Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.25 KB, 14 trang )

1
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

1.Tên đề tài: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG VÀ BÌNH TÁC
PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở LỚP 8,9.
2. Đặt vấn đề:
a. Tầm quan trọng của đề tài:
Khi ta cầm trên tay ngọn nến đang cháy và di chuyển liên tục về phía trước thì ta thường
lấy bàn tay che phía trước cây nến để cho nó khỏi tắt. Trong dạy học Văn, tôi nhận thấy tác phẩm
văn học như một ngọn nến đang cháy mà người dạy Văn không chỉ che chắn cho ngọn nến ấy
không bị tắt mà cần làm cho nó tỏa sáng và đi vào lòng người một cách tự nhiên để tất cả học
sinh đều nhận được ánh sáng ấy. Để làm được đều đó, người dạy cần phải nhờ đến kỹ năng liên
tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn học.
b. Thực trạng vấn đề:
Thực tế, liên tưởng và tưởng tượng được các em thể hiện khá phong phú. Có học sinh đã
biết bám sát văn bản để lấy đó làm căn cứ xuất phát điểm và kiểm chứng cho những liên tưởng,
tưởng tượng; việc tái hiện các chi tiết tiêu biểu hoặc điển hình thường bắt đầu từ tình huống có
vấn đề hay hoàn cảnh có vấn đề. Nhưng, số học sinh có được kĩ năng đó còn rất ít, phần lớn tập
trung vào các học sinh giỏi Văn. Phần lớn học sinh còn nghèo trí tưởng tượng, bài viết còn diễn
xuông, tình cảm còn nông cạn rồi bớt dần những đam mê về môn Ngữ văn.
Sau một thời gian nghiên cứu tài liệu, áp dụng thực tế dạy học, tôi nhận thấy nếu biết vận
dụng linh hoạt và rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn
chương cho học sinh thì sẽ tháo gỡ được dần những khó khăn và đem lại hiệu quả dạy học cao.
c. Lí do chọn đề tài:
Văn chương như một cánh rừng đại ngàn với bao điều bí ẩn, chúng ta càng đi vào khám
phá càng thấy nhiều điều kì thú. Nhưng cánh rừng đại ngàn ấy cũng có thể làm chúng ta bế tắc,
lạc lối khi ta không vận dụng được những phương pháp phù hợp để tìm hiểu, khám phá nó.
Người giáo viên dạy Văn không chỉ dẫn đường cho các em đi vào khu vườn bí ẩn mà cần rèn
luyện cho các em một kĩ năng khám phá, kĩ năng liên tưởng để từ đó các em bày tỏ những cảm
xúc và suy nghĩ của mình đối với một tác phẩm văn học. Trong rất nhiều phương pháp dạy học


Văn, tôi nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác
phẩm văn chương cho học sinh là một cách dạy học khắc phục được thực trạng học môn văn
trong nhà trường tôi đang công tác. Đồng thời nó cũng đáp ứng được mục tiêu đổi mới trong dạy
học Văn hiện nay. Vì thế tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và vận dụng việc rèn luyện kỹ năng liên
tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn chương cho học sinh làm đề tài nghiên
cứu.
d. Giới hạn đề tài:
Do thời gian nghiên cứu và năng lực có hạn nên tôi chỉ vận dụng kĩ năng liên tưởng,
tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
3. Cơ sở lý luận.
Về định hướng phát triển giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa Đảng ta đã nhận định
sâu sắc thực trạng phương pháp giáo dục đào tạo ở nước ta thời gian qua chậm đổi mới, chưa
phát huy được tính chủ động sáng tạo của người học, đồng thời nêu bật yêu cầu:“Đổi mới mạnh
mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học.” Còn Luật giáo dục cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Như vậy, thêm một lần, vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học được khẳng định cả ở phương diện bản chất và mục tiêu thực hiện. Đồng thời, xuất phát
từ nhận thức rằng phần lớn nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy văn học và vận dụng cơ
chế giảng văn mới không những xem trọng tài năng toàn diện của giáo viên mà phải nghiên cứu
hoạt động học tập của học sinh. Trong môi trường tiếng nói nghệ thuật, văn chương luôn được
mở rộng nên cần đề cao trí tưởng tượng của con người. Đặc biệt là hoạt động liên tưởng, tưởng
tượng của học sinh hôm nay.
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


2
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.

==================================================================================

Hơn nữa, học giảng văn là tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật, nó có hình thức kiến trúc bằng
lời, không thấy được hình dạng, không phải là vật thể mà là một chuỗi lời nói có khả năng khêu
gợi ở người đọc, người nghe những hình ảnh trong tâm tưởng. Văn thơ chỉ nghe được bằng tai
nhưng thấy được bằng tâm trí. Giảng văn không tự nó đến được với học sinh mà phải tìm ra cung
cách tác động vào tư duy văn học, trong đó liên tưởng và tưởng tượng và bình là những nhân tố
cơ bản nhất để học sinh có khả năng nhạy bén năng động nhận ra những sáng tạo hình tượng
trong tác phẩm và tạo ra những hình tượng của bản thân mình trong quá trình giảng văn. Có thể
nói rằng, quên trí tưởng tượng, quên lời bình là bỏ đói tư duy văn học, một nội dung nhạy cảm
để bàn tiếp chất lượng giảng văn.
Như vậy, vấn đề rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác
phẩm văn chương là rất cần thiết trong việc đổi mới phương pháp dạy học văn nói chung và góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ giảng văn nói riêng.
4. Cơ sở thực tiễn:
Đây là vấn đề được các thầy cô giáo dạy văn trong các nhà trường phổ thông quan tâm
nghiên cứu nhưng đưa ra giải pháp cũng như cơ sở luận thì chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ
thể. Trong quá trình giảng dạy trên lớp, tôi đã chứng kiến không ít những liên tưởng, tưởng
tượng nông cạn và sai lệch đáng lo ngại. Đó là những bài viết phân tích ngôn ngữ hời hợt, hiểu
tác phẩm một cách chung chung-thậm chí có hiện tượng không hiểu gì về hình tượng. Biểu hiện
rõ nhất của những bài này là học sinh thường kể lại tác phẩm, đa số có xu hướng mô phỏng lời
nhà văn hoặc diễn xuôi các câu thơ, làm cho tác phẩm văn học trở nên đơn nghĩa và khuôn hẹp
phạm vi phản ánh. Chẳng hạn, có học sinh hiểu về Nhớ Rừng của Thế Lữ rằng: Một chú hổ hung
hăng dữ tợn thế ấy và lại là một chúa tể sơn lâm mà nay phải gặm căm hờn trong lồng sắt chờ
chết trước trăm nghìn đôi mắt của du khách. Thật đáng thương thay cho một loài vật hoang dã.
Bên cạnh đó, có những học sinh đã đồng nhất nhân vật văn học với tác giả: Mở đầu bài
thơ Bánh trôi nước ta đã thấy một cô Hồ Xuân Hương trẻ trung, đầy sức sống, với vẻ đẹp có thể
nói nghiêng nước nghiêng thành với nước da trắng và thân hình tròn trịa, nhưng số phận lại rất
lênh đênh, bất hạnh…
Có thể nói, nguyên nhân sâu xa của những hiện tượng kể trên là có thể do học sinh chưa

thực sự tập trung chú ý vào bài học, có thể do vốn hiểu biết về Văn học còn nghèo nàn hoặc chưa
nắm vững nguyên tắc phân tích tác phẩm, có thể do khả năng tri giác và giải mã ngôn ngữ hạn
chế, cũng có thể không có khả năng diễn đạt ý tưởng thành ngôn ngữ tường minh, có thể do khả
năng hoạt động của trí nhớ và liên kết hình ảnh kém hiệu quả, hoặc không có khả năng hình
dung và hình thành biểu tượng nghệ thuật.
Hơn nữa, hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và bình các chi tiết nội dung cũng như nghệ
thuật chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Có thể do giáo viên ít có điều kiện quan tâm đến
diễn biến hoạt động tiếp nhận của học sinh, hoặc do sự phân phối thời gian cho mỗi bài học chưa
hợp lý. Nhiều giáo viên, khi lên lớp giờ giảng văn thường đứng trước mâu thuẫn khó giải quyết.
Đó là mâu thuẫn giữa thời gian thực hiện với khối lượng công việc, khiến cho những đầu tư thích
đáng cho việc tổ chức hoạt động liên tưởng và tưởng tượng trong hệ thống việc làm tích cực của
học sinh không được đảm bảo, cũng như chưa thực sự chú ý đến những phương tiện có khả năng
kích thích hứng thú nhận thức sáng tạo của học sinh.
Vậy, rèn kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng cùng với các kỹ năng bình văn cho học sinh là
làm cho người học phải biết liên tưởng, biết tưởng tưởng, biết rút ra lời bình. Đây cũng là một
vấn đề dạy học theo hướng phát huy năng lực học sinh. Để thực hiện được điều đó, trong quá
trình dạy học phân tích văn chương tôi đã thực hiện các biện pháp dưới đây.
5. Nội dung nghiên cứu:
5.1/ Biện pháp 1: Tạo tâm thế tiếp nhận văn chương cho học sinh.
5.1a/ Bằng lời dẫn:
Với đặc thù của bộ môn, việc thể hiện lời dẫn của giáo viên trong giờ dạy học tác phẩm
văn chương có ý nghĩa không nhỏ. Lời dẫn của giáo viên khi vào bài có ý nghĩa tạo ra một tâm
thế đặc trưng cho học sinh định hướng nhận thức. Đó chính là việc thiết lập một dòng liên tưởng
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


3
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.

==================================================================================

cảm xúc hoặc mở ra một dự cảm khái quát cho những hình dung, tưởng tượng nghệ thuật của
học sinh. Lời vào bài của giáo viên phải mở ra được tình huống hay không khí mới lạ, kích thích
hưng phấn và gây được sự chú ý đặc biệt cho học sinh.
Về nội dung, lời vào bài cần ngắn gọn, xúc tích, nêu được vấn đề một cách ấn tượng, xác
định rõ ràng đối tượng cho bài học.
Về hình thức, tuỳ từng yêu cầu, đặc điểm bài học tác phẩm văn chương có thể linh hoạt
thực hiện bằng lời dẫn trực tiếp hoặc lời dẫn gián tiếp. Trong đó, lời dẫn trực tiếp là lời dẫn có
tính chất định tính, định danh vấn đề.
Ví dụ: “Giá trị tiêu biểu của nội dung Truyện Kiều là cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du
trong việc thể hiện tiếng nói ca ngợi những giá trị phẩm chất đẹp đẽ, đồng tình với những khát
vọng giải phóng và đồng cảm với số phận bi kịch của con người; tiếng nói lên án những thế lực
tàn bạo. Để tìm hiểu cụ thể một trong những nội dung tiêu biểu đó-sự đồng cảm với nỗi đau khổ
của con người, chúng ta cùng tìm hiểu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.”
Còn lời dẫn gián tiếp là loại lời dẫn có tính chất phản đề hoặc nêu vấn đề để tăng cường
sự chú ý của học sinh vào đối tượng.
Ví dụ: “Có ý kiến cho rằng, một trong những phương tiện mà đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du thể hiện trong Truyện Kiều là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Để tìm hiểu điều này, chúng ta
cùng phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
5.1b/ Bằng câu hỏi hoặc bằng tình huống từ câu chuyện hình ảnh hay câu chuyện
nhỏ mà giáo viên kể.
Câu hỏi tạo tâm thế thường có tình huống, hoặc giáo viên phải xây dựng câu chuyện tình
huống để làm tiền đề giúp học sinh định hướng được chủ đề mà mình sắp được học. Ví dụ khi
dạy bài Ánh Trăng của Nguyễn Duy, giáo viên có thể đặt câu hỏi vào bài: Có hai người bạn cũ
rất thân thời thơ ấu, bỗng gặp lại sau một thời gian xa cách, em thử hình dung điều gì sẽ xảy ra ?
Học sinh có thể phát biểu theo nhiều cách giáo viên khen và hướng các ý kiến của các em vào
bài. Với cách làm này, học sinh sẽ thấy rất hấp dẫn và gần gũi tiếp cận vấn đề trong bài học, vì
các em nhận thấy rằng đây sẽ là đề tài rất quen thuộc mà tinh tế trong mỗi con người. Hoặc cũng
từ bài học này, giáo viên cho học sinh xem câu chuyện “Chiếc bình cũ” học sinh sẽ hình dung

được chủ đề mà mình sắp được học một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Nói đến tâm thế học văn cũng là nói đến những tình huống sư phạm đặc thù mà giáo viên
thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ học tập tích cực; khơi dậy khát
khao giao cảm với thế giới nghệ thuật; khơi dậy nhu cầu giao tiếp và đối thoại với nhà văn một
cách tự nhiên, nhu cầu tự bộc lộ của bản thân và năng lực sáng tạo trong quá trình tiếp nhận.
Tình huống đó không chỉ dùng để mở đầu bài học mà nó cần được duy trì một cách thích hợp
xuyên suốt toàn bộ quá trình tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá tác phẩm văn chương.
5.2 /Biện pháp 2: Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh trong dạy
học tác phẩm văn chương:
Để tạo nên sự nhất quán về hình tượng, tạo nên sự toàn vẹn về bức tranh nghệ thuật, tạo
nên sự thống nhất sáng tỏ về tư tưởng thẩm mỹ-học sinh vừa thực hiện các thao tác chiếm lĩnh
theo trật tự tuyến tính đảm bảo cấu trúc của một giờ dạy học, vừa thực hiện các thủ pháp tiếp
nhận đặc thù xuyên thấm trong các thao tác đó. Liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh
được phát huy trong từng bước chiếm lĩnh tác phẩm vì thế cũng thể hiện vai trò, ý nghĩa tương
hợp nhằm tạo ra sự cộng hưởng-từ thao tác tiếp cận đến phân tích, đánh giá toàn bộ giá trị tác
phẩm.
5.2a/ Đọc tác phẩm
Do tính đặc thù của giảng văn, đọc là một hoạt động không thể thiếu. Đọc văn là bắt đầu
biểu hiện của tiếp nhận, nó mang đậm dấu ấn cá nhân người đọc trong những cảm nhận của mình
về tác phẩm thông qua hoạt động ngân rung và thẩm thấu âm thanh. Đọc văn không chỉ là việc
phát âm thông thường mà là quá trình “thức tỉnh cảm xúc”, quá trình tri giác và nhuần thấm tín
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


4
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================


hiệu để giải mã ngôn ngữ nghệ thuật. Để khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh,
có thể yêu cầu học sinh đọc theo các mức độ:
- Đọc lướt để tạo ấn tượng chung về những vấn đề xã hội, thẩm mỹ của cuộc sống trong tác
phẩm.
- Đọc tập trung vào “điểm sáng thẩm mỹ” để tạo nên sức biểu hiện nổi bật của bức tranh nghệ
thuật.
- Đọc nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn nhằm tạo nên sự thống nhất
về tư tưởng thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Đọc diễn cảm (hoặc nhập vai, đọc theo vai) để tô đậm giá trị nội dung tư tưởng và hình thức
nghệ thuật của tác phẩm…
Trên cơ sở của việc đọc chuẩn bị, giáo viên có thể tiến hành hướng dẫn học sinh đọc với
sự tái hiện những kiến thức mà học sinh đã tiếp nhận trong khi đọc chuẩn bị. Xác định giọng
điệu của nhà văn dựa trên dấu hiệu hình thức và nguyên tắc tổ chức hình tượng của tác phẩm, có
thể căn cứ vào thể loại, phong cách tác giả… để tìm ra đặc điểm tiết tấu âm thanh, nhịp điệu của
ngôn ngữ. Trong giờ học, đọc không chỉ xuất hiện với ý nghĩa khởi đầu mà thao tác đọc còn
tham gia suốt quá trình phân tích, so sánh, khái quát và luyện tập. Vì thế, những liên tưởng,
tưởng tượng trong giai đoạn đọc chuẩn bị vừa có ý nghĩa khởi đầu vừa xác định tâm thế cho
những rung động thẩm mỹ ban đầu; liên tưởng và tưởng tượng trong giai đoạn đọc để phân tích
có vai trò kiểm chứng, minh họa; liên tưởng và tưởng tượng trong đọc để so sánh, khái quát có ý
nghĩa tái hiện toàn vẹn bức tranh nghệ thuật của tác phẩm.
5.2b/ Phân tích, cắt nghĩa và đánh giá.
Phân tích tác phẩm là thao tác tiếp nhận mang tính chất lý tính, từng bước minh giải cụ
thể các yếu tố cảm tính và những yếu tố đã khái quát trong thao tác tiếp cận. Việc lựa chọn vấn
đề và cách thức phân tích phù hợp sẽ có ý nghĩa định hướng cho các thao tác tiếp nhận tiếp theo.
Chọn “trúng” vấn đề và cách thức phân tích phù hợp là cơ sở khách quan cho việc xác định
phương hướng của liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật ở học sinh.
Thao tác cắt nghĩa trong giảng văn là làm sáng tỏ những vấn đề đã tiếp cận và phân tích.
Cắt nghĩa thường gắn liền với lời giảng bình. Lời giảng bình của giáo viên vừa đảm bảo yêu cầu
định hướng tiếp nhận, vừa định hình kiến thức thông qua khả năng kết nối những khuynh hướng
liên tưởng tích cực và có thể gạt bỏ các liên tưởng tản mạn, liên tưởng không bản chất; đồng thời

tập trung và mở rộng tưởng tượng sáng tạo, giúp học sinh khai thác đúng và sâu sắc những
phương tiện bản chất của tác phẩm văn chương.
Ví dụ: Trong quá trình phân tích mối quan hệ giữa lão Hạc với con chó (Lão Hạc-Nam
Cao), giáo viên có thể định hướng bằng lời giảng bình: “Từ khi con trai ký giấy xin đi làm đồn
điền cao su, lão Hạc vẫn hy vọng ngày con trở về sẽ cưới vợ cho con; và theo lão, khi ấy lão mới
giết thịt con chó. Nhưng trước tình cảnh khốn khó, lão đã phải bán “cậu Vàng”. Việc đó cũng
đồng nghĩa với việc lão Hạc đã tiêu diệt hy vọng cuối cùng và lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết bế
tắc của mình. Tuy nhiên về nguyên nhân sâu xa, lão bán “cậu Vàng” còn một lý do khác, theo em
đó là lý do gì?”.
Đánh giá là thao tác khái quát tác phẩm văn chương. Có thể đánh giá bằng nhận định
hoặc nêu vấn đề tranh luận, so sánh mở rộng vấn đề, hướng tới nhu cầu tự nhận thức của học
sinh, nhằm hình thành kỹ năng “phân biệt”, kỹ năng “định hình” và khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Qua phân tích mối quan hệ giữa lão Hạc với con chó, ta có thể cho học đánh giá về tình
cảm của lão Hạc đối với con chó.
5.3 Biện pháp 3: Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng.
Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng nhằm mục đích gợi mở, vận dụng trí nhớ, lựa chọn và
huy động tối đa kinh nghiệm cá nhân, hướng học sinh vào hiện thực tâm lý của tác phẩm bằnh
những câu trả lời kiến thức, xác lập mối quan hệ giữa tác phẩm với nội dung bài học.
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


5
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

Yêu cầu của loại câu hỏi này là đặt học sinh trước nhu cầu tái hiện hình tượng tác phẩm
làm căn cứ cho những kiến giải và cắt nghĩa nghệ thuật. Những liên tưởng, tưởng tượng thể hiện
qua việc trả lời các câu, trả lời các câu hỏi này sẽ là những sợi dây nối kết những chân trời kiến

thức, sẽ là hình tượng tác phẩm được tiếp nhận một cách trọn vẹn.
Ví dụ: hệ thống câu hỏi khi dạy học tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao như sau:
+ Em hãy xác định vai kể và quan hệ giữa người kể với nhân vật chính trong truyện?
+ Đọc câu chuyện, chúng ta thấy tác giả xây dựng hình ảnh nhân vật lão Hạc trong mối
quan hệ nào?
+ Trong mối quan hệ đó, đâu là mối quan hệ có vai trò mở đầu câu chuyện?
+ Tại sao lão Hạc lại phân vân, đắn đo trước việc bán một con chó?
+ Đọc tác phẩm, em thấy lão Hạc quý con chó như thế nào?
+ Theo em, tại sao lão Hạc lại quý con chó như vậy?
+ Yêu quý “cậu Vàng” như vậy, tại sao lão vẫn phải bán nó? Tâm trạng của lão khi bán
nó như thế nào?
+ Hãy tưởng tượng lại cảnh tượng trên và theo em vì sao lão Hạc lại xúc động như vậy?
(Câu hỏi liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh)
+ Tuy vậy, về cách sống của lão Hạc trong tác phẩm vẫn còn có các ý nghĩ khác? Theo
em, vì sao họ lại nghĩ như vậy? (Câu hỏi tưởng tượng về khả năng phát triển của hình tượng
nghệ thuật trung tâm)
+ Qua cách nghĩ của ông giáo về lão Hạc, em có nhận xét gì về ông giáo? (Câu hỏi liên
tưởng mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau)
+ Em có nhận xét gì về nghệ thuật xây dựng truyện Lão Hạc của Nam Cao? (Câu hỏi liên
tưởng, tưởng tượng về điểm nhìn nghệ thuật của tác giả với hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm)
+ Theo em, chủ đề của tác phẩm là gì? (Câu hỏi liên tưởng hiện thực xác định của tác
phẩm trong quan hệ với hiện thực của đời sống xã hội)
Nhằm phát huy ưu điểm của các câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng, cần kết hợp thực hiện
một chuỗi các công việc từ đọc đến dẫn dắt các vấn đề, gợi mở, yêu cầu học sinh phân tích, tổng
hợp, so sánh, khái quát…, đặt biệt là không tách rời hệ thống câu hỏi trong dạy học tác phẩm.
5.4. Biện pháp 4: Đa dạng các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh:
Luyện tập là thao tác sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá, cũng là biện pháp để giáo viên
thu nhận tín hiệu phản hồi từ kết quả lĩnh hội của học sinh; đồng thời qua đó khắc sâu kiến thức
của học sinh theo định hướng của giáo dục.
Có nhiều hình thức và biện pháp thực hiện thao tác luyện tập như: đọc diễn cảm, đọc

phân vai; tái hiện một tình huống then chốt trong tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm; hình dung dự
đoán kết thúc tác phẩm; đặt lại tên tác phẩm; xây dựng lời thoại hay lời tâm sự với nhân vật; tập
so sánh, khái quát…
Ví dụ 1: Hãy thử tưởng tượng tâm trạng của tráng sĩ làng Gióng sau khi đánh tan giặc Ân
rồi cùng ngựa bay lên trời.
Ví dụ 2: Em hãy viết một bức thư chia sẻ tâm sự với nhà văn về cách xây dựng truyện Cô
bé bán diêm.
Ví dụ 3: Hãy kể một tấm gương thiếu niên hy sinh dũng cảm mà em đã được nghe, được
đọc? (Sau khi đọc bài Lượm của Tố Hữu)
5.5 Biện pháp 5:Bình tác phẩm văn chương
Nếu hoạt động liên tưởng tưởng tượng là làm cho học sinh hiểu nghĩa, vỡ nghĩa, là chắp
đôi cánh tưởng tưởng để các em đi vào tác phẩm thì bình trong giờ giảng văn là tiếp cho các em
sức mạnh để khám phá sâu hơn vào khu rừng bí ẩn của văn chương. Không chỉ là chắp cánh mà
còn thổi vào đó cái hồn để học sinh có tình cảm thật đặc biệt đối với những văn bản mà các em
được học, từ đó có phương pháp cảm nhận về Văn học sau này. Qua thực tế giảng dạy, đối với
học sinh lớp 8,9 tôi thường tạo điều kiện cho học sinh bình sau đó giáo viên bình lại để củng cố
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


6
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

lời bình và làm cho tiets học thêm sâu.Với hoạt động này, bản thân tôi đã thực hiện bình trong
các trường hợp sau:
5.5a/ Giúp học sinh bình để nói lên tâm sự của mình khi hiểu về văn bản:
Ví dụ: sau các khi tìm hiểu cái chết của Lão Hạc, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh bình.
Em cảm nhận gì về cái chết của Lão Hạc?

Học sinh có thể nói lên tư tưởng chủ quan, cũng có thể bày tỏ tình cảm, tư tưởng tình
cảm của mình. Sau đó giáo viên bình lại: đứng trước cái chết đầy vật vã của Lão Hạc ta không
khỏi chạnh lòng và suy nghĩ về một kiếp người, một nhân cách. Lão đã sống trong nghèo, chết
trong nghèo đói, nhưng sống một cách cao thượng và chết cũng rất cao thượng, đáng để chúng ta
ngưỡng mộ và cầu mong cho linh hồn trong sáng của Lão sớm được siêu thoát.
5.5b/ Giúp học sinh bình cũng là đánh giá văn bản:
Có khi lời bình là lời khen, chê trực tiếp nhưng có ý nghĩa khái quát về giá trị của văn
bản.
Ví dụ: Vì sao nhà thơ Thanh Hải hình ảnh mùa xuân như Xuân chín, Xuân xứ Huế, Xuân
đất nước mà nói là Mùa Xuân Nho Nhỏ?
Học sinh có thế bình trên cơ sở đánh giá đây là hình ảnh độc đáo đầy sáng tạo của tác giả
và nói hộ tấm lòng của nhà thơ đối quê hương đất nước, đối với cuộc đời một cách chân thành và
sâu sắc nhất.
5.5c/ Giúp học sinh bình trên cơ sở so sánh đối chiếu.
Thực hiện lời bình theo con đường so sánh, giáo viên và học sinh phải có nhiều vốn liếng
thì lời bình càng sâu. Nhưng với mức độ học sinh 8,9 tôi chỉ vận dụng và tập cho các em cách so
sánh các hình ảnh, các tác phẩm ngay trong chương trình.
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, giáo viên đặt
câu hỏi: Em có cảm nhận gì về hình ảnh người lính văn bản “Những ngôi sao xa xôi”, “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” và “ Đồng chí”?
Học sinh vừa trả lời nhưng thực tế là đang tập cho mình một kĩ năng bình về văn bản,
biết so sánh, đối chiếu và nhận xét về những điểm tương đồng của hình ảnh anh lính cụ Hồ trong
hai cuộc kháng chiến là các em đã vận dụng được sự liên tưởng phong phú khi học các tác phẩm
trên. Trên cơ sở đó, giáo viên bình lại: Họ đều là người lính, mang trên mình sứ mệnh của non
sông, các anh tuy mỗi biểu hiện khác nhau lúc nhiệt thành sôi nỗi, lúc sâu lắng lãng mạn, lúc
căng thẳng đến tim ngừng đập nhưng đều hòa một nhịp vì lí tưởng giải phóng quê hương, thống
nhất đất nước. Các anh đã truyền cho ta khí thế của một thời anh dũng của quê hương.
Trong giờ học Văn lời bình diễn ra cũng rất tự nhiên, nhiều điểm trong khi dạy tác phẩm
văn chương, nhưng bản thân chỉ nêu ra những trường hợp thường dùng vì những trường hợp này
gắn với quá trình dạy cho học sinh liên tưởng, tưởng tưởng trong tác phẩm.

6. Kết quả nghiên cứu:
Như chúng ta đã biết, với vị trí quan trọng và thế mạnh riêng trong chương trình, môn
Ngữ văn trước hết giúp người học tiếp xúc với vẽ đẹp kỳ diệu và phong phú của tiếng mẹ đẻ,
tiếp xúc với vốn văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại kết tinh trong tác phẩm văn học-để bồi
dưỡng tâm hồn, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh. Trong đó,
giảng văn (phân tích tác phẩm văn chương) luôn luôn hàm chứa những thách thức nghề nghiệp
và đòi hỏi nhiều năng lực sáng tạo đặc thù của cả giáo viên và học sinh. Mà việc đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn-ngay từ thực tiễn cũng như những bình diện lý luận: hướng đi, cơ chế,
cách thức tiến hành… đang là vấn đề còn nhiều bức xúc; việc rèn luyện tư duy sáng tạo trong
quá trình dạy học tác phẩm văn chương cũng nhằm góp phần lý giải những biểu hiện đặc trưng
của tâm lý sáng tạo trong quá trình cảm thụ và tiếp nhận văn chương. Rèn luyện kỹ năng liên
tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn chương ở lớp 8,9 đồng thời cũng góp
phần xác lập mối quan hệ đặc thù giữa tác phẩm-nhà văn với bạn đọc-học sinh trong quá trình
chuyển hoá từ chủ thể tiếp nhận sang chủ thể văn học. Nói tới quá trình tiếp nhận tác phẩm văn
chương là nói tới hoạt động tổ chức, hướng dẫn nhận thức của giáo viên và hoạt động của học
sinh nhằm chiếm lĩnh một đối tượng thẩm mỹ là tác phẩm văn học, đồng thời cũng nói tới bản
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


7
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

chất của phương thức sáng tạo đặc thù được qui định trước hết bởi tính chất nhà trường của môn
học. Chính tính chất này nảy sinh một cơ chế tiếp nhận văn học đặc biệt, bao gồm mối liên hệ tác
động tích cực giữa các thành tố: Giáo viên-Tác phẩm-Học sinh, trong đó liên tưởng và tưởng
tượng nghệ thuật của học sinh có vai trò như cầu nối giữa khát vọng, sở thích của mình với tầm
đón đợi của tác phẩm văn học-ý đồ sáng tạo của nhà văn.

Và nói tới vấn đề rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác
phẩm văn chương không thể không nói tới đối tượng-mục đích-phương thức-cơ chế và giới hạn
của liên tưởng, tưởng tượng trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ những hoạt động khác của học
sinh trong quá trình chiếm lĩnh giá trị tác phẩm như: đọc, kể, tóm tắt, phân tích, so sánh, khái
quát…
Chính vì vậy, từ khi thực hiện một số giải pháp rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng
tượng trong dạy học tác phẩm văn chương ở các lớp của khối 8, 9 qua nhiều năm, kết quả mang
lại rất khả quan.
Thực tế cho thấy rằng, sau một thời gian rèn luyện thì số lượng học sinh có những liên
tưởng, tưởng tượng nông cạn, sai lệch về tác phẩm văn chương giảm nhiều. Số lượng học sinh có
những liên tưởng, tưởng tượng tích cực tăng lên đáng kể. Kết quả khảo sát được như sau:
Năm học
Lớp
Chất lượng bài kiểm tra khi chưa thực Chất lượng bài kiểm tra khi chưa
hiện chuyên đề.
thực hiện chuyên đề.
2012-2013 9/3
36% trung bình trở lên
74% trung bình trở lên
Sau một thời gian vận dụng chuyên đề, tôi đã nhận thấy tỉ lệ học sinh biết liên tưởng, tưởng
tượng, biết bình tăng lên hằng năm như sau:
Năm học
Lớp Tỉ lệ học sinh biết liên tưởng, tưởng Tỉ lệ học sinh biết
tượng
bình
2012- 2013
9/3
56%
33%
8/3

52%
30%
2013-2014
9/3
72%
51%
8/2
58%
47%
2014-2015
9/2
76%
55%
8/3
59%
51%
Trải nghiệm cách dạy học này trong năm học 2012-2013, sang năm học 2013- 2014, tôi tiếp tục
thực hiện xây dựng thành chuyên đề cấp tổ, cấp trường. Được sự giúp đỡ của bạn bè trong tổ bộ
môn, tôi đã thực hiện thành công ở chuyên đề cấp trường . Chuyên đề đã được sự đồng thuận,
nhất trí về tính khả thi, được sự ủng hộ nhiệt tình của bạn bè trong bộ môn Ngữ văn. Tất cả các
kết quả đạt được đó đã thúc đẩy tôi tiếp tục thực hiên đề tài này trong năm học này và trong
những năm tiếp theo.
7. Kết luận
Tóm lại, khi thực hiện Rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học
tác phẩm văn chương ở lớp 8,9 giúp tôi phần nào nhận thức kiểm soát và điều khiển được quá
trình tiếp nhận văn học của học sinh thông qua liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật. Đồng thời nó
góp phần khắc phục những bất cập của phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo lối
truyền thụ một chiều; khẳng định xu hướng tất yếu của đổi mới phương pháp dạy văn theo quan
điểm: “Dạy học hướng vào hoạt động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh hình thành năng lực
tự thông hiểu và vận dụng kiến thức”. Và tôi thiết nghĩ, chất lượng và hiệu quả giờ văn được xác

định không chỉ ở những kết luận hay những ấn tượng sâu sắc đọng lại ở học sinh mà điều quan
trọng còn là con đường đi đến kết luận thông qua đặc trưng của phương thức tư duy tiếp nhận
sáng tạo, khả năng tự khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm văn học của học sinh.
Như vậy, những thao tác tiếp nhận trước, trong và sau giờ học nhằm kích thích và phát
huy năng lực liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật của học sinh được xác định vừa như điều kiện,
vừa như những giải pháp tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm văn chương. Liên
tưởng, tưởng tượng tích cực trong dạy học tác phẩm văn chương được xác định là những liên
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


8
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

tưởng, tưởng tương nghệ thuật có tính định hướng thẩm mỹ, không chấp nhận sự suy diễn chủ
quan, vô lý ngoài văn bản. Đó cũng là nét riêng biệt của liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học
tác phẩm văn chương so với các loại liên tưởng, tưởng tượng khác trong đời sống. Tuy nhiên cần
có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa các biện pháp nhằm tạo ra hiệu ứng cộng hưởng tích
cực mới thực sự là điều quan trọng.Tôi tin chắc rằng, nếu giáo viên quan tâm đến vấn đề rèn
luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng trong mỗi giờ dạy học tác phẩm văn chương thì chất
lượng sẽ được nâng lên.
Rất mong quí đồng nghiệp tham khảo, cùng đóng góp ý kiến để chuyên đề ngày một hoàn
thiện hơn.
8. Đề nghị:
Để đề tài mang tính khả thi, tôi xin được đề nghị một số vấn đề sau:
- Đề tài mang tính chất rèn luyện kĩ năng, nên phạm vi sử dụng có thể mở rộng liên
tưởng cho học sinh khối 6,7.
- Để tập cho hoc sinh tâm thế học tâp cho hoc sinh, giáo viên nên sáng tạo các câu

chuyện, tình huống thực tiễn phải thường xuyên.
- Để đa dạng các hình thức luyện tập sang tạo giáo viên nên xây dựng ngân hàng câu hỏi,
tập hợp các tư liệu dạy học để dùng chung cho tiết kiệm bớt công sức thu thập và tìm kiếm.
9. Phụ lục:
Trong chuyên đề tôi đã chắc lọc sử dụng các văn bản từ sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ
văn lớp 8,9 trong chương trình THCS.
- Trang wep: />10. Tài liệu tham khảo:
SGK Ngữ Văn 8,9 ( Nhà xuất bản Giáo dục)
SGV Ngữ Văn 8,9 ( Nhà xuất bản Giáo dục)
Tài liêu tập huấn: Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề ( Tác giả: PGS.TS Nguyễn Văn Khôi,
PGS.TS Lê Huy Hoàng, ThS Vũ Thị Mai Anh- Nhà xuất bản Đai Học Sư Phạm)
Tài liệu: Phương pháp giảng dạy Văn học của GS Phan Trọng Luận- tài liệu lưu hành nội
bộ của Đại học Huế.

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


9
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

11. Phụ lục:
1. Tên đề tài………………………………………………………..Trang 1
2. Đặt vấn đề ………………………………………………………Trang 1
3. Cơ sở lí luận …………………………………………………….Trang 1
4. Cơ sở thực tiễn …………………………………………………..Trang 2
5. Nội dung nghiên cứu …………… …………………………… ..Trang 3
6. Kết quả nghiên cứu ……… ……………………………………..Trang 9

7. Kết luận …………………………………………………………Trang10
8. Đề nghị …………………………………………………………..Trang11
9. Tài liệu tham khảo ……………………………………………….Trang 11
10. Mục lục ………………………………………
Trang 12

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


10
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015
CỦA HĐKH TRƯỜNG : THCS VÕ THỊ SÁU

1. Tên đề tài: Rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm
văn chương ở lớp 8,9.
2. Họ và tên tác giả: ..Trần Thị Chiêu
3. Chức vụ : Tổ Trưởng Chuyên Môn; Tổ: Ngữ Văn
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm: ..............................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................

..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
b) Hạn chế: ...............................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường :.............................................
thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định:
(Ký, ghi rõ họ tên)

Chủ tịch HĐKH
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


11
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

...........................................ký .....................
...........................................ký .....................

PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015

CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC

Đề tài: Rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn
chương ở lớp 8,9.
Họ và tên tác giả: Trần Thị Chiêu
Đơn vị: Trường THCS Võ Thị Sáu
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần

Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài

Điểm
tối đa

1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề

1

3. Cơ sở lý luận

1

4. Cơ sở thực tiễn

2

5. Nội dung nghiên cứu


9

6. Kết quả nghiên cứu

3

7. Kết luận

1

8.Đề nghị
9.Phụ lục
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục
12.Phiếu đánh giá xếp loại

Điểm
đạt
được

1
1

Thể thức văn bản, chính tả

1

Tổng cộng

20đ


Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


12
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

(Người thứ nhất, ký và ghi rõ họ tên)

PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC

Đề tài: Rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm văn
chương ở lớp 8,9.
Họ và tên tác giả: Trần Thị Chiêu
Đơn vị: Trường THCS Võ Thị Sáu
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần

Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài

Điểm
tối đa


1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề

1

3. Cơ sở lý luận

1

4. Cơ sở thực tiễn

2

5. Nội dung nghiên cứu

9

6. Kết quả nghiên cứu

3

7. Kết luận

1

8.Đề nghị
9.Phụ lục
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục

12.Phiếu đánh giá xếp loại

Điểm
đạt
được

1
1

Thể thức văn bản, chính tả

1

Tổng cộng

20đ

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


13
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
(Người thứ Hai, ký và ghi rõ họ tên)


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015

I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT Đại Lộc.
1. Tên đề tài: Rèn luyện kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình trong dạy học tác phẩm
văn chương ở lớp 8,9.
2. Họ và tên tác giả: Trần Thị Chiêu
3. Chức vụ: Tổ Trưởng Chuyên Môn; Đơn vị : Trường THCS Võ Thị Sáu
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm: ..................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
b) Hạn chế: ..................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT : Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài
trên, HĐKH Phòng GD&ĐT Đại Lộc thống nhất xếp loại: ...............
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
1/ Họ tên ....................................................
Ký .............................................................
2/ Họ tên .....................................................

Ký .............................................................
III. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam thống nhất xếp
loại: ...............
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu


14
SKKN : Rèn luyện kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và bình tác phẩm văn chương ở lớp 8,9.
==================================================================================

............................................................
............................................................

=========================================================
GV : Trần Thị Chiêu
-------//------Trường THCS Võ Thị sáu



×