Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Trách nhiệm pháp lý của viên chức – qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 162 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG ĐỨC TRUNG

tr¸ch nhiÖm ph¸p lý cña viªn chøc qua thùc tiÔn thµnh phè hµ néi

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG ĐỨC TRUNG

tr¸ch nhiÖm ph¸p lý cña viªn chøc qua thùc tiÔn thµnh phè hµ néi
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Đức Trung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA

14

VIÊN CHỨC


1.1.

Khái niệm viên chức

14

1.2.

Phân biệt viên chức với cán bộ, công chức

18

1.3.

Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của viên chức

28

1.4.

Lịch sử hình thành, phát triển chế định trách nhiệm pháp lý

33

của viên chức
1.5.

Những nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý của viên chức


42

1.6.

Ý nghĩa của chế định trách nhiệm pháp lý của viên chức

46

1.7.

Các yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm pháp lý của viên chức

48

Chương 2:

51

THỰC TRẠNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA
VIÊN CHỨC QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

Thực trạng áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý của

51

viên chức
2.1.1.


Áp dụng trách nhiệm kỷ luật

51

2.1.2.

Áp dụng trách nhiệm vật chất

60

2.1.3.

Áp dụng trách nhiệm hành chính

66

2.1.4.

Áp dụng trách nhiệm hình sự

73

2.2.

Thực trạng áp dụng trách nhiệm pháp lý của viên chức ở

78

thành phố Hà Nội
2.3.


Những vấn đề đặt ra từ thực trạng áp dụng trách nhiệm pháp
lý của viên chức ở thành phố Hà Nội

86


Chương 3:

CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP

93

LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ CỦA VIÊN CHỨC

3.1.

Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm

93

pháp lý của viên chức
3.1.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của viên chức

93

3.1.2.


Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chế định trách nhiệm

97

pháp lý của viên chức ở thành phố Hà Nội
3.2.

Các giải pháp góp phần hoàn thiện áp dụng pháp luật về trách

116

nhiệm pháp lý của viên chức
KẾT LUẬN

119

DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO

121

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐVSNCL : Đơn vị sự nghiệp công lập
TNPL

: Trách nhiệm pháp lý


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta, yếu tố con người luôn được Đảng, Nhà nước xác định
là nhân tố quan trọng hàng đầu - mang tính quyết định và pháp luật là cơ sở
để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói chung và đội ngũ viên
chức nói riêng có năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật cao để
phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển nhanh chóng, sự toàn cầu hóa dẫn đến yêu cầu hội nhập là xu
hướng tất yếu của thời đại làm xuất hiện những cơ hội và thách thức đan xen.
Những yếu tố đó đã tác động không nhỏ đến các hoạt động của cán bộ, công
chức khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ và viên chức khi thực hiện nhiệm vụ,
công việc trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong những năm gần đây,
những biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu kém về trình độ nghề
nghiệp, năng lực công tác, sự phiền hà, sách nhiễu của một bộ phận viên chức
đã gây cản trở, khó khăn cho cá nhân, tổ chức. Những hành vi vi phạm pháp
luật của viên chức đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công việc, xâm
phạm lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, làm suy
giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước nói chung cũng như
đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) nói riêng hiện nay.
Trước thực trạng đó và xuất phát từ yêu cầu khách quan về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân,
nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của các ĐVSNCL; việc đẩy mạnh xã
hội hóa các hoạt động sự nghiệp, xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức

nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ nghiệp vụ cũng như năng lực
phục vụ nhân dân góp phần thực hiện cải cách hành chính nhà nước trong khu
vực dịch vụ công phù hợp, đồng bộ với xu hướng chuyển đổi từ nền hành

1


chính "cai trị - truyền thống" sang nền hành chính "phục vụ - hiện đại" và phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Trách nhiệm pháp lý
của viên chức - qua thực tiễn thành phố Hà Nội" có ý nghĩa quan trọng về
lý luận và thực tiễn, góp phần làm sâu sắc thêm những nội dung cơ bản trong
các quy định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý (TNPL) của viên chức ở
nước ta hiện nay và trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trách nhiệm pháp lý của viên chức được pháp luật quy định từ rất
sớm. Song vấn đề này chưa được đề cập nhiều trong sách báo pháp lý, các
công trình nghiên cứu như hội thảo, bài báo khoa học, đề tài. Một số công
trình tiêu biểu như: Trách nhiệm vật chất đối với công chức theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, của tác giả Trần Thị
Hiền, năm 2006; sách chuyên khảo: Trách nhiệm pháp lý - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm
2008, do Tiến sĩ Lê Văn Long làm chủ biên; các bài viết có giá trị đăng trên
các báo, tạp chí chuyên ngành đề cập đến nội dung TNPL như: Hoàn thiện
pháp luật về công vụ, công chức và trách nhiệm pháp lý, của PGS.TS Thái
Vĩnh Thắng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, năm 2010; Bàn về trách nhiệm
pháp lý của viên chức ở nước ta hiện nay, của ThS. Tạ Quang Ngọc trong kỷ
yếu hội thảo khoa học về viên chức, Khoa Hành chính - Nhà nước, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2011… Nghiên cứu một số công trình khoa học

nêu trên cho thấy có sự khác nhau trước và sau thời điểm năm 2010 - Luật
viên chức được ban hành. Trước năm 2010, các công trình nghiên cứu chưa
có sự phân biệt rõ ràng giữa cán bộ, công chức và viên chức. TNPL của cán
bộ, công chức và viên chức được nghiên cứu chung cho cả ba đối tượng, chưa
thấy được sự khác nhau về TNPL giữa cán bộ, công chức và viên chức trong

2


khi đó có sự khác nhau về nguồn gốc hình thành, chức trách nhiệm vụ được
giao giữa các đối tượng này. Hoặc cũng có công trình mới chỉ dừng lại nghiên
cứu một loại TNPL mà chưa nghiên cứu toàn diện hơn vấn đề TNPL. Sau thời
điểm năm 2010, Luật viên chức được ban hành, các công trình tập trung phân
biệt rõ viên chức với cán bộ, công chức làm cơ sở cho sự phân định TNPL
của viên chức với cán bộ, công chức. Tuy nhiên, hầu hết các công trình tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về TNPL của viên chức hơn việc
áp dụng TNPL của viên chức trong thực tiễn. Yêu cầu khách quan đặt ra là
trên cơ sở những thành quả nghiên cứu đã được công bố cần tiếp tục nghiên
cứu sâu hơn nữa những quy định của pháp luật về TNPL của viên chức gắn
với việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn. Qua đó, khắc phục những
hạn chế trong việc quy định và áp dụng các quy định này, góp phần hoàn
thiện hơn nữa TNPL của viên chức.
Mặc dù, mới đề cập TNPL của cán bộ, công chức hoặc viên chức ở
các góc độ khác nhau, song các công trình kể trên có giá trị quan trọng để tác
giả luận văn tham khảo, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về TNPL của viên
chức theo Luật Viên chức năm 2010 ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Tình hình nghiên cứu chung
Khái niệm công vụ và hệ thống chế độ công vụ được sử dụng khá sớm
trong thuật ngữ pháp lý thế giới. Các thuật ngữ này đều chỉ những người làm việc

trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức của nhà nước. Song đến nay, giữa các quốc
gia chưa có sự đồng nhất trong việc phân biệt giữa công chức làm việc trong các
cơ quan nhà nước với viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp như trường
học, bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ quan báo chí… Việc xử lý hành vi vi phạm,
truy cứu TNPL do hành vi trái pháp luật ở một số nước trên thế giới thường không
phân chia thành công chức hay viên chức, mà thường được phân thành công chức
làm việc trong cơ quan nhà nước (như công chức làm việc ở Văn phòng

3


Chính phủ, Bộ... hay công chức địa phương ở các bang, vùng, tỉnh, huyện...)
và công chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công (như công chức làm
việc ở trường học học, bệnh viện, các cơ quan phát thanh, truyền hình, báo chí...).
Tình hình nghiên cứu cụ thể
Bên cạnh những quan điểm chung nêu trên, mỗi tác giả, mỗi hệ thống
pháp luật của một quốc gia lại có những điểm đặc thù, riêng biệt khi đề cập
tới những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công (nhà nước lập ra)
và những hậu quả pháp lý bất lợi mà họ có khả năng gánh chịu khi có vi
phạm. Một số tác phẩm nghiên cứu cụ thể như:
Giáo sư luật công Gustave Peiser đã nghiên cứu về công chức, viên
chức và TNPL đối với nhóm đối tượng này trong tác phẩm Luật hành chính.
Đây là công trình nghiên cứu tổng thể các chế định pháp lý đối với các hình
thức, hoạt động (văn bản hành chính, tổ chức hành chính... và trách nhiệm tài
phán hành chính). Đặc biệt, tại phần II của công trình, tác giả tập trung nghiên
cứu về những hậu quả có thể gây tổn thất do hoạt động của chính quyền (trách
nhiệm). Ở đây, công trình không chỉ phân tích nội dung vấn đề TNPL của
công chức, viên chức đối với hoạt động của mình, mà tác giả còn đặt ra vấn
đề trách nhiệm của cơ quan công quyền với các hoạt động hành chính gây tổn
thất cho công chức, công chức có quyền yêu cầu đối với cơ quan khi gây tổn

thất về tinh thần, vật chất... và ngược lại, nhà nước cũng có quyền yêu cầu tòa
án có thẩm quyền xem xét trách nhiệm khi gây ra tổn thất mà nhà nước phải
gánh chịu trước người bị tổn thất [123, tr. 191].
Về trách nhiệm của công chức, công trình đặt ra vấn đề cần xem xét
có tính nguyên tắc từ rất lâu đó là: "Từ rất lâu, đã có nguyên tắc về người
công chức không chịu trách nhiệm đối với cơ quan hành chính... Người ta cho
rằng sự tồn tại của một chế độ kỷ luật là đủ rồi và sợ làm tê liệt tính sáng tạo
các viên chức" [123, tr. 197]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đặt ra những giả
thuyết về trách nhiệm không có lỗi; về xác định trách nhiệm; về chế độ mở

4


rộng trách nhiệm và những chế độ thay thế trách nhiệm đối với công chức,
viên chức nhà nước trong thi hành hành công vụ, nhiệm vụ của mình.
Cũng nghiên cứu về nội dung trên, công trình dịch của TS. Phạm Văn
Lợi và TS. Hoàng Thị Ngân - Tác phẩm Luật hành chính một số nước trên thế
giới không chỉ phân tích những quy định của pháp luật hành chính một số
nước trên thế giới, các quy định pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ giữa
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hành chính, mà còn phân tích, đánh
giá các quy định pháp luật về các loại TNPL trong hoạt động công vụ đối với
công chức, viên chức nhà nước. Pháp luật của một số quốc gia được tác giả
nghiên cứu như:
Cộng hòa Pháp là một trong các quốc gia có nền hành chính, nền công
vụ khá phát triển. Trong đó, công chức nhà nước là tất cả những người làm
việc cho Nhà nước với tư cách là một pháp nhân công quyền. Cũng như Nhật
Bản và một số quốc gia trên thế giới, hệ thống công chức của Pháp không có
sự phân chia thành công chức và viên chức. Tất cả công chức được chia thành
hai loại: loại thứ nhất là công chức dân sự của hệ thống hành chính nhà nước,
các công chức của cộng đồng địa phương và cơ quan công quyền (trong đó có

cả bác sĩ và giáo viên); loại thứ hai là công chức quân sự, người làm việc ở
Tòa án và Nghị viện [118, tr. 42].
Theo quy định của pháp luật về công vụ, công chức của Cộng hòa
Pháp, công chức nhà nước (bao gồm cả những công chức làm việc trong các
trường học, bệnh viện, doanh nghiệp công) phải chịu trách nhiệm về hành vi
trái pháp luật của mình. Thực tế, tùy theo lĩnh vực quản lý nhà nước, tính
chất, mức độ vi phạm của công chức mà công chức có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội hối lộ, lạm dụng chức vụ để trục lợi cá nhân, được quy
định chung thành hành vi "lạm dụng địa vị công vụ để mưu lợi" [118, tr. 53].
Bên cạnh trách nhiệm hình sự do hành vi trái pháp luật của mình gây
ra, công chức có thể bị truy cứu trách nhiệm vật chất nếu gây thiệt hại từ hành

5


vi phạm tội đó. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không phải mọi hành vi lạm dụng
địa vị công vụ để mưu lợi khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều phải chịu
trách nhiệm vật chất. Nên khi xem xét TNPL của viên chức, vấn đề có ý nghĩa
đặc biệt là trách nhiệm vật chất của họ đối với những tổn thất, thiệt hại vật
chất do mình gây ra. Thiệt hại này có thể được gây ra cho người thứ ba và do
cơ quan hành chính bồi thường. Nhưng cũng có những thiệt hại mà nguyên
nhân do cơ quan hành chính nhà nước thì đều làm phát sinh trách nhiệm bồi
hoàn của công chức, viên chức (hoặc nhân viên nhà nước). Chính vì vậy, vấn
đề trách nhiệm bồi hoàn trong trách nhiệm vật chất của công chức, viên chức
ở Pháp hiếm khi được áp dụng, trừ trường hợp công chức, viên chức, nhân
viên nhà nước phạm lỗi nghiêm trọng.
Trách nhiệm kỷ luật đối với công chức, viên chức, nhân viên nhà nước
được áp dụng phổ biến hơn; được quy định cụ thể để tránh sự tùy tiện của cơ
quan có thẩm quyền áp dụng. Đối tượng bị áp dụng kỷ luật được thông báo
trước về vụ việc, họ sẽ có thời gian để nghiên cứu vụ việc, chuẩn bị cho việc

giải trình. Công chức bị kỷ luật có thể tự bào chữa hoặc nhờ công đoàn, luật
sư trợ giúp, nếu không đồng ý với quyết định kỷ luật, họ có thể khởi kiện đến
tòa án. Việc kỷ luật giáo viên được tiến hành theo một trình tự riêng (do Tòa
án kỷ luật với thành phần là những người giáo viên xem xét. Quyết định kỷ
luật có thể bị khiếu nại lên Hội đồng tối cao về giáo dục quốc gia; sau đó,
được khiếu kiện lên Hội đồng nhà nước) [118, tr. 55].
Về các hình thức kỷ luật gồm có: hình thức tác động về tinh thần như
nhắc nhở, cảnh cáo; hình thức tác động tới sự thăng tiến như đình chỉ việc
nâng bậc, tạm đình chỉ công tác, chuyển vị trí công tác, tạm đình chỉ chức vụ,
hạ cấp. Hình thức buộc thôi việc được áp dụng không chỉ vi phạm quy định
thực hiện công vụ, nhiệm vụ mà còn được áp dụng đối với hành vi thiếu đạo
đức, lối sống, sinh hoạt. Chẳng hạn, một giáo viên thường xuyên say rượu mặc
dù trong thời gian nghỉ ngơi (ngoài thời gian giảng dạy tại trường), hành vi

6


say rượu đó được nhiều học sinh chứng kiến. Cơ quan có thẩm quyền đã áp
dụng hình thức buộc thôi việc đối với giáo viên này, mặc dù giáo viên này
vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quyết định kỷ luật đó được Hội đồng nhà nước
chấp nhận, coi là hợp pháp và ủng hộ quyết định này.
Hệ thống công vụ của Mỹ khá phức tạp và chi tiết so với các nước
phát triển trên thế giới. Sự khác biệt đó xuất phát từ quan niệm, đặc điểm,
phạm vi điều chỉnh của Luật hành chính Mỹ, cũng như việc phân chia các cơ
quan hành chính với ba nội dung [118, tr. 107]. Đó là: Các cơ quan nói chung,
quản lý công vụ dân sự, công chức [10, tr. 253-286].
Pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (bao gồm cả Luật liên bang và
Luật của các bang) không phân biệt công chức với viên chức mà thường sử dụng
các thuật ngữ công chức, nhân viên nhà nước hoặc viên chức nhà nước để chỉ
những công chức thực hiện công vụ trong các cơ quan công quyền hoặc tổ

chức công. Các tổ chức công được xếp theo lĩnh vực như y tế, giáo dục, dịch
vụ công... Các dịch vụ mang tính xã hội như dịch vụ giáo dục phổ thông, thư
viện, dịch vụ nghỉ ngơi, bảo trợ xã hội, cung cấp điện, nước, môi trường...
Nhìn chung, các công chức này được hình thành theo một quy trình,
thủ tục, điều kiện do pháp luật quy định. Do đó, bên cạnh việc quy định về
các quyền, nghĩa vụ của công chức, viên chức nhà nước; pháp luật của Mỹ
cũng quy định các TNPL do hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên nhà
nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ gây ra. Cụ thể là công chức,
nhân viên làm việc trong các tổ chức dịch vụ công sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự nếu thực hiện hành vi tội phạm và bị quyết định bởi tòa án. Đồng
thời, pháp luật cũng quy định về trách nhiệm hành chính đối với công chức
(bao gồm cả những nhân viên làm việc ở trường học, bệnh viện - gọi là nhân
viên trong lĩnh vực giáo dục và lĩnh vực y tế...) khi tiến hành hoạt động mà có
hành vi vi phạm pháp luật hành chính được thực hiện theo hai phương thức đó
là thông qua các mệnh lệnh có hiệu lực của tòa án và những quyết định phát
sinh hiệu lực trực tiếp mà không cần có sự phê chuẩn của tòa án [118, tr. 150].

7


Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi công vụ gây ra được
quy định trong trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với thiệt hại. Tuy nhiên,
theo nguyên tắc của hệ thống luật chung, công chức phải chịu trách nhiệm vật
chất về những hành động trái pháp luật của mình dựa trên căn cứ tương tự
như đối với cá nhân khác. Từ năm 1946, vấn đề trách nhiệm tài sản của ngân
sách nhà nước Liên bang về thiệt hại do công chức gây ra đã được điều chỉnh
trong Luật Liên bang về các yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại. Tuy
nhiên, đến những năm 60 của thế kỷ XX các quy định này đã bị thay đổi bởi
sự phản đối quyết liệt của các bang, nên trách nhiệm vật chất đối với công
chức nhà nước đã có thay đổi nhất định đối với việc buộc cơ quan và cá nhân

công chức, nhân viên nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do mình gây
ra cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác. Thực tế ở Mỹ, có vụ việc nhân
viên y tế để quên kéo trong bụng của bệnh nhân. Bệnh nhân đó đã khởi kiện
yêu cầu bồi thường những tổn hại về sức khỏe đối với bệnh viện có nhân viên
thực hiện việc phẫu thuật đối với bệnh nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp như
vậy thì thường các cơ quan này đều có sự chủ động để thỏa thuận với người bị
hại để tránh những thủ tục pháp lý tư pháp (qua phán quyết của tòa án), vì thủ
tục này rất tốn kém và có thể ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức.
Áp dụng TNPL của công chức, viên chức là một trong những biện
pháp hữu hiệu trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí của các nước
trên thế giới. Vì vậy, TNPL của công chức, viên chức nói chung thường được
nghiên cứu cùng với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. "Pháp luật
chống tham nhũng của một số nước trên thế giới" của tác giả Nguyễn Văn
Kim, Nguyễn Huy Hoàng đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về các hành vi
vi phạm pháp luật của công chức, viên chức nhà nước trong quá trình thực thi
chức trách, nhiệm vụ được giao. Theo đó, với các hành vi tham nhũng khác
nhau, tùy thuộc vào tính chất mức độ vi phạm, công chức, viên chức nhà nước
có thể bị truy cứu các TNPL tương thích với hành vi, tính chất mức độ nguy
hiểm và thiệt hại cho xã hội.

8


Hệ thống công vụ của Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được
hình thành từ năm 1949 và có những nét tương đồng với hệ thống công vụ
Việt Nam giai đoạn năm 1945, đó là: hệ thống công vụ thường gọi chung là
cán bộ, viên chức, nhân viên nhà nước. Vì vậy, không có sự phân biệt giữa
cán bộ, công chức với viên chức; việc truy cứu TNPL cũng được quy định
chung trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Về trách nhiệm kỷ luật, pháp luật Trung Quốc quy định công chức,

viên chức nhà nước sẽ bị kỷ luật khi có các hành vi như: phát ngôn làm tổn
hại đến danh dự của Chính phủ, biểu tình, thị uy, bãi công, lạm dụng chức
quyền, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đạo đức xã hội, thực hiện các hành vi vi
phạm kỷ luật khác... Đồng thời, pháp luật cũng quy định tùy theo tính chất,
mức độ, nội dung vi phạm thì có thể bị xử lý về hình sự hoặc xử lý hành chính.
Trách nhiệm hành chính khi bị áp dụng với một trong các hình thức như:
Cảnh cáo, hạ cấp, cách chức, đuổi khỏi cơ quan. Nếu bị cách chức thì đồng thời
bị hạ cấp bậc và tiền lương chức vụ. Thời gian bị xử lý hành chính công chức,
viên chức không được đề bạt chức vụ và nâng cấp bậc, những trường hợp bị xử lý
hành chính (trừ hình thức cảnh cáo) đều không được nâng lương theo thang bậc.
Năm 1997, Trung Quốc ban hành Luật Giám sát hành chính, Luật này
quy định và bảo đảm việc giám sát hành chính được nghiêm minh, kịp thời
trong khu vực hành chính, nhất là trong điều tra, xử lý các hành vi vi phạm kỷ
luật hành chính của công chức, viên chức mà cơ quan nhà nước bổ nhiệm,
nhận giải quyết các khiếu nại về quyết định xử lý kỷ luật hành chính của các
cơ quan hành chính chủ quản mà công chức, viên chức nhà nước bị xử lý kỷ
luật thấy chưa thỏa đáng [60, tr. 121].
Về trách nhiệm vật chất, công chức, viên chức nhà nước phải bồi thường
mọi phí tổn về tài sản do hành vi của mình gây ra. Đặc biệt, trong những năm
gần đây Trung Quốc đẩy mạnh đấu tranh, chống tham nhũng, nhiều vụ án lớn về
tham nhũng bị xử lý, công chức, viên chức trong các vụ án này không chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, bị kỷ luật mà còn có trách nhiệm phải bồi thường, trả

9


lại những tài sản do tham nhũng hoặc hành vi lạm dụng chức quyền trong thực
thi công vụ, gây mất mát, suy giảm về tài sản của nhà nước, của tổ chức, cá nhân.
Ở Nhật Bản, công chức được phân làm hai loại là công chức đặc biệt
(Special Civil Servant) và công chức bình thường (Regular Civil Servant).

Công chức đặc biệt gồm Thủ tướng, các bộ trưởng, các ủy viên nhân sự và
kiểm toán nhà nước, Tổng giám đốc văn phòng lập pháp của Nội các, Thư ký
quan hệ công chúng của Nội các... (bao gồm 18 loại, được quy định tại 18
khoản, Điều 2 Luật công chức quốc gia năm 1947). Ngoài các công chức đặc
biệt này, còn lại đều là công chức bình thường. Đồng thời, Luật cũng quy
định 9 chức danh công chức đặc biệt ở địa phương như công chức do bầu cử ở
địa phương được sự phê chuẩn của Hội đồng chính quyền địa phương, Giám
đốc các ban, Giám đốc kiểm toán ở địa phương... Như vậy, ngoài công chức
đặc biệt, tất cả công chức bình thường gồm cả những công chức làm việc
trong các cơ quan giáo dục công, y tế công, phúc lợi công cộng... (trường học,
viện nghiên cứu, bệnh viện, các doanh nghiệp công...).
Nghiên cứu những quy định của pháp luật (Luật công chức quốc gia
năm 1947, Luật số 129 về đạo đức công vụ năm 1999 cho thấy, khái niệm
viên chức ở Nhật Bản không tồn tại. Vì thế, có thể hiểu viên chức ở Nhật Bản
là các "công chức bình thường" làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công,
hoạt động ở các trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, doanh nghiệp hay
các đơn vị, tổ chức thực hiện dịch vụ công ở trung ương và địa phương. Tuy
nhiên, các công chức bình thường này (là viên chức theo pháp luật Việt Nam)
sẽ bị áp dụng nghiêm ngặt các loại TNPL khi vi phạm pháp luật. Trong đó, họ
sẽ bị buộc thôi việc vì lý do phạm tội hay kỷ luật.
Cùng với việc pháp luật quy định các loại TNPL (hình sự, bồi thường có thể là tổ chức, cơ quan bồi thường hoặc công chức phải bồi thường, trách
nhiệm hành chính) thì trách nhiệm kỷ luật cũng được quy định và được đề cao
đối với công chức bình thường. Cụ thể là công chức làm việc trong lĩnh vực công
có thể bị xử lý kỷ luật với các hình thức như: Cảnh cáo (Disciplinary warning),

10


tạm đình chỉ công việc (suspended from duty), buộc thôi việc (dismissed from
work). Trách nhiệm bồi thường được áp dụng sẽ bị trừ vào thu nhập hàng tháng

(reduction in pay). Những hành vi vi phạm có thể là vi phạm các điều luật quy
định trong Luật công chức quốc gia và địa phương, Luật đạo đức công vụ, vi
phạm nghĩa vụ được quy định đối với công chức, các hành vi khiến họ mất danh
dự không thể tiếp tục phục vụ nhân dân (the servant of people), thực hiện
hành vi tội phạm bị tuyên án. Thời gian bị đình chỉ công việc không được quá
một năm. Khi bị áp dụng các loại TNPL, công chức có thể khiếu nại lên cấp
trên của cơ quan đã thực hiện hành vi hay ban hành quyết định đối với công
chức (theo quy định của Luật khiếu nại hành chính năm 1962). Pháp luật cũng
quy định công chức có thể thực hiện quyền khiếu nại đối với các quyết định
hoặc hành vi xử lý áp dụng với mình bằng cách có thể khiếu nại bằng hình
thức gửi đơn tới cơ quan nhân sự quốc gia để trình bày hoặc có quyền khởi
kiện đến tòa hành chính để giải quyết vụ việc xử lý đối với mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về TNPL đối với viên chức, nhằm
hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực trạng về TNPL của viên chức qua
thực tiễn ở địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp góp
phần hoàn thiện TNPL của viên chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn mới ở thành phố Hà Nội nói riêng và ở nước ta nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài "Trách nhiệm pháp lý của viên chức - qua
thực tiễn thành phố Hà Nội" cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề cơ sở lý luận về TNPL của viên chức.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng TNPL của viên chức ở thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện TNPL của viên chức
phù hợp với thực tiễn ở nước ta trong thời gian tới.

11



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là TNPL đối với viên chức làm việc
tại ĐVSNCL và thực tiễn áp dụng TNPL của viên chức ở một số ĐVSNCL
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu TNPL của viên chức ở Việt Nam (qua thực tiễn thành phố Hà
Nội) từ khi Luật viên chức có hiệu lực pháp luật (ngày 01/01/2012) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng về Nhà nước và pháp luật, đồng thời dựa trên chính sách, pháp luật của Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách hành chính nói chung
và xây dựng đội ngũ viên chức trước yêu cầu đổi mới và hội nhập của đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, kết hợp với những phương pháp cụ thể như: Phương pháp
phân tích để làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận, thực trạng... về viên chức,
TNPL của viên chức; phương pháp lịch sử để phân tích quá trình hình thành,
phát triển của đội ngũ viên chức, TNPL của viên chức qua các thời kỳ ở mỗi
giai đoạn phát triển của đất nước. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp khác
như: thống kê, so sánh, tổng hợp... để giải quyết hợp lý những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, khoa học về lý
luận và thực tiễn về TNPL của viên chức qua thực tiễn ở địa bàn có nhiều
viên chức làm việc tại ĐVSNCL (ở thành phố Hà Nội). Luận văn có một số
đóng góp khoa học sau đây:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc hơn vấn đề cơ bản về viên
chức, đặc biệt là TNPL của viên chức trong ĐVSNCL hiện nay; qua đó, giúp

người đọc nhận thức về vấn đề này dễ dàng hơn, bao quát và toàn diện hơn.

12


- Phát hiện những điểm bất hợp lý về TNPL của viên chức hiện nay
thông qua những phân tích, đánh giá thực tiễn, những hạn chế trong quy định
của pháp luật về TNPL của viên chức trong các ĐVSNCL của nhà nước hiện nay.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng TNPL của viên chức, luận văn đề
xuất một số giải pháp cơ bản góp phần khắc phục, hoàn thiện TNPL của viên
chức ở nước ta trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về TNPL của viên chức theo
hệ thống và mang tính khoa học cao, nêu bật sự cần thiết và đề xuất một số
giải pháp góp phần hoàn thiện TNPL của đội ngũ viên chức trong ĐVSNCL
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo trung cấp luật, cử nhân luật, cử
nhân hành chính; đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nhà nước...
- Những kết luận và giải pháp rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo trong hoạt động thực tiễn quản lý nhà nước
bằng pháp luật khi áp dụng TNPL đối với viên chức hiện nay.
- Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
công trình nghiên cứu có liên quan đến TNPL và nhất là TNPL đối với viên
chức nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý của viên chức.

Chương 2: Thực trạng về trách nhiệm pháp lý của viên chức qua thực
tiễn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm
pháp lý của viên chức.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VIÊN CHỨC
1.1. Khái niệm viên chức
Ở nước ta, quan niệm về viên chức được hình thành và phát triển theo
tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, viên chức lại được quan niệm rất khác nhau ở
mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Có thời kì chúng ta sử dụng thuật ngữ
viên chức, có thời kì chúng ta không dùng thuật ngữ này, có thời kì lại hiểu
đồng nhất viên chức với công chức, cán bộ, thậm chí có thời kì chúng ta sử
dụng hai thuật ngữ công chức, viên chức trong cùng một văn bản; cũng có
thời kỳ thuật ngữ cán bộ, công nhân viên, cán bộ, viên chức, công nhân viên...
được sử dụng để chỉ những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức
của nhà nước, tổ chức xã hội và cả ở các đơn vị kinh tế của nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học thì viên chức là: "người
làm việc trong một cơ quan của nhà nước hay trong một sở tư" [120, tr. 1093].
Như vậy, định nghĩa này chỉ dừng lại ở việc quan niệm viên chức ở đặc thù là
nơi làm việc của họ, nên rất khó trong việc nhận biết được các đặc trưng khác
của viên chức. Có thể dẫn đến sự đồng nhất đối với những người làm việc
trong các cơ quan nhà nước, trừ những người làm việc theo chế độ hợp đồng
lao động, tạm tuyển… đều là viên chức.
Theo Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nhà
xuất bản Tư pháp đưa ra khái niệm:

Viên chức là người làm việc trong cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
một ngạch hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong
đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và nguồn thu từ
đơn vị sự nghiệp theo quy định của pháp luật [119, tr. 854].

14


Khái niệm này khá đồng nhất với khái niệm trong giáo trình Luật hành
chính Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội:
Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ
thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 1
của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công
chức ngày 29/4/2003, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các
nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật [121, tr. 295-296].
Với cách hiểu như vậy, hai khái niệm này chưa thực sự hoàn chỉnh,
chưa thể hiện đầy đủ các đặc trưng của viên chức và chưa phân biệt rõ viên
chức với công chức nhà nước. Tuy nhiên, khái niệm này bước đầu đã chỉ ra
một số đặc điểm của viên chức như: viên chức phải là công dân Việt Nam,
nằm trong biên chế của nhà nước; viên chức được hình thành từ việc tuyển
dụng và bổ nhiệm; viên chức làm việc trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; viên chức được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp. Đây là bước tiến lớn về nhận
thức của nhà nước ta. Khái niệm này đã giúp phân định viên chức với những
người làm việc trong các cơ quan nhà nước khác.
Luật Viên chức 2010, quy định viên chức: "Là công dân Việt Nam được
tuyển dụng theo chế độ hợp đồng làm việc, được bổ nhiệm vào một chức danh

nghề nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp công lập, hưởng lương từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật" [78, Điều 2].
Theo khái niệm này, có thể xác định viên chức nhà nước ở những đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, viên chức nhà nước được hình thành thông qua hình thức
tuyển dụng (có thể qua thi tuyển hoặc xét tuyển), thông qua việc ký kết hợp
đồng làm việc. Như vậy, viên chức được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng
làm việc, được bổ nhiệm vào một chức danh nghề nghiệp tại các ĐVSNCL.

15


Thứ hai, nơi làm việc của viên chức là các ĐVSNCL, nơi trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, cung cấp các dịch vụ công về
văn hóa, y tế, giáo dục… cho công dân, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Quy định này làm nổi bật sự khác biệt chế độ làm việc của viên chức. Viên
chức nhà nước đã thoát ly ra khỏi bộ máy công quyền, không thực hiện quyền
lực công nhà nước, mà là người thay mặt nhà nước cung cấp những dịch vụ
thiết yếu cho nhân dân - dịch vụ công, thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ
có yêu cầu về năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các ĐVSNCL
thuộc các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể
dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin - truyền
thông, tài nguyên môi trường, dịch vụ... như bác sĩ, giáo viên, giảng viên đại
học... Với việc định nghĩa viên chức bao gồm những người làm việc trong các
ĐVSNCL cung cấp các dịch vụ công cho thấy các dịch vụ được viên chức
cung ứng theo quy định của luật viên chức được tiếp cận từ góc độ hành
chính, quản lý nhà nước - đúng như theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn
Hoàng Anh: "Dịch vụ công được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Phần lớn các nghiên cứu về dịch vụ công ở nước ta hiện nay tiếp cận dịch vụ
công dưới góc độ kinh tế học và hành chính học" [3, tr. 53]. Với trách nhiệm

của mình, nhà nước phải thành lập các ĐVSNCL như bệnh viện, trường học,
cơ sở cung cấp điện, nước… để cung ứng các hàng hoá công cộng phục vụ
các nhu cầu chung và thiết yếu của xã hội; trực tiếp cung ứng các loại dịch vụ
ở các địa bàn, các lĩnh vực không thuận lợi mà thị trường không thể hay
không muốn đầu tư (như phát triển ở các vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng
kinh tế khó khăn…). Cách tiếp cận này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của
Nhà nước.
So với chế độ viên chức là "người trong biên chế" trước đây, chế độ
hợp đồng làm việc đã tạo sự thay đổi căn bản quan hệ giữa ĐVSNCL với viên
chức. Về phía ĐVSNCL, việc quản lý, sử dụng viên chức theo hợp đồng làm

16


việc cho phép đơn vị có thể tuyển chọn và thường xuyên duy trì được đội ngũ
những người làm việc có ý thức tổ chức kỷ luật, có năng lực chuyên môn tốt,
bởi lẽ nếu viên chức trong thời gian thực hiện hợp đồng có thời hạn không
đáp ứng yêu cầu của công việc thì khi hết hạn hợp đồng, người đứng đầu đơn
vị sẽ không ký kết hợp đồng tiếp với người đó nữa.
Thứ ba, công việc mà viên chức đảm nhiệm là những nhiệm vụ, công
việc cụ thể gắn với chuyên môn nghiệp vụ, đây là một trong các điểm khác
biệt cơ bản của công chức với viên chức. Viên chức đảm nhận nhiệm vụ với
quy định về yêu cầu, chất lượng chuyên môn nghề nghiệp cụ thể. Tính nghề
nghiệp thể hiện ở viên chức thường xuyên thực hiện một dịch vụ công theo
nghiệp vụ chuyên môn mà viên chức đó đảm nhiệm. Trong quá trình phục vụ,
cung cấp dịch vụ công, thực hiện các hoạt động nghề nghiệp viên chức phải
tận tụy, bảo đảm tuân thủ theo các quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử…
Thứ tư, viên chức hưởng lương từ quỹ lương của ĐVSNCL theo quy
định của pháp luật. Việc quy định viên chức hưởng lương từ quỹ lương của

các đơn vị này là một bước tiếp nối trong việc trao quyền tự chủ đối với
ĐVSNCL. Theo đó, các đơn vị được giao quyền tự chủ đồng bộ cả về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính; đơn vị tự chủ cao về tài
chính thì được tự chủ cao trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, nhân sự và tài chính. Kết quả đổi mới cơ chế hoạt động của ĐVSNCL
phải hướng tới việc cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho nhân dân, đảm bảo cho
các đối tượng chính sách và người nghèo được tiếp cận và hưởng thụ các dịch
vụ công cơ bản, thiết yếu với chất lượng cao hơn, công bằng hơn; buộc các
đơn vị này phải năng động hơn, có cơ chế chi trả lương thỏa đáng để thu hút
người tài làm việc, đồng nghĩa với việc tăng tính cạnh tranh giữa các đơn vị.
Từ những quan niệm, khái niệm về viên chức đã phân tích ở trên, có
thể hiểu: Viên chức là cá nhân có quốc tịch Việt Nam (hoặc công dân Việt

17


Nam), có đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia tuyển dụng và được cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại các đơn vị sự
nghiệp công lập của nhà nước theo chế độ hợp đồng làm việc nhằm cung cấp
dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước, được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước hoặc từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của luật
viên chức và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.2. Phân biệt viên chức với cán bộ, công chức
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010 được ban hành, chúng ta
chưa có văn bản luật nào giải thích cụ thể, rõ ràng các thuật ngữ cán bộ, công
chức, viên chức. Trong khi đó, các thuật ngữ này lại được sử dụng rộng rãi
trong quan hệ pháp lý cũng như đời sống xã hội và thường xuyên xuất hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; Luật Bình đẳng giới; Luật Luật

sư; Luật Chứng khoán; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Trợ giúp pháp lý; Luật
Công nghệ thông tin; Luật Đấu thầu; Luật Công an nhân dân; Luật Nhà ở;
Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Giáo dục… Mặc dù, từ lâu thuật ngữ
"cán bộ" không chỉ dùng để chỉ những người làm việc trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội mà còn được sử dụng rất rộng rãi
trong đời sống xã hội nhưng lại chưa được xác định cụ thể theo những tiêu chí
nhất định. Vì vậy, yêu cầu làm rõ thuật ngữ "cán bộ", "công chức", "viên
chức" là vấn đề cơ bản, quan trọng, là một nhu cầu cần thiết xuất phát từ thực
tiễn đổi mới cơ chế quản lý đặt ra hiện nay. Điều này đã được Luật Cán bộ,
công chức 2008 và sau này là Luật Viên chức 2010 giải quyết tương đối triệt
để, khoa học và phù hợp với lịch sử hình thành đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; phù hợp với thể chế chính trị và thực tiễn quản lý của Việt Nam.
Khái niệm cán bộ, công chức được quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ,
công chức 2008; theo đó:

18


Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước [77, khoản 1 Điều 4].
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ

quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật [77, khoản 2 Điều 4].
Khái niệm viên chức được quy định tại Điều 2 Luật Viên chức 2010.
Cụ thể: "Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí việc
làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật" [78].
Viên chức là người thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu
về năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các ĐVSNCL thuộc các
lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể

19


×