác, để bảo vệ
các lợi ích chung của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức đòi hỏi phải có biện
pháp ngăn chặn, xử lý và người thực hiện hành vi đó phải được động viên,
khuyến khích và bảo đảm cho họ không phải chịu sự xử lý, trừng phạt của
pháp luật. Do đó, phòng vệ chính đáng quy định và đặt ra trong luật xuất phát
từ ý nghĩa đó.
Phòng vệ chính đáng là một trường hợp loại trừ TNHS. Phòng vệ chính
đáng cũng được coi là một căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại [22, tr.46]
và được coi là hành vi có ích, được Nhà nước và xã hội khuyến khích nhằm
chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Do đó, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cán bộ có trách nhiệm trong
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và mỗi người dân tự bảo vệ quyền,
tự do và lợi ích chính đáng của mình và của người khác, cũng như của xã hội,
pháp luật hình sự bất kỳ quốc gia nào (trong đó có Việt Nam) cũng quy định
về vấn đề phòng vệ chính đáng. Bởi vì, một mặt để khuyến khích, động viên
công dân hãy làm việc có ích, có lợi, điều tốt cho xã hội, nhưng mặt khác, đó
cũng chính là góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực hiện quyền
dân chủ của công dân, mở rộng hơn nữa là quyền con người.
Phòng vệ chính đáng đã được nghiên cứu và đề cập từ rất sớm trong

12


khoa học luật hình sự Việt Nam và ngay cả khi BLHS năm 1985 được ban

hành (BLHS đầu tiên) đều đã ghi nhận về mặt pháp lý hình sự chế định phòng
vệ chính đáng và được hoàn thiện hơn trong những lần pháp điển hóa luật
hình sự sau đó (BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 và BLHS năm 2015).
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự cho thấy, trước khi ban hành
BLHS đầu tiên (năm 1985), để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm và bảo đảm trật tự xã hội chung, Nhà nước đã ban hành nhiều Luật, Sắc
luật, văn bản tổng kết như: Luật số 103/SL ngày 20/5/1957 [55, tr.23]; Bản
tổng kết số 452/SL ngày 10/6/1970 [55, tr.24-25] của TANDTC cũng đề cập
đến quyền tự do thân thể, trong đó cho phép người thi hành công vụ dùng vũ
khí và việc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Về sau,
TANDTC đã tổng kết thực tiễn xét xử và ban hành Chỉ thị số 07/CT ngày
22/12/1983 về việc xét xử các hành xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành
công vụ. Đến khi pháp điển hóa lần thứ nhất, khoản 1 Điều 13 BLHS năm
1985 đã ghi nhận khái niệm phòng vệ chính đáng trên cơ sở các văn bản đã
nêu như sau: “Phòng vệ chính đáng là hành vi vì bảo vệ lợi ích của nhà nước,
của tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác mà chống trả
lại một cách tương xứng người có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”. Sau đó, tại Phần II Nghị quyết
số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC “Về hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985” đã đề cập đến những vấn
đề về phòng vệ chính đáng (nội dung, điều kiện, vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng…) [18, tr.101].
Như vậy, khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1985 và sau đó khoản 1 Điều 15
BLHS năm 1999 chỉ ghi nhận phòng vệ chính đáng như là một định nghĩa
pháp lý mà chưa chỉ rõ với những điều kiện gì (mà khoa học luật hình sự thì

13



đều thống nhất) thì một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng trên những
cơ sở chung (mặc dù nội dung của điều luật cũng đã thể hiện). Về sau, trong
BLHS năm 1999, xét về mặt ngôn ngữ thì trong khái niệm phòng vệ chính
đáng của BLHS năm 1999 đã thay đổi một số cụm từ so với khái niệm phòng
vệ chính đáng trong BLHS năm 1985, như thay cụm từ “của tập thể” bằng
“của tổ chức” hay “bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác”
bằng cụm từ “bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác”. Đặc biệt, các nhà làm luật nước ta trong BLHS năm 1999 đã thay thế
cụm từ “tương xứng” bằng cụm từ “cần thiết”. Bởi vì, nếu sử dụng cụm từ
“tương xứng” dễ dẫn đến cách hiểu không đúng, máy móc là: “Người phạm
tội sử dụng công cụ, phương tiện, phương pháp gì, thì người phòng vệ cũng
phải sử dụng công cụ, phương tiện, phương pháp tương tự, hoặc có nghĩa là
thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người có hành vi xâm hại phải ngang
bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại mà người xâm hại gây ra hoặc đe dọa gây ra...
cũng như chưa xuất phát từ cái nhìn của người trong cuộc...” [34, tr.36].
Như vậy, xét về mặt hình thức, phòng vệ chính đáng đã có đủ các dấu
hiệu của tội phạm nhưng các nhà làm luật lại không coi phòng vệ chính đáng
là tội phạm. Thiệt hại do người phòng vệ gây ra đối với người có hành vi xâm
hại trong phòng vệ chính đáng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của tập thể (của cơ quan, tổ chức)… phù hợp với lợi ích yêu cầu chung của
toàn xã hội. Do đó, phòng vệ chính đáng không những không bị coi là tội
phạm mà còn được Nhà nước và xã hội động viên, khuyến khích thực hiện vì
đây là hành vi có ích, có lợi cho xã hội.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam và nhiều nước trên thế giới về
cơ bản đều thống nhất nội hàm khái niệm này, đồng thời đều căn cứ vào nội
dung của Điều luật về phòng vệ chính đáng để định nghĩa, giải thích, chỉ khác
nhau dùng thuật ngữ “tương xứng” hay “cần thiết” trong nội hàm khái niệm,

14



tên gọi và hệ thống (danh mục) các trường hợp nào (trong đó có phòng vệ
chính đáng). Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm nêu như sau:
Trước hết, GS.TSKH. Lê Văn Cảm sử dụng cụm từ “tương xứng” giữa
hành vi phòng vệ và hành vi tấn công và định nghĩa khoa học:
Phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả của người phòng
vệ để gây thiệt hại cho người đang có hành vi xâm hại đến các lợi
ích hợp pháp của mình hoặc của những người khác, cũng như của
xã hội hay của Nhà nước, nếu hành vi chống trả tương xứng với
hành vi xâm hại [9, tr.546].
PGS.TS. Kiều Đình Thụ quan niệm ngắn gọn:
Phòng vệ chính đáng thực chất là sự chống trả một cách hợp
pháp đối với người thực hiện hành vi xâm hại những lợi ích được pháp
luật bảo vệ bằng cách gây thiệt hại cho chính người đó [62, tr.133];
TS. Trịnh Tiến Việt sau khi phân tích các điều kiện của phòng vệ chính
đáng đã nêu định nghĩa như sau:
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm hại các lợi ích nói trên, nên được
coi là trường hợp không phải là tội phạm và người đó không phải
chịu TNHS [71, tr.149].
Ngoài ra, TS. Nguyễn Đức Mai định nghĩa nhưng nhấn mạnh ý nghĩa
của chế định phòng vệ chính đáng đã viết:
Phòng vệ chính đáng là một chế định được quy định trong
BLHS hiện hành nhằm khuyến khích mọi công dân tích cực tham
gia đấu tranh chống lại những hành vi xâm hại các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ; ngăn chặn hoặc hạn chế các hậu quả nguy

15



hiểm cho xã hội mà sự xâm hại này có thể gây ra, nhằm bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác [37, tr.63]; v.v...
Học viên cho rằng, trên cơ sở các quan điểm khoa học đã nêu, đồng
thời từ ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý, để loại trừ tâm lý thờ ơ, bàng
quang trước những hành vi phạm tội, ngại phiền toái, liên lụy, tâm lý tiêu
cực, thụ động làm giảm đáng kể hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm, cũng như phải thể hiện sự đánh giá của người ngoài cuộc và người
trong cuộc, do đó, cần đưa bổ sung cả hai cụm từ “tương xứng” và “cần
thiết” trong nội hàm khái niệm về phòng vệ chính đáng mới đầy đủ, cũng
như không để sự đánh giá tùy tiện, vô căn cứ của các cơ quan và người áp
dụng pháp luật.
Bên cạnh đó, trong BLHS năm 2015 lại có thay đổi so với BLHS năm
1999, sửa đổi năm 2009 là đã đặt việc bảo vệ lợi ích của chính đáng của
mình, của người khác lên trước lợi ích của Nhà nước, tổ chức cho phù hợp
với thực tiễn xét xử và yêu cầu đề cao quyền tự do và an ninh cá nhân con
người [72, tr.135], bảo vệ quyền con người theo quy định của Hiến pháp năm
2013, cũng như đã xếp đây là trường hợp được loại trừ TNHS. Cho nên, khái
niệm cần phản ánh nội dung thay đổi thứ tự lợi ích cần bảo vệ như đã nêu cho
phù hợp và dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo học viên khái
niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau:
Phòng vệ chính đáng là hành vi hợp pháp của một người vì bảo vệ lợi
ích chính đáng của mình hoặc của người khác, của Nhà nước hay của cơ
quan, tổ chức mà chống trả lại một cách tương xứng và cần thiết người đang
có hành vi xâm phạm các lợi ích trên, nên hành vi đó không phải là tội phạm
và người phòng vệ chính đáng được loại trừ TNHS.
Từ khái niệm trên, căn cứ vào các văn bản có tính chất tổng kết xét xử


16


của TANDTC trước đây (đã nêu) như: Chỉ thị số 07/CT ngày 22/12/1983 về
việc xét xử các hành xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ, đặc
biệt là Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng một số quy định của BLHS năm
1985, trong đó tại Mục II Nghị quyết có đề cập đến chế định phòng vệ chính
đáng, có thể chỉ ra các đặc điểm chính của phòng vệ chính đáng bao gồm:
Thứ nhất, hành vi xâm hại các lợi ích cần bảo vệ (lợi ích chính đáng
của người phòng vệ, của người khác, của Nhà nước hay của cơ quan, tổ chức)
phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã
hội (trái pháp luật hình sự). Hành vi nguy hiểm cho xã hội đó phải đang gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích
(đã nêu) cần bảo vệ.
Thứ hai, phòng vệ chính đáng rõ ràng là cấp bách, cần thiết không chỉ
gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công mà còn tích cực chống lại sự xâm hại,
gây thiệt hại cho chính người xâm hại, bảo vệ các lợi ích của xã hội.
Thứ ba, mức độ của hành vi phòng vệ phải tương xứng, cần thiết với
hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng, quá mức giữa hành
vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đang xâm hại.
Thứ tư, phòng vệ chính đáng là quyền của mỗi công dân, công dân
không có nghĩa vụ phải chống trả, có chăng nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ đạo
đức. Quyền công dân ở đây thể hiện ở chỗ, khi thực hiện công dân không phải
xin phép ai, hỏi xin ai, thỉnh thị, cầu kiến cơ quan, tổ chức nào mà tự quyết
định. Việc chống trả hoàn toàn phù hợp với quy luật tự nhiên và xã hội. Nói
một cách khác, “sự phản ứng của Nhà nước sẽ không đem lại hiệu quả vì sự
xâm hại đang diễn ra mà Nhà nước thì không có mặt kịp thời. Do đó, Nhà
nước mới nhường quyền này lại cho cá nhân, là chủ thể đang trong trường

hợp cũng có ý chí phản ứng như vậy” [3, tr.287].

17


×